Exile







Tôi chọn cái tít The Witness of Poetry [The Charles Eliot Norton Lectures 1981-82], không phải chúng ta chứng nó, mà nó chứng chúng ta, not because we witness it, but because it witness us. Milosz viết. Theo ông, Tây Phương có quá nhiều sách về thơ, thay vì thơ, và đây không phải 1 dấu hiệu tốt. Cả đời ông, ông bị quỉ ám, và cái việc tại làm sao thơ chọn ông, ông không hiểu được– all my life I have been in the power of a daimonion, and how the poems dictated by him came into being I do not quite understand – Mít kêu là được thần thơ nhập, chắc cũng rứa!
Ông cũng cho biết, rất sớm sủa ông đã cảm nhận ra sự đe dọa từ phiá Đông – I certainly felt a sense of menace from the East very early, nhưng không phải là từ Ky tô giáo phía Đông, lẽ tất nhiên, nhưng từ cái nổi lên như là hệ quả của sự thất bại của nó, and not from Eastern Christianity, of course, but from what has arisen as a result of its defeat.

Chương Điêu Tàn và Thơ, Ruins and Poetry, rất tuyệt, và rất có ích cho Mít chúng ta, nếu đọc nó theo kiểu THNM, thì có thể giải thích Cái Ác Bắc Kít, và nó gây họa vào thời điểm nào ở xứ Mít.

Sở dĩ Milosz nhấn mạnh ý nghĩa của cái tít cuả cuốn sách viết về thơ của ông, "nó chứng tao, không phải tao chứng nó", có thể, trong "tiềm thức" của ông, đã ngửi ra mùi thúi của cuốn 40 năm thơ Mít lưu vong rồi!

Chứng cớ? Edward Hirsch, trong bài viết về thơ Ba Lan, giải thích:

Polish poetry has often been called a poetry of witnessing, but that notion needs some refining and expanding. Polish poets themselves have often shown an ambivalence about being so-called "witnesses" to history. Milosz called his Charles Eliot Norton Lectures at Harvard The Witness of Poetry, but he also wrote a letter to the New York Review of Books objecting to a praiseworthy review by A. Alvarez that called him a "witness." In Milosz's view, the label narrowed the meanings of his poetry and implied that his poems were a kind of journalistic response to events. Milosz's ambivalence points out that Polish poets are in some sense metaphysical poets forced to become historical ones. While they could not help being aware of the history inflicted upon them, they nevertheless .have remained most keenly interested in exploring the nature of reality at even deeper levels, meditating on life's essences.


Poetry and History: Polish Poetry after the End of the World

In 1973, when I was twenty-three years old, I decided to stop in Warsaw during a year I was traveling in Europe. From that trip I remember one chilly gray dusk in particular when I walked through the neighborhood that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling home from work, but their activity only seemed to accentuate the eerie and even ghostly absence of all those missing persons, an annihilated people. One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty absence and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the World," and "Dedication." This last poem was addressed to "You whom I could not save," and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter set a standard of moral seriousness in poetry:

What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without knowing it,
That I discovered, late, its salutary aim,
In this and only this I find salvation.

Milosz's early poems are all haunted by survivor's guilt, the poignancy of living after what was, for so many, the world's end. Poetry here becomes an offering to the dead, a form of expiation, a hope for redemption.
    Reading the work of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa Szymborska-the half-generation after Milosz-I soon discovered that all of postwar Polish poetry was similarly haunted by guilt, initiated in the apocalyptic fires of history. These writers shared an important collective experience, and the formative nature of that experience helped shape the spirit of their work. Born in the early 1920s, they grew up during one of the few periods of independence in Polish history, but they came of age during the terrible years of World War II. Poland lost six million people during the war, nearly one-fifth of its population, and the young writers felt the almost crushing burden of speaking for those who did not survive the German occupation. "I am twenty-four / led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:

They used to pour millet on graves or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised as birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you should visit us no more.

Edward Hirsch: How to Read a Poem and Fall in Love with Poetry


Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu. Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn, nhưng hình như càng làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi mà đã cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm sao, là cái mặc cảm sống sót, cái nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái tận cùng thế giới đó.

Thơ như thế, là 1 dâng tặng cho người chết, một hình thức cứu chuộc.


Đọc Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz – tôi liền khám phá ra là, tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì đúng là bị ám ảnh bởi tội lỗi, bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....

40 năm thơ lưu vong Mít, đâu có thứ thơ như trên?
Không tản mạn bên ly cà phê, thì lặn lội về Kinh Bắc châm đóm cho nhà thơ mê gái HC hút thuốc lào, hoặc chầu chực vấn an đao phủ Mậu Thân....

Cái mặc cảm sống sót, tại sao tên khốn đó, lại chừa tôi ra, cái nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái tận cùng thế giới đó, cái thứ thơ như là hình thức cứu chuộc, thơ Mít, trong cũng như ngoài, đâu có?

http://tanvien.net/Viet/5.html

Lưu Vong và Mít
Nhân đọc bài viết của Nguyễn Hải Hà (1)
Bài viết, đa phần dựa vào cuốn của Ha Jin, "Nhà văn như tên di dân", và đúng như cái tít của nó, ông nhà văn Tầu này thực sự cũng không tin vô, thứ nhà văn lưu vong.
Ông ta cũng nói về giống nhà văn Tẫu của mình y chang, khi cho rằng, nhà văn Tẫu mà đếch có bạn, đếch có ly cà phê kế bên, là không sống được chứ đừng nói, là nhà văn nhà thơ.
Nhận xét của ông này áp dụng cho nhà văn Mít quá đúng. Chính đám Mít cũng không hề tin, trong số họ, có 1 tên là nhà văn lưu vong. Ông nào cũng bò về hết cả rồi, làm gì có đơn, mà đòi kép!
Vô tình Ha Jin, qua cái tít của mình, nói lên điều mà tay thư ký Nobel đã từng nói, khi đám Mẽo đòi Nobel, làm gì có lưu vong, mà đòi Nobel.
Với Mẽo, chỉ có văn chương di dân mà thôi.
Cao Hành Kiện, với ông này, quả có thứ văn chương lưu vong, vì theo ông, đây là cốt tử của văn chương:
Nếu gọi là văn chương, thì phải là lưu vong.
Người ngửi ra số phận lưu vong của chỉ 1 nhà văn nhà thơ Mít, là ông anh nhà thơ của GCC, khi, không hiểu bằng cách nào, ông tưởng tượng 1 tên như vậy, và tên này, đành bỏ lưu vong, trở về lại xứ Mít - mà anh ta phịa ra là, vì người yêu và đứa con trong bụng của mình kêu réo, anh ơi, bố ơi, về đi, vợ con cần anh - nên anh bò về - để chết lãng nhách như 1 tên VC!
Có 1 cái gì đó, trong cái chết này, làm nhớ đến cái bào thai chết của đứa trẻ Mít, trong nhà văn Linda Lê.
Và bà này, cũng tin rằng, nhà văn phải lưu vong, và lưu vong, thì giống như cái bào thai chết trong bụng ta!
Về lưu vong 
Lưu vong là cứu rỗi. Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải là lưu vong. Mục đích là viết. Có rất nhiều nhà văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi khi sự đàn áp không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải bỏ đi. Thí dụ James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng hề quay trở lại. Có một sự đàn áp về tâm lý ở Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong. Không, một nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh ta có thể tự cứu mình, đây là một trường hợp từ cổ xưa cho mãi tới ngày này. 
Sau khi Mao chết [1976], sau Cách Mạng Văn Hóa, xã hội TQ có một thời kỳ tương đối cởi mở, và tôi có thể đi du lịch, nhìn tới nhìn lui những sự vật, con người. Lingshan [Linh Sơn] là về sự tìm kiếm một khởi điểm cho tâm thức, kiếm điểm nhập tầng tâm linh. Nó hầu hết được viết ở TQ và xuất bản ở Pháp, nhưng tôi phải đợi sau khi Mao chết, vậy mà khi đó vẫn không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu viết nó vào năm 1982.
Cao Hành Kiện



NGUYỄN THỊ HẢI HÀ
Vài Điều Suy Nghĩ
Về Ngày Trở Về Của Nhà Văn Lưu Vong
biên khảo

Một ngày không tên vào cuối thập niên bảy mươi tôi được tặng một tập thơ mỏng của Nguyễn Đức Sơn, trong đó có một bài thơ mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ.
Ôi biết ngày nao anh trở lại
Vườn xưa cây trái ngả nghiêng sầu
Anh đi trong nắng tàn hoang dại
Thấy lá sầu riêng bạc hết màu[1]
Bài thơ cho tôi cảm tưởng nhà thơ sắp đi rất xa, có thể biệt xứ, không còn cơ hội trở về. Tuy nhiên đến nay nhà thơ vẫn còn ở Việt Nam, có nghĩa là, ông chỉ di chuyển đến một địa phương khác; thế mà đã buồn đến bạc lá sầu riêng.
Loanh quanh trong nước, vẫn có cơ hội quay về mà đã thương nhớ quê nhà đến thế; những người phải lìa bỏ quê hương, vượt đại dương, không còn đường trở về, nỗi nhớ có lẽ càng khắc khoải hơn. Việt Nam có hai cuộc di cư vĩ đại; từ Bắc vào Nam và từ miền Nam sang nước ngoài. Tôi cũng biết, có những cuộc vượt biên từ miền Bắc hay tập kết ra Bắc, nhưng bài này xin chỉ giới hạn trong việc quan sát ý muốn và hành động trở về của một số văn nghệ sĩ di cư từ Bắc vào Nam và từ miền Nam sang tị nạn ở nước ngoài.
Đã có nhiều định nghĩa về văn nghệ sĩ lưu lạc, lưu đày, lưu vong, tị nạn, di dân, và nhập cư. Mỗi từ mang một ý nghĩa chính trị khác nhau. Trong bài này để giản dị hóa tôi xin được dùng từ lưu vong để chỉ chung cho cả hai trường hợp di cư và tị nạn. Đơn giản, dùng từ này vì nghe quen tai. Văn nghệ sĩ tôi quan sát gồm có ba nhóm: di cư trước tị nạn sau (Phạm Duy, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Trùng Dương), tị nạn (Võ Phiến, Trần Hoài Thư, Lê thị Huệ, Nguyễn thị Thảo An[2]) và một số nhà văn sinh ra ở Việt Nam nhưng lớn lên ở hải ngoại (Kim Thúy, Andrew Lam)[3]. Sự trở về ở đây bao gồm hai mặt: một cách hiện thực với thân thể của văn nghệ sĩ, và biểu tượng, bằng tác phẩm.

Có thật ai bỏ xứ ra đi đều muốn quay về hay đó chỉ là ý nghĩ lãng mạn chỉ xuất hiện trong văn thơ hay nhạc? Chúng ta lớn lên với quan niệm đã được cấy sẵn vào đầu. Cây có cội, nước có nguồn. Chim có tổ, người có tông. Hễ có những cuộc ra đi là tự nhiên ngầm coi như có những lời hứa hẹn sẽ trở về. Ha Jin, nhà văn Trung quốc lưu vong ở Hoa Kỳ quả quyết rằng tất cả mọi người khi lưu lạc đều thương nhớ quê nhà và muốn trở về. “Đa số những người lưu vong đều ấp ủ một mơ ước ngày nào đó trở về quê hương. Nỗi niềm nhung nhớ này thường làm họ mất phương hướng và ngăn ngừa họ bắt rễ ở bất cứ nơi nào.” (Jin, The Writer As Migrant, 2008, p. 63)[4] Ha Jin định nghĩa quê hương như sau: “Theo thường lệ, quê hương của một người là xứ sở nguồn cội của người ấy. Nơi nầy người ấy thường mong muốn trở về dù đi đến bất cứ nơi nào.” (Jin, The Writer As Migrant, 2008, p. 65)[5]
Phạm Duy, là người thể hiện mạnh mẽ nhất cái ý muốn trở về quê hương. Tôi quan sát Phạm Duy như một thi sĩ vì một số lớn ca từ của ông là thơ được phổ nhạc.  Bài Thuyền Viễn Xứ mang nỗi sầu cố lý mênh mông. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể khẳng định sầu hoài hương có nghĩa là muốn hồi hương. Trong Come back to Sorrento, Phạm Duy đặt lời Việt thành Trở Về Mái Nhà Xưa, ông đã thể hiện mơ ước trở về chốn cũ. “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Về đây với màu gió ngày lang thang. Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng…” Đây là một bản nhạc Ý, độc giả có thể đọc bản chính và bản dịch ở Wikipedia[6], tuy nhiên lời Việt của Phạm Duy lập đi lập lại hai chữ về đây như một xác định trở về dù chỉ là quay về với điêu tàn. Ngay cả khi chọn bản nhạc này để đặt lời, phải chăng ý muốn trở về đã nằm trong tâm tưởng của ông? Một bản nhạc ngoại quốc khác ông viết “Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà. Giàn thiên lý đã xa mãi ngàn xa…Tìm một miếng đất cho gã si tình…Nàng hãy chôn trái tim non buồn thương.”[7] ca từ thể hiện sự nhớ thương quê nhà, hoàn toàn khác bài dân ca của bản nhạc gốc. Ở Ngày Trở Về, chúng ta cũng có thể tưởng tượng Phạm Duy là anh chàng thương binh trở về quê nhà, để gặp lại mẹ già đã mù lòa, người vợ trẻ thành đóa hoa tàn tạ, và tiếng cười đùa trở thành giọng hát rầu rầu. Khi sang Hoa Kỳ ý muốn trở về của Phạm Duy rõ rệt hơn. “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, nhà của đôi ta xinh xinh nhỏ bé…” Nhà, ở đây có thể là giàn thiên lý, mảnh vườn, miếng nấm mồ, hay là cõi chết nơi ông được ở lại muôn đời. Cuối cùng, Phạm Duy đã trở về, bằng hình hài xương thịt. Khi di cư ông là một trong những người đi trước. Khi trở về ông cũng đi trước rất nhiều người.
Alexander Solzhenitsyn, suốt mười tám năm lưu đày, sống ở tiểu bang Vermont Hoa Kỳ luôn mong muốn trở về quê hương. Ông từ chối không vào quốc tịch Mỹ, và thường nói rằng ông sống chỉ viết cho người Nga đọc. (Jin, Writer As Migrant, 2008, pp. 5-7).   Milan Kundera thì trái lại. Xuất thân là người Czech, tác phẩm của ông bị cấm lưu hành ở xứ ông sinh ra. Năm 1975 ông di cư sang Pháp. Lúc 60 tuổi ông bắt đầu viết văn bằng tiếng Pháp. Ông luôn nhấn mạnh, ông là nhà văn Pháp. Có nghĩa là không những Kundera không nhớ tiếc quê nhà mà còn chối bỏ nguồn gốc của ông.[8]
Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, và Mặc Đỗ là trường hợp đặc biệt. Nếu xem mỗi nhà văn là một cái cây thì các ông bị nhỗ bật rễ hai lần.  Để tìm xem các ông có ý muốn trở về miền Bắc khi đang sống và viết văn ở miền Nam, tôi đọc một số tác phẩm các ông đã xuất bản ở miền Nam và ở hải ngoại[9]. Bàng bạc trong hầu hết mọi tác phẩm, cả bốn nhà văn đều biểu lộ rõ rệt sự nhớ tiếc tuổi thơ, cảnh cũ, người xưa, tâm trạng lạc lõng của những người xa quê nhà. Chỗ ở mới chưa cố định, công việc chưa vững chắc, nhưng các nhà văn này không mấy hoang mang, thất lạc, hay tuyệt vọng. Độc giả vẫn nhìn thấy những tia sáng của hy vọng vào một tương lai tốt đẹp. Các nhà văn di cư không hề phàn nàn bị kỳ thị Bắc Nam, cũng không phải vất vả đương đầu với một ngôn ngữ xa lạ như nhà văn miền Nam tị nạn sang nước ngoài.
Mai Thảo biểu lộ tâm trạng lạc lõng của người xa quê hương: “Y giống như người đến từ một hành tinh khác. Y đã mất quá khứ, như một thân cây mất rễ. Những ngày tháng về trước đã nhạt nhòa dấu tích, ấn tượng xa xưa chỉ là một vực đen sâu không cùng. Y sống cũng như chết. Y chết giữa cuộc sống.”[10] Cũng có lúc Mai Thảo thoáng nghĩ đến sự trở về nhưng chỉ là một ý nghĩ viển vông. “Từ Cửu Long, chúng tôi sẽ về đánh chiếm lại Hồng Hà. Để những buổi chợ đất nước lại được mở thành hội ở hai bên bờ sông.”[11] Đọc câu này tôi không khỏi mỉm cười. Với bộ vó nhà thơ, ông lấy gì để đánh chiếm lại Hồng Hà chứ? Lúc gần cuối đời, Mai Thảo có tặng nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng bài thơ tựa đề Bài Tiễn:
Xuống tầu đưa bạn đi ra biển
Thả tàn tro xuống Thái Bình Dương
Biển mênh mông lặng lòng giông bão
Chẳng biết nơi nào nữa viễn phương[12]
Bài thơ làm tôi liên tưởng đến số phận người vượt biển, câu thơ khiến tôi nghĩ dù Mai Thảo vẫn nhớ đến Việt Nam nhưng nơi này không còn là một chỗ để về.
Thanh Tâm Tuyền trẻ hơn, mộng ước phiêu lưu tràn đầy, thẳng thắn bày tỏ ước muốn ra đi và không trở lại: “Hắn lớn lên trong một thành phố đã mất, thành phố bị vây hãm như một hòn cù lao nổi chờ ngày tan rã không để lại dấu vết.” […] “Nó chờ đợi một chuyến đi xa, không trở về cái đất nước nhục nhã này, đi tìm cái chết nơi hải cảng trong quán rượu xa lạ, chết một mình bên chai rượu.”[13] Thanh Tâm Tuyền có nghĩ đến ngày về, nhưng ông tự chế nhạo cái ý nghĩ viễn vông ấy.
“Đến bao giờ anh tính về ngoài ấy?”
“Anh tính về?” – Người đàn ông cười gằn – “Anh tính sao được, phải đợi thống nhất chứ.”[14]
Vũ Khắc Khoan khẳng định, nhớ nguồn gốc thì vẫn nhớ, nhưng không muốn trở về. “Con người cũng như vạn vật cũng đều phải theo cái lẽ đó mà sinh sôi nảy nở. Nhưng thỉnh thoảng đến chỗ cùng cự của tang thương biến đổi thì tĩnh tâm, thành ý, con người lại nuôi ứ muốn trở về nguồn. Lớn rồi đi, đi rồi xa, xa rồi trở về […] Nguồn tất phải đẹp. Vì nguồn là tuyệt đối. Cho nên con người từ phân hóa sinh thành, mấy ai mà quên hẳn được nguồn.”[15]
“Thế là hết câu chuyện Trương Chi của tôi. Và bây giờ thì chắc ông cũng hiểu tại sao tôi lại không quay về Hà Nội. Cuộc đời Trương Chi có ngang trái chỉ vì họ Trương chưa tìm được người đồng cảnh. tôi may mắn hơn anh ta. Vì tôi đã gặp những người đồng cảnh.”[16]
Vũ Khắc Khoan lớn tuổi nhất và có lẽ do có kinh nghiệm sống dài nhất, ông biểu lộ ý thức chính trị rõ rệt nhất. Và vì lý do chính trị, ông không muốn trở về.
“Ông có hiểu anh trùm Phường đã nói gì với Trương Chi không? Tôi chắc ông cũng thừa hiểu. Đã hơn một lần, tôi chắc những người như ông đã được nghe những lời tương tự. Có phải bắt đầu thì bao giờ cũng là những danh từ quyến rũ: Cách mạng, Lực lượng đang lên… Ông là cái chất ma túy của những danh từ! Và trong cơn mê đắm của tuổi hai mươi, ông đã vội vàng không thèm nghĩ, mà nhận ngay cái vai trò đẹp nhất trong một tấn kịch mới mở màn đầu. Một với hiệp sĩ phong lưu sảng khoái, cả đời chỉ chuyên vào việc cứu khổn phò nguy. Trong mỗi con người, nhất là chúng ta, bao giờ mà chả tiềm tàng một Don Quichotte? Chúng ta đã lên yên. Chúng ta lại có thêm ngọn giáo. Làm gì mà chúng ta chả lăn xả vào một cái cối xay! […] Từ địa vị một chàng hiệp sĩ phong lưu, chúng ta trở nên một con sĩ tốt, cúi đầu chịu lệnh một vị tướng vô hình. Hỡi ơi!”[17]
Mặc Đỗ viết về đời sống xa quê hương như sau: “Anh Giáp phải kéo dài cuộc sống ở đây, không vui với không khí gia đình nhưng rất thương vợ con, lúc nào cũng hy vọng có cơ hội đổi được cái không khí lạc lõng ấy, chẳng hạn đưa gia đình trở về Việt Nam. Nhưng cơ hội mãi không đến vì lẽ này lẽ nọ. Bây giờ hi vọng xem như tiêu tán luôn mãi mãi. Nga bảo có một bữa gần đây chợt Giáp đã buồn rầu nói rằng: ‘Tôi đành ở luôn đây thôi.’”[18]
 Tôi cố tìm một sự khẳng định ý muốn trở về, thật mạnh mẽ, như Scarlett O’Hara muốn trở về Tara để tìm lại sự hỗ trợ tinh thần của một nơi nàng đã từng sống trong hạnh phúc ở bốn nhà văn này nhưng không thấy.

 Tôi đã đọc một số truyện và tùy bút của Võ Phiến[19] nhưng lúc ấy tôi không để ý tìm xem ông có ý muốn quay về hay không. Thành thật mà nói, dù muốn tôi cũng không thể đọc hết tất cả tác phẩm của ông. Rất có thể, chìm khuất đâu đó nhân vật của ông lớn tiếng đòi về mà tôi chưa đọc tới. Tâm trạng hoài nhớ quê hương của nhà văn Võ Phiến xuất hiện hầu hết trong các bài tùy bút, đặc biệt là tác phẩm Cuối Cùng, của ông. Nỗi buồn này đã được nhà văn John Schafer ghi nhận trong quyển biên khảo “Võ Phiến and the sadness of exile.” Dù Võ Phiến không về hay chưa về bằng xương bằng thịt thì tác phẩm của Võ Phiến đã được nhà văn Thu Tứ đưa về Việt Nam dù phải chịu cái cảnh nằm sao cho vừa chiếc giường của Procrustes[20].

Không đề cập đến sự trở về trong tác phẩm, không hẳn là nhà văn không muốn trở về. Rất có thể với chiến tranh càng lúc càng trở nên khốc liệt, mức độ chia rẽ giữa hai miền Bắc Nam càng lúc càng sâu, cơ hội trở về không có và không thiết thực nên không ai nhắc đến sự trở về? Có thể nào cái một lòng một dạ quay về với tổ quốc của Solzhenitsyn chỉ vì ông không thể sử dụng ngôn ngữ nào khác hơn tiếng mẹ đẻ? Khi trở về quê hương Solzhenitsyn bị tiếp đón lạnh nhạt một thời gian rất dài. Một trong những lý do khiến Solzhenitsyn không thích hợp với cuộc sống và không thể sáng tác được ở Hoa Kỳ là vì trở ngại ngôn ngữ. Và rất có thể thêm một lý do nữa, nói như nhà văn Vũ Khắc Khoan là vì ông ta không tìm được người đồng cảnh. Giả tỉ như lúc bấy giờ có cả triệu người cùng lúc ra đi với ông, qui tụ lại cùng viết và xuất bản bằng tiếng mẹ đẻ, như các nhà văn Việt, có thể ông đã ở lại Hoa Kỳ.

Nhà văn Trùng Dương di cư vào Nam khi bà chừng 9 tuổi, đọc tác phẩm Lập Đông, tôi thấy có nét hoài nhớ mảnh đất bà đã ra đi, nhưng nỗi nhớ không đậm đà như các nhà văn thuộc thế hệ trước. Bà nhớ mang máng là mùa xuân nơi ấy rét lắm khi xuân ở Saigon nóng bức. Tương tự như Trùng Dương, nhà văn Việt sang Mỹ từ lúc 9 hay 10 tuổi nỗi hoài hương không đậm nét, và càng sống lâu ở xứ người, ý thức Việt Nam là quê hương càng phai nhạt. Trong tác phẩm Ru, nhân vật của Kim Thúy, sang Hà Nội làm việc, nhưng quê nhà của cô xuất hiện bằng cái mùi hương xà phòng bột của xứ Canada còn phảng phất trên chiếc áo của chồng cô. Tác phẩm của Linda Lê đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam, bản thân Linda Lê cũng đã đến Việt Nam để giới thiệu tác phẩm. Trường hợp của Linda Lê không thể nói là “về” mà phải nói là “đi đến” bởi vì cô không tự nhận là người Việt Nam. Bản sắc Việt dính vào cô như một thây ma chết mà cô phải cưu mang[21]. Andrew Lam, vẫn nhận mình là người Việt, Việt Nam là nơi chốn anh sinh ra, và anh đã nhiều lần trở lại Việt Nam.[22]

Có nhiều nhà văn Việt cương quyết không trở về dù bằng tác phẩm hay thân xác. Nhà văn Trần Hoài Thư là một trong những nhà văn này. Toàn bộ sáng tác của ông được viết ra ở miền Nam. Từ khi sống ở Hoa Kỳ ông không sáng tác nhiều, đa số thì giờ ông dùng để khôi phục những tác phẩm của ông cũng như nhiều tác giả khác đã bị cấm đoán chối bỏ. Nhiều lần tôi trực tiếp hỏi và được biết từ khi ra khỏi nước ông chưa hề trở lại Việt Nam và cũng không cần phải trở về xuất bản tác phẩm của ông.
Nhà văn Lê thị Huệ trở lại Việt Nam nhiều lần, thành quả của những lần trở lại ấy là quyển Văn Hóa Trì Trệ[23] nhưng nhân vật của bà không muốn trở lại.  Hãy nghe nhân vật Lan Hương bày tỏ ý nghĩ:
“[…] Có khi tao muốn cắt bỏ luôn quá khứ. Tao muốn ở lại Mỹ đời đời. Tao muốn quên luôn Việt Nam. Nhưng đôi khi tao cũng có nhu cầu tìm lại nơi đã đưa tao vào đời sống này. Tao muốn gặp ba má và anh chị em của tao. Nhưng tao sợ khi về lại Việt Nam tao đã thành một kẻ xa lạ.”[24]  
“Em ghét Việt Nam. Em ghét xứ sở này. Em ghét trở về một cái xứ sở ngu dốt. Xứ sở trì trệ. Xứ sở u mê.”[25] (Lê, 2005)
Từ bỏ xứ sở nơi sinh ra vì lý do chính trị và không sử dụng ngôn ngữ của xứ sở bà cư ngụ khi viết văn, Lê thị Huệ xem ngôn ngữ Việt là quê hương. Khi được sử dụng ngôn ngữ mẹ ở đất khách nhà văn không cần phải về nguồn bằng tác phẩm. Như Milan Kundera, Lê thị Huệ cho hai nhân vật Việt tha hương, gặp nhau ở trên giường của một khách sạn, hai kẻ xa lạ nói tiếng Việt với nhau suốt đêm. Với bà, tiếng Việt là nơi hội ngộ, kết hợp hai linh hồn, đây là biểu tượng của sự trở về với quê hương.
Nhà văn Nguyễn thị Thảo An thì dùng dằng nửa về nửa ở. Thảo An nghĩ rằng:
“Theo truyền thuyết, cuộc đời chúng ta là một chuỗi luân hồi.”
“Có nghĩa là chúng ta sinh ra nơi nào thì sẽ trở về nơi đó. Mười mấy ngàn năm, qui luật đó không bao giờ thay đổi.”[26]
Sau đó Thảo An nghĩ ngược lại:
“Nó hình dung ra một cuộc sống cô đơn ngoài biển khơi, nhưng mà còn hơn trở về để chết.”[27]
“Bạc lẳng lặng quay đầu vô vách khe. Nó lạ lẫm trên chính quê nhà của nó. Lần đầu tiên, nó có cảm giác lạc lõng giữa đàn. Bạc chợt ước, phải chi nó chết ở một nơi nào đó trên đường trở về. Để cái quê hương dấu yêu kia mãi mãi vẫn còn trong tim của nó.”[28]

Khi đề cập đến việc trở lại quê hương, một cuộc trở lại vật chất, của con người bằng xương bằng thịt, chúng ta thấy có nhiều quan điểm. Solzhenitsyn cương quyết trở về. Milan Kundera, Cao Xingjian, là những con hoàng hạc một đi không trở lại. James Joyce xem sự lưu đày là nguồn cảm hứng để sáng tác. Vladimir Nabokov quan niệm, ngay cả quốc tịch của nhà văn cũng không đáng kể, chỉ có nghệ thuật biểu lộ trong tác phẩm mới quan trọng. Để được tự do theo đuổi nghệ thuật, Nabokov đã chối từ quê hương Liên Xô của ông trên cả hai mặt chính trị và ngôn ngữ. Tôi không tìm thấy chứng cớ chắc chắn là Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan muốn trở về Việt Nam bằng xương bằng thịt vì tác phẩm của các ông thất lạc rất nhiều, và như đã thú nhận, tôi không thể đọc tất cả tác phẩm của các ông. Tuy nhiên, đã là nhà văn lưu vong, sự trở về quan trọng nhất phải là sự trở về của tác phẩm. Ha Jin cho rằng ngoại trừ việc giúp cho nguôi ngoai nỗi nhớ về quá khứ, cuộc trở về bằng xương bằng thịt của nhà văn chẳng có ý nghĩa gì cả. (Jin, Writer As Migrant, 2008, p. 21)[29]

Bởi vì tính chất chính trị của sự ra đi; sự trở về bằng tác phẩm của nhà văn lưu vong thường bị xem là hành động phản bội. Phản bội những nhà văn cùng khuynh hướng đã từng bị tù đày, làm nhục chỉ vì họ đã viết những điều không được nhà cầm quyền chấp nhận. Nếu bảo rằng chúng ta ra đi khi tình trạng rất tồi tệ; nay chúng ta trở về vì tình trạng trở nên tốt đẹp hơn, và nhà cầm quyền chẳng những chấp thuận mà còn khuyến khích; thế thì tại sao rất nhiều văn nghệ sĩ trong nước vẫn còn bị tù đày vì khác ý thức chính trị với giới cầm quyền? Sự trở về của nhà văn lưu vong mang ý nghĩa đồng tình với, nếu không nói là ủng hộ chính sách của nhà cầm quyền. Văn nghệ sĩ cố gắng trong tuyệt vọng để rời khỏi đất nước, có phải vì tiếng nói của họ bị bóp nghẹt? Tại sao nhà văn lưu vong được khuyến khích mang tác phẩm trở về trong khi rất nhiều văn nghệ sĩ trong nước đang muốn được trở thành người lưu vong? Nếu tình hình chính trị trong nước đã trở nên tốt đẹp hơn sao vẫn có người không chấp nhận được tình trạng sống và viết hiện nay? Có thật văn nghệ sĩ muốn trở về vì yêu thương quê nhà, tìm về cội rễ, hay chỉ vì lợi ích cá nhân của người viết?
Có lẽ rất thầm kín, nguyện vọng to lớn nhất của nhà văn là có người đọc và có chỗ đứng quan trọng nhất trong văn học của nước nhà. Khi bị tách ra khỏi quốc gia, nhà văn bị mất nhiều hơn một người bình thường. Bên cạnh mất gốc rễ, tài sản, bản sắc, khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ, còn một cái mất lớn lao vô cùng là người đọc. Với nhà văn Việt Nam sống ở hải ngoại, số người Việt sống rải rác khắp nơi, nên việc xuất bản sách tiếng Việt và có độc giả Việt là một chuyện khó khăn. Nhà văn, nếu phương tiện sinh sống là tiền bán sách, không có người đọc đồng nghĩa với hao mòn sự sống. Một trong những lý do chính đáng mà nhà văn Việt ở hải ngoại muốn trở về cố quán là tìm số đông độc giả.
Quan điểm về sự trở về quê nhà của văn nghệ sĩ lưu vong mỗi người mỗi khác. Một số tác giả tôi đề cập bên trên đã góp phần quan trọng vào việc thành hình nền văn học miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975. Góp phần, họ chỉ là đại biểu của một khuynh hướng, một nhóm, trong nền văn học miền Nam vốn rất rộng lớn và đa dạng. Chỉ mới nêu lên một số nhà văn mà độc giả đã nhìn thấy chín người mười ý này, thế thì ai có thể đứng ra thay mặt tất cả văn nghệ sĩ để nói lên nguyện vọng, về hay không về, của họ? Ai có thể đòi hỏi sự trở về cho cả văn học miền Nam trước năm 75. Không ai cả. Văn nghệ sĩ nói chung chưa hề bình chọn ai là người lãnh đạo để bày tỏ nguyện ước, đòi hỏi, hay than thở thay cho họ. Nhà văn, nhất là nhà văn, hay tự vác lên vai cái nghĩa cử cao đẹp là nói dùm cho những người không thể nói. Tuy nhiên, xin đừng quên rằng một trong những lý do người ta trở thành nhà văn là vì người ta muốn được có tiếng nói và được nghe chính tiếng nói của mình. Khi nói giùm thiên hạ, chúng ta nên tự hỏi, liệu những người, chúng ta muốn nói giùm, có chấp nhận cái thông điệp của chúng ta, và có đồng ý với người nói giùm hay không.
Trở về hay không đó là sự chọn lựa, dựa trên nhu cầu và lợi ích của cá nhân. Nhà văn, nhất là nhà văn có nhiều độc giả, thường bị nhà cầm quyền lo ngại, sẽ thuyết phục và hiệu triệu người dân chống đối chính quyền. Thu phục được một văn nghệ sĩ nổi tiếng là thu phục được cái đám đông đồng tình với văn nghệ sĩ này để phục vụ cho bất cứ mục tiêu chính trị nào đó, nếu có.  Sự ra đi hay trở về của nhà văn chỉ có giá trị đối với nhà cầm quyền khi nhà văn đã thành danh và có một số lượng độc giả đáng kể.
Trở về, cộng tác với nhà cầm quyền có thể mang lợi ích lớn cho người viết. Được viết bằng ngôn ngữ mẹ, bên cạnh việc có số lượng người đọc đông đảo, người viết còn có hy vọng đạt đến những giải thưởng cao quý, như giải Nobel. Mặc Ngôn phục vụ cho đảng Cộng sản Trung quốc được giải Nobel văn chương. Lưu Hiểu Ba lên tiếng chống đối phải đi tù dù được giải Nobel hòa bình. Ha Jin cho rằng Joseph Conrad, người Ba Lan, viết tiếng Anh nhưng luôn tự nhận mình là người Ba Lan, mất giải Nobel vào tay Wladyslaw Reymont, một nhà văn Ba Lan khác kém tài và ít được biết tiếng hơn, chỉ vì Conrad không đại diện cho quốc gia nào (Jin, Writer As Migrant, 2008, p. 34). Tuy nhiên khi trở về, người viết phải chấp nhận có thể rơi vào trường hợp giống như nhà văn Võ Phiến, đã cho phép những đứa con tinh thần bị chặt chân.
Ngày nay với tính cách toàn cầu của internet, nếu chỉ để được có người đọc, và thu nhập tài chánh không phải là vấn đề sống chết, người viết không nhất thiết phải trở về Việt Nam trên cả hai phương diện thể chất và tác phẩm. Bởi vì, sách có thể được xuất bản theo dạng điện tử trên mạng, và có sách in không có nghĩa là có người đọc. Và có người đọc không chắc đã được người thông cảm hay chấp nhận quan điểm của mình. Nói cho cùng, số phận của người viết luôn luôn là số phận bất hạnh. Cái bất hạnh của nhà văn thời hiện đại là nhiều người viết nhưng ít người chịu đọc. Người chịu đọc thì không chịu mua sách vì có thể “đọc cọp” trên internet.
Tôi vẫn nghe một vài nhà văn tiền bối than thở rằng văn học miền Nam bị bức tử. Tôi không nghĩ thế. Những quyển sách kinh điển có thể đóng bụi trên kệ, ai cũng nghe nói nhưng không ai đọc. Sách mà không có người đọc thì chỉ là giấy. Truyện của Faulkner và Mark Twain có thời cũng bị cấm đoán, kiểm soát đục bỏ. Lịch sử thế giới đã có biết bao nhiêu cuộc phần thư nhưng những quyển sách đáng nhớ đáng giữ vẫn tồn tại. Cho rằng Văn học miền Nam bị bức tử là không đặt đúng mức sức thuyết phục ngầm của văn học. Tôi cho rằng văn học miền Nam sau năm 1975 như một cánh rừng bị đốt cháy. Hạt giống của cây đã rơi theo gió chìm dưới mặt đất và gặp lúc thuận tiện lại mọc thành cây. Ngay cả rừng già lâu năm cũng cần bị cháy để có thể duy trì luật tiến hóa của cây. Không cần chờ lời kêu gọi giữ lại chứ đừng trả lại, đã từ lâu, thỉnh thoảng chúng ta lại thấy một tác phẩm văn học của miền Nam được chuyển thể thành phim. Tủ sách Talawas là chủ trương của một nhà văn ra đời và lớn lên trong chủ nghĩa Cộng Sản. Thế hệ sau đã khôi phục nhiều tác phẩm văn học của miền Nam trước khi có người chính thức kêu gọi khôi phục tác phẩm của văn học miền Nam. Đòi hỏi khôi phục toàn thể văn học miền Nam là một đòi hỏi hào hiệp nhưng có vẻ như đòi chơi cho vui không thiết thực. Ai làm? Và tiền đâu? Khôi phục kiểu nào? Có lợi cho ai? Về với hình thức nào? Bằng khua chiêng giống trống hay kéo dài thân cắt chân cho đúng khuôn mẫu người ta đưa ra. Người muốn về nghe tiếng gọi thơ mộng“Về đây nghe em, về đây, mặc áo the đi guốc mộc.”[30] Người không muốn về nghe âm vọng trong đầu “Bó thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao?”[31]
Bản chất của cuộc đời là biến chuyển không ngừng. Bản chất của nhà văn là phụ bạc. Người đọc tác phẩm thế hệ trước bắt buộc phải thay đổi, biến hóa, thậm chí quên đi những điều mình đã đọc để tác phẩm của mình có sự mới lạ. Nhà văn cũng như ca sĩ, bị đào thải nhanh chóng, thay thế bằng giọng hát mới và nhan sắc mới. Thế cuộc có lúc thay đổi, người không muốn về bây giờ có thể sẽ đổi ý. Nhà văn chúng ta bản tính vốn ương bướng kỳ lạ. Gần chết bỗng nhớ con đường làng, khóm trúc bờ ao, tiếng gà khan gáy vang bên đồi, rồi chồm chồm đòi về quê để chết. Đó là tự do của cá nhân.
Dù tôi rất tôn trọng hai mươi năm văn học miền Nam, tôi cho rằng sự thiệt hại mất mát đã xảy ra, không ngăn cản sự sáng tác của thế hệ sau. Nhà văn có thể rút kinh nghiệm của cuộc sống mà biến thành tác phẩm. Dẫu sao đã đến lúc chúng ta nên quan tâm đến một chủ đề khác. Nếu không thì 60 hay 80 hay 100 năm sau chúng ta vẫn cứ tưởng nhớ đến hai mươi năm văn học miền Nam. Chúng ta không thể mãi mãi mang tâm trạng của một đứa bé bị thương, ngồi săm soi vết đau, trông đợi một lời an ủi để sụt sùi rơi nước mắt. Hãy tự hỏi nhau rằng, đã bốn mươi năm, gấp hai lần chiều dài của hai mươi năm văn học miền Nam, với tự do sáng tác và tài nguyên phong phú ở nước ngoài, chúng ta đang có gì và sẽ có gì?

[1] Nguyễn Đức Sơn, người viết ghi lại theo trí nhớ.
[2] Tôi không chắc thân thế của nhà văn Nguyễn thị Thảo An, rất có thể nhà văn đi theo diện di dân nhưng xin ghép Thảo An vào nhóm tị nạn cho tiện.
[3] Nhóm nhà văn này dùng ngôn ngữ của xứ sở họ đang sinh sống. Nói chung họ là người gốc Việt, đôi khi mang tâm trạng của nhà văn vô xứ theo định nghĩa của nhà văn Đoàn Trung Đạo, bài đăng trên mạng Gió O.
[4] Jin, Ha, The Writer as Migrant, 2008, Chicago, The University of Chicago Press, p. 63. “Many exiles, emigrants, expatriates, and even some immigrants are possesed with the desire to someday return to their native lands. The nostalgia often deprives them of a sense of direction and prevents them from putting down roots anywhere.”
[5] Jin, Ha, Writer As Migrant, 2008, Chicago, The University of  Chicago Press, p. 65 “Conventionally, a person’s homeland is his country of origin, to which he longs to return no matter where he goes […]”
[7] Bản nhạc tựa đề Scarborough Fair dân ca phiên bản của Simon and Garfunkel.
[9] Mai Thảo (Chuyến Tàu Trên Sông Hồng, Mưa Núi), Thanh Tâm Tuyền (Bếp Lửa, Dọc Đường), Vũ Khắc Khoan (Mơ Hương Cảng, Thần Tháp Rùa) Tất cả các tác phẩm nói trên đều ở Tủ sách Talawas. Mặc Đỗ (Trưa Trên Đảo San Hô, Gió O)
[10] Mai Thảo, Những Vì Sao Thứ Nhất. Tuyển tập Chuyến Tàu Trên Sông Hồng.
[11] Mai Thảo, Mưa Núi.
[12] Nguyễn Xuân Hoàng, Căn Nhà Sau Lưng Tiệm Song Long, Tạp chí Văn 123&124, Tháng Ba&Tư, 2007, p. 6
[13] Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa.
[14] Thanh Tâm Tuyền, . Tuyển tập Dọc Đường.
[15] Vũ Khắc Khoan, Nhập Thiên Thai, Tuyển tập Thần Tháp Rùa.
[16] Vũ Khắc Khoan, Trương Chi, Tuyển tập Thần Tháp Rùa.
[17] Như trên (note 16).
[18] Mặc Đỗ, Một Ngày Như Thường Ngày, Gió O. http://www.gio-o.com/Chung/MacDoSanHo2MotNgay.html
[20] Procrustes, huyền thoại Hy Lạp, là một người thợ rèn cấu kết với đảng cướp. Hễ khách đi ngang vùng hắn ta ở phải trọ trong khách sạn của hắn và băng đảng lập ra. Để hành hạ du khách, hắn bắt người ta phải nằm cho vừa cái giường sắt do hắn chế tạo. Hễ người khách cao chân dài quá hắn sẽ chặt chân, nếu thấp hắn cho kéo căng người khách cho dài ra. Không ai có thể nằm vừa cái giường của Procrustes vì hắn bí mật làm ra hai cái giường có kích thước khác nhau.
[21] Đinh Linh, phần giới thiệu Tiếng Nói của Linda Lê. Văn, 2003, trang 8.
[22] “I left Vietnam as a child when communist tanks rolled into Saigon and ignominiously ended the Vietnam War for Americans. That was on April 28, 1975. My family fled, among the first wave of refugees. I was 11 years old. I grew up and became an American citizen and a writer and journalist. But I never forgotten Vietnam, and have returned many times to witness my native land emerge from behind the bamboo curtain.” Andrew Lam, The Glow of Vietnam, National Geographic Traveler, Vol. 32, No. 2, April 2015, p. 65, http://travel.nationalgeographic.com/travel/countries/traveler-vietnam-photos/
[23] Văn Hóa Trì Trệ Nhìn Từ Hà Nội Đầu Thế Kỷ 21, http://www.gio-o.com/SachGioOVHTT.html
[24] Lê thị Huệ, Tiếng Dỗi Hờn của Thân Xác, p. 15
[25] id. p. 71
[26] Nguyễn thị Thảo An, Lửa Bạc, Da Màu.
[27] Nguyễn thị Thảo An, Lửa Bạc, Da Màu
[28] Nguyễn thị Thảo An, Lửa Bạc, Da Màu
[29] “only through literature is a genuine return possible for the exile writer. […]In truth, other than slaking the writer’s nostalgia, the writer’s physical return to his native land has little meaning.”
[30] Nhạc Trần Quang Lộc, thơ của A Khuê.
[31] Nguyễn Du, Kiều

Nguyễn thị Hải Hà
Tháng Ba năm 2015

.
© gio-o.com 2015































Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư