Insomnia



Bài Intro của Brodsky cho tập 50 bài thơ của Osip, đúng ra là 1 tiểu luận rất quan trọng về Osip Mandelstam: The Child of Civilization, trong Less Than One: Selected Essays. New Tinvan sẽ đi bài này, cùng với FB. Trân trọng





             27·

INSOMNIA

I can't sleep; no light burns;
All round, darkness, irksome sleep.

-ALEXANDER PUSHKIN

I LIKE READING poetry late into the night. I like the way it takes me away from the day, from daylight thinking, and opens me up to something else, something stranger and more unknown. It creates a space for reverie, for night mind. Through poetry I enter a primary zone where silence reigns and the constant din of the culture momentarily stops, where I can feel what I think and think about what I'm feeling, where I can hear a solitary human voice rising out of the primordial darkness.
For this reason, I suppose, I am also partial to many "insomnia" poems, lyrics where the speaker operates as a sole consciousness. Everyone else seems to be far away or lost in "irksome sleep," dead to the world, and a sense of tremendous solitude permeates the air. In this way, each of us may be delivered a little more closely to ourselves. As the fifteenth-century Zen master Ikkyu formulated it:
night after night after night stay up all night
nothing but your own night
One of my favorite poems of sleeplessness is an untitled twelve-line lyric that the Russian poet Osip Mandelstam wrote in the Crimea in 1915. It appeared in the second edition of his groundbreaking first book, Stone (1916). Mandelstam associates so rapidly in this poem-the first line consists of three nouns, each an independent sentence-that I am reminded of Joseph Brodsky's definition of poetry as "accelerated thinking." It helps to know that the Crimea and the Black Sea have traditionally been regarded in Russian poetry as closest possible Russian equivalents to the classical world of Greece

Insomnia. Homer. Taut sails.
I've read to the middle of the list of ships:
the strung-out flock, the stream of cranes
that once rose above Hellas.

Flight of cranes crossing strange borders,
leaders drenched with the foam of the gods,
where are you sailing? What would Troy be to you,
men of Achaea, without Helen?

The sea-Hamer-it's all moved by love. But to whom
shall I listen? No sound now from Homer,
and the black sea roars like a speech
and thunders up the bed. 

(TRANSLATED BY CLARENCE BROWN AND W. S. MERWIN)

One could write a good essay about the chronic inability to sleep in Russian poetry. It would begin with Pushkin's "Lines Written at Night During Insomnia" (1830), it would include Innokenty Annenky's key cycle "Insomnia" (1904), and it would highlight Marina Tsvetaeva's restless ten-part sequence "Insomnia" (1916).
Tsvetaeva's voice in this poem is violent and mesmerizing. It is filled with warning: "Don't sleep! Be firm! Listen, the alternative / is everlasting sleep." I'm struck by the way that she pleads to be liberated from the bonds of day and throws open her doors wide into the night, eagerly relinquishing her social self in order to be inhabited by something more mysterious ("and people think perhaps I'm a daughter or wife / but in my mind is one thought only: night"). She would be broken down and artistically reborn; she would become a vehicle of nature, a vatic poet. Here are the four couplets that comprise section 8, which is a dark prayer, a joyous hymn to the night itself: 

Black as an iris, as an iris sucking up the
Light-I love you, sharp-sighted night.

Let me sing you and celebrate you, O ancient mother
Of songs who bridles the earths four winds.

Calling you, glorifying you-I am nothing but a
Shell in which the ocean is not yet silenced.

Night! Enough of looking into human eyes!
Reduce me to ashes, blackest of suns-night! 

(TRANSLATED BY NINA KOSSMAN) 

Edward Hirsch: Poet’s Choice


Bản dưới đây, là từ Osip Mandelstam: 50 Poems

Insomnia. Homer. Tautly swelling sails.
I've read the catalogue of ships half through:
This wedge of cranes, this outstretched brood
That once took wing across the Aegean isles.

A train of cranes outstretched towards alien frontiers,
The foam of gods crowns the leaders' kingly hair.
Where sail you to? If Helen were not there,
What would Troy mean for you, oh warriors of Greece?

Both Homer and the sea: all things are moved by love;
To whom shall I pay heed? Homer here is silent
And the dark sea thunders, eloquent,
And rumbling heavily, it breaks beneath my bed.
 (78,66*)
 [Translated by Bernard Meares]


LENINGRAD

I returned to my city, familiar as tears,
As veins, as mumps from childhood years.

You've returned here, so swallow as quick as you can
The cod-liver oil of Leningrad's riverside lamps.

Recognize when you can December's brief day:
Egg yolk folded into its ominous tar.

Petersburg, I don't yet want to die:
You have the numbers of my telephones.

Petersburg, I have addresses still
Where I can raise the voices of the dead.

I live on the backstairs and the doorbell buzz
Strikes me in the temple and tears at my flesh.

And all night long I await those dear guests of yours,
Rattling, like manacles, the chains on the doors.
(221, 144*)

December, 1930, Leningrad

Leningrad

Ta trở lại thành phố của ta, thân quen như những dòng lệ
Như gân máu, như bịnh quai bị khi còn là 1 đứa con nít

Mi đã trở về đây, vậy thì hãy nuốt,
Dầu đèn, lạnh, dọc theo bờ sông Hương

Mi nhận ra chưa, như là mi có thể, ngày tháng Chạp, ngắn
Trái trứng vàng cuộn trong hắc ín đáng ngại

Huế, Huế Mậu Thân, ta chưa muốn chết
Mi vưỡn còn những số điện thoại của ta

Huế, Huế, ta vẫn còn những địa chỉ
Nơi ta có thể vực dậy những tiếng nói của những người đã chết

Ta sống ở những cầu thang phía sau
Và chuông cửa rền rĩ
Đập vô má, xé thịt da ta

Và suốt đêm ta đợi những người khách thân yêu của mi
Lách cách, lách cách, như tiếng cùm sắt ở nơi cửa

In Petersburg we'll meet again
As though it was where we'd laid the sun to rest
And there we'll utter one first time
The word that's senseless but blessed.
In the black velvet of the Soviet night,
In the velvet of the universal void,
The beloved eyes of blessed women still sing
And immortal flowers still bloom.

The wildcat capital arches its back,
On the bridge a sentinel stands watch.
Only a cuckoo car horn blares,
Through the dark its angry engine roars.
I don't need a permit for the night:
Sentinels don't frighten me;
For the senseless and blessed word
I shall pray in the Soviet night.

I hear the theater's gentle rustle,
And the young girls' surprise;
A huge bouquet of immortal roses
Is held up by Aphrodite's arms.
We warm ourselves from boredom round a brazier fire,
Maybe after centuries have passed,
The beloved hands of blessed women
Will gather our frail ashes at last.

Somewhere scarlet flowerbeds of stalls,
Sumptuous chests of drawers, the boxes round the walls,
And an officer like a clockwork doll;
Not for the vile and unctuous or the lowly soul.
So, you might as well snuff out our lights
In the black velvet of the universal void;
The blessed women's sloping shoulders still sing
But the nocturnal sun won't be seen by you.
November 25, 1920

Ở Huế, chúng ta sẽ lại gặp lại
Như thể đó là nơi chúng ta cho mặt trời ngủ
Cũng là nơi chúng ta thốt lên lần đầu tiên
Một từ, vô nghĩa, nhưng được chúc phúc
Ở tấm nhung đen của đêm VC
Ở tấm nhung của sự trống rỗng thế gian
Những cặp mắt thân thương của những vì phụ nữ được chúc phúc vẫn hát
Và những bông hoa bất tử vẫn nở

Cố đô của loài mèo hoang uốn cong lưng
Trên cầu Trường Tiền, một người lính đứng canh
Chỉ có tiếng còi xe khùng
Lồng lộn trong đêm cùng tiếng máy xe giận dữ gầm rú
Ta đâu cần 1 cái giấy phép cho đêm
Lính gác không làm ta sợ
Về cái từ vô nghĩa, được chúc phúc
[I miss you so much, don’t reply]
Ta sẽ cầu nguyện suốt đêm trường của Vẹm

Ta nghe tiếng rì rầm dịu dàng của nhà hát
Và nỗi ngạc nhiên của cô gái trẻ
Một bó hoa hồng bất tử
Được thần Aphrodite cầm trong tay
Chúng ta sưởi ấm lẫn nhau cho đỡ buồn phiền chung quanh ngọn lửa lò than
Biết đâu hàng hàng thế kỷ qua đi
Những bàn tay thân thương của những vì phụ nữ được chúc phúc,
Sau cùng, sẽ thu vén mớ tro than mỏng manh của đôi ta

Đâu đó, những luống hoa đỏ tươi của những quầy hàng
Những rương tủ xum xuê, những thùng, hộp quanh tường
Và 1 viên chức giống như 1 con búp bế cơ khí
Không phải thứ cho kẻ xấu xa, ngọt xớt hay 1 tâm hồn hèn kém.
Như thế, em có thể ánh đèn của chúng ta
Ở tấm nhung đen của cõi trống rỗng vạn vật
Những đôi vai của những phụ nữ được chúc phúc vẫn hát
Nhưng em sẽ không thể nhìn thấy mặt trời đêm

November 25, 1920



















Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

Raymond Chandler by Oates