Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan



*

























- Trong tập Một Mùa Địa Ngục (do Nxb Văn học năm 1997) nhà văn Huỳnh Phan Anh dịch “Tâm hồn nào không sai sót”, trong Rimbaud Toàn tập ông lại dịch “Ai người không sai trái?”. Riêng người viết bài này lại thích câu “Tâm hồn nào không lầm lẫn?”
Dịch không phải phản lại nội dung, nhưng đôi khi phản bội hình thức.
Source
VTQ giới thiệu HPA dịch Rimbaud.
O saisons, ô châteaux,
Quelle ame est sans défauts?
Nguyên tác`
Hai cách dịch qua tiếng Anh:
O seasons, O châteaus!
Where is the flawless soul?
O seasons, O castles,
What soul is without blame?
Trong bài tưởng niệm NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:
Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả hai đã uống.
Theo Gấu, thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt Nam.
Trước 1975, tình cờ GNV có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư Không Lộ, hình như vậy, trên Thời Tập, và như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Khi gặp anh sau 1975, ở cà phê Bà Lê Chân, của HT, cả hai chẳng hề nhắc gì đến thơ văn, vì cả hai đều đói quá.
Chỉ đến khi qua Cali, được anh tặng tập thơ Lục Bát Ba Câu, thì mới thực sự đọc thơ NTN. Và quả là thơ Thiền.
GNV sẽ đi 1 đường về thơ NTN, sau, nhưng tiện đây, vì nhắc tới Rimbaud, và nhân vừa đọc trên TLS 1 bài về Borges, Gấu sẽ lèm bèm về Borges trước, vì qua bài biết, ông khởi nghiệp văn của ông, như là 1 Baudelaire [không phải Rimbaud] của Buenos Aires, nhưng sau đó, trở thành sư phụ của những đề tài sử thi, trong dạng được nén lại của chúng.
Bài này tuyệt, TV post bản scan, cũng là 1 cách giới thiệu... Rimbaud bản dịch của bạn quí.

Điếu văn bên mồ 
Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H !]
Ghét đờn bà ngọt như mía lùi 
Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm (1)
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.
Note: Mượn hoa hiến Phật, bài thơ trên, đọc trước mồ bạn ta mà chẳng tuyệt sao?
Từ ‘xoa đầu’ mắc [đắt] thật. Làm Gấu nhớ những lần được ‘xoa đầu’!
Hà, hà!
(1) Nguyên văn: Thích mấy tên say ở nhà thờ.


*
@ Văn Hóa Magazine, lần NTN viếng thăm Tiểu Sài Gòn, 3.2008.
Bức hình nổi tiếng của chủ bút & chủ nhiệm & nhiếp ảnh gia Lý Kiến Cắn [Lý Kiến Trúc]
Chỉ có GNV dám ngồi dưới bức hình!

Bởi với tôi, sống được là tốt rồi.
Tôi về nghĩa địa một mình
Tôi rớt mất tim rồi tôi lặng thinh...

Tôi khóc bên ngoài tôi khóc bên trong
NTN: Thánh Ca
Tôi biết những người khóc lẻ loi,
Lệ không rơi ngoài tim mình
TTT

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
ANH NHAN, ANH ĐÃ NÓI,
Anh nói,
Trong tất cả các cõi
Anh mê nhất cõi đời
Vì đó là cõi mộng
Để thân này rong chơi 
Anh nói,
Anh sẽ sống
Một trăm năm, đùa vui
Lỡ chết sớm một tí
Là giả đò chút thôi!
Anh nói,
Mọi thứ trên đời mộng
Hí lộng mình, ba câu
Lục bát. Nghe lồng lộng
Mở cõi thực thiên thu 
Nước mắt (dẫu phù du,)
Tôi sẽ khóc, chắc là
Giả vờ đôi hạt lệ
Tiễn người giả vờ xa… 
Calif.,, 8 giờ sáng ngày 31 .1.2011
Sau khi nghe tin nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan ra đi.
Blog DTL
Brodsky có 1 nhận xét, nhớ đại khái, nhà thơ thứ thiệt thì tuổi tới đâu, thơ tới đó, trong khi nhà thơ Mít, như TTT phán, viết xong tuổi thanh xuân là ngỏm !
Đọc Charles Simic, càng thấy ra điều trên. Tập thơ mới nhất của ông, sâu lắng hơn, và có vẻ kiệm lời hơn, nhưng vẫn nhận ra giọng thơ têu tếu.
Tuyệt !
Bài Điếu Văn dưới đây, có trong tập thơ mới, Master in Disguises, TV post rồi, khi đọc trên The Paris Review, Spring 2010
Graveside Oration
Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.
He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap. 
Điếu văn bên mồ 
Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H !]
Ghét đờn bà ngọt như mía lùi 
Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm (1)
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.
Note: Mượn hoa hiến Phật, bài thơ trên, đọc trước mồ bạn ta mà chẳng tuyệt sao?
Từ ‘xoa đầu’ mắc [đắt] thật. Làm Gấu nhớ những lần được ‘xoa đầu’!
Hà, hà!
(1) Nguyên văn: Thích mấy tên say ở nhà thờ.


&
Anh còn nhớ hình ảnh này không?
Sàigòn 1972 tại quán Hương Xưa quận GòVấp.
Cả 1 quãng đời thê lương, (1), may nhờ NTK mà còn giữ được.
Tks. NQT
(1)
Bao năm Gấu cháy hoài, như ngọn đèn dầu lạc,
Vẫn giấu ở trong tim một bóng hồng 
Và nếu trái tim của ngọn lửa này, là bóng hồng chẳng hề bị trấn áp
Đêm đen mơ mòng giùm Gấu, giấc mơ bất biến 
Của Chuột và Gấu

Note: Bài viết này, chỉ có 1 mẩu, tình cờ thấy nó, Gấu cũng không làm sao nhớ, kỷ niệm về Chuột của Gấu, nó ra làm sao nữa!
Không hiểu Chuột ở đây là… Chuột Nhắt, 1 nick của 1 nữ thi sĩ ở trong nước?
Đọc 4 câu thơ, quái quỉ làm sao, của... GNV đấy ư?
*
Gấu quen NTK, lần đầu, ở tòa soạn báo thiếu nhi của ông Nhàn, còn là văn phòng nhà in số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, của linh mục Cao Văn Luận. Thời gian đó, ông Nhàn làm nhà xb Vàng Son, 1 vệ tinh của nhà sách & nhà xb Sóng Mới.
Tờ báo thiếu nhi, chủ bút của nó là TKT, xuất thân từ lò báo thiếu nhi của Duyên Anh, sau tách ra.
1972. GNV nhớ là lúc đó, ông Nhàn cần 1 tay phụ tá cho TKT, giỏi ngoại ngữ, để dịch thuật 1 số bài về thiếu nhi cho tờ báo.
Nguyễn Mai bèn giới thiệu Gấu, để trả ơn Gấu đã từng dăng bài của anh trên phụ trang VHNT của nhật báo Tiền Tuyến
Và khi tờ báo chết, ông Nhàn mướn luôn Gấu làm dịch giả thường trực cho nhà xb Vàng Son của ông.
Còn NTN, quen sau 1975, tại quán cà phê của Huy Tưởng.
Ở đây, Gấu quen khá nhiều bạn mới, trong có, thí dụ, Vũ Ngọc Giao, tay đàn ghi ta thần sầu. Lần đầu gặp, anh tự giới thiệu, tôi là Vũ Ngọc Giao, nhưng anh có thể gọi tôi là…. Vú Ngọc Giàu. Và anh kể, mỗi lần ‘may tay’, là anh bèn “tôi đọc tên tôi cho đỡ nhớ”, Vú Ngọc Giàu, Vú Ngọc Giàu, Vú TN, Vú KC, Vú, Vú… cho đến lúc cực khoái.
Anh cho biết, mỗi lần cực khoái như thế anh làm thịt chừng hai chục em!
Toàn những nữ nghệ sĩ danh tiếng!
*
What a poet doesn’t see never happened.
Elias Canetti: The Writer’s Notes: 1954-1971
Cái gì mà nhà thơ đếch nhìn, thì cái đó đếch đã từng hiện hữu.

Thi sĩ quả là bảnh thật, nhất là thứ thi sĩ trước 1975, như NTN, thuộc danh sách đỏ, 1 thứ chủng loại sắp tuyệt tích giang hồ, nói theo PVP!

Chúng ta không biết điều mà TNT “đếch thèm nhìn”, nhưng chúng ta biết, đã từng hiện hữu, 2 điều này:
Hai tập thơ của anh, một, Thánh Ca, trước 1975, và một, sau 1975, Lục Bát Ba Câu, thì đều ở ngoài cái Miền Nam sau 1975!
Và cái nhà nước sau 1975, đúng ra phải nói, đám đầu nậu, chỉ vồ lấy ông, như 1 nhà Hớn học!
Cái bài phỏng vấn do Lý Đợi thực hiện cũng thú vị lắm.
PHỎNG VẤN
NHÀ HÁN HỌC NGUYỄN TÔN NHAN:
BỘ SÁCH TÔI THÍCH NHẤT CÒN CHƯA RA ĐỜI…!    
Trong gần chục năm nay, Nhà Hán học Nguyễn Tôn Nhan liên tục cho ra đời những bộ sách công phu, đồ sộ hàng ngàn trang như Từ điển thành ngữ điển tích Trung Quốc, Từ điển văn học cổ điển Trung Quốc, Từ điển danh nhân Trung Quốc, Bách khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc, Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng…; và gần đây là bộ Nho giáo Trung Quốc, hơn 1.700 trang. Chúng tôi có cuộc trò chuyện khi biết tin ông sắp chuyển nghề qua dịch truyện kiếm hiệp_một chuyện lạ.
­Ông bắt đầu làm việc với chữ Hán từ khi nào?
Năm 1988. In cuốn đầu tiên năm 1989. Nhưng tôi chỉ nhớ tên cuốn thứ 2 đã dịch là Xung hư chân kinh (Nxb Văn Học, 1989) của Liệt Tử; bản dịch đầy đủ nhất từ trước tới giờ.
Tại sao sách mình dịch mà lại không nhớ tên, hay do cuốn đầu tay có nhiều sai sót mà ông không muốn đề cập đến?
Từ trước năm 1975 tôi đã có dịch rồi [dịch một tập thơ Đường, khoảng 200 bài, dạng bản thảo _ TT&VH], sau đó tôi cũng thường xuyên luyện dịch nên không đến mức sai như anh nghĩ. Có điều những cuốn sách tôi dịch đứng tên khác (tạm gọi tên thương mại) đã lên tới 40 cuốn, những cuốn đứng tên mình cũng trên 10, làm sao nhớ hết và làm sao có thể trả lời ngay khi anh hỏi.
Ông bắt đầu học chữ Hán từ năm nào? Sao mãi đến năm 1988 mới bắt tay làm sách?
Giữa lúc mọi người thi nhau học Anh ngữ (năm 1967), thì tôi lại khoái chí với chữ Hán. Bố tôi thuộc dòng dõi Nho học, gốc ở Cao Xá, Cẩm Giang, Hải Dương; ông nội tôi đi thi kỳ Hương cuối cùng ở phía Bắc năm 1906. Một hôm thấy bố tôi viết chữ Kỳ, tôi nghĩ ông đã viết sai, nên bắt đầu lôi sách ra học, sau 6 tháng thì tôi đọc được Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung; và học mãi đến bây giờ… Còn tại sao đến năm 1988 mới ra sách ư? Vì lúc ấy chớm đổi mới và cũng bắt đầu xuất hiện các đầu nậu sách. 
Được biết ông chỉ làm sách với các tư nhân, vì sao vậy?
Vì quen rồi. Với lại sức của tôi có hạn, làm sao chu toàn được nhiều. Cũng nói thật, tôi thích làm sách với đầu nậu hơn vì biết trước được giá cả, sự sòng phẳng, mau lẹ và họ chịu đầu tư dài hạn, nghiêm túc.
Có khi nào ông nghĩ các đầu nậu thích làm việc với mình là do cái 'logo' Nguyễn Tôn Nhan?
Thì cũng cố gắng tạo một chút thương hiệu để làm việc lâu dài. Nhưng tôi nghĩ cái tên không quan trọng đâu, nội dung cuốn sách mới là yếu tố quyết định. Bằng chứng là có rất nhiều cuốn tôi không đứng tên nhưng "cập thời vũ" hơn thì bạn đọc chọn lựa nhiều hơn; tính tham khảo phổ thông hơn. Còn căn bản, những sách tôi đứng tên thì bán chậm và cũng hơi kén độc giả.
Vậy là ông lấy sách bán nhanh để nuôi sách bán chậm, đầu tư nhiều tâm huyết?
Không! Tôi làm theo đặt hàng nhưng không phải cái gì cũng làm. Có những loại sách bán rất chạy, tôi biết chắc, như sách phong thuỷ chẳng hạn, nhưng tôi không thích thì không làm. Ngược lại, tôi còn phải gợi ý đề tài cho các nhà làm sách nữa đấy.
Nghe nói ông sắp dịch bộ kiếm hiệp đầu tiên?
Trước đây tôi đã dịch nhiều, nhưng không ký tên. Còn bộ dịch vừa xong của Lương Vũ Sinh, có tên Bạch phát ma nữ truyện, khoảng 1000 trang. Lương Vũ Sinh là tác gia được xếp vào hàng Tam tổ [cùng với Kim Dung và Cổ Long _ TT&VH] của Tân phái võ hiệp; tác phẩm của ông đầy chất văn học, bám sát văn hoá và lịch sử Trung Quốc. Tôi thích văn hoá, lịch sử và văn học mà.
"Bạch phát ma nữ truyện" đã từng dựng thành phim và đã chiếu tại VN. Vậy thì trước đây, khi dịch "Bản lĩnh Kỷ Hiểu Lam" và những cuốn khác, ông cũng dựa vào yếu tố 'điện ảnh hoá' này để quảng cáo việc bán sách dịch?
 Tôi có buôn bán gì đâu mà cần quảng cáo với tiếp thị, làm theo đặt hàng mà. Lúc tôi dịch Kỷ Hiểu Lam cũng như vài cuốn khác, thì ở VN, công chúng đâu có mấy người biết những nhân vật này là ai. Các nhà làm sách thêm hai chữ 'bản lĩnh' vào cho bạn đọc dễ hiểu. Ai ngờ, sau đó truyền hình phát phim này và cũng trùng tên luôn. 
Trong các bộ sách đã dịch và đã soạn, ông cảm thấy ưng ý với bộ nào nhất?
Bộ Bách khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc tạm làm tôi hài lòng nhất, vì cả ở nội dung và cách trình bày. Bộ thích hơn tôi đang làm, bộ tương đối thích sắp làm và bộ thích nhất thì chưa làm. Bộ sách tôi thích nhất còn chưa ra đời mà…!
Vậy mấy bộ đó có tên là gì?
Tôi đang làm bộ Giải thích thuật ngữ văn hoá Trung Quốc khoảng 1500 đến 2000 trang, sắp làm bộ Hoài Nam tử, sách tổ của Đạo gia Trung Quốc, bộ này cũng khoảng 1500 trang.
­Thế còn bộ toàn sử hơn 5000 trang, có lần ông đã đề cập đến?
Đó là dự định mà tôi đã và đang ôm ấp trong khoảng 5 năm nay, nhưng chắc chưa làm được vì chưa có ai có gan đầu tư. Để làm bộ này, phải mất hơn 4 năm, và mỗi tháng phải chi trả đủ tiền cho tôi sống bình thường.
Anh thấy việc mưu sinh với chữ Hán thế nào?
Hiện nay, tôi thấy khả quan. Bởi với tôi, sống được là tốt rồi. Những người khác nghĩ thế nào thì không biết; tôi thì cho rằng, không riêng gì với chữ Hán, nếu không mưu sinh được thì rất dở. Tôi cũng có một thời kỳ rất dài… làm người rất dở.
Ông quan niệm về việc dịch thế nào?
Chủ đích của việc dịch là không cần phải theo sát nguyên tác, mà phải hay hơn nguyên tác. Chủ yếu là phải Tín và Đạt; còn Nhã hay không thì do tài năng của người dịch. Mà khái niệm thế nào là dịch Nhã (dịch hay) thì vô chừng lắm.
Trong số sách đã dịch, ông nghĩ mình đã có cuốn nào đạt trình độ Nhã chưa?
Chưa. Tại vì, có thể khả năng của tôi chưa tới; hay tôi đang trên đường tìm tới cái Nhã.
Những dịch giả tiền bối, có nhiều người đạt trình độ Nhã hay không?
Nhiều chứ. Người tiêu biểu và đáng kể nhất là Nhượng Tống, một dịch giả uyên bác và tài hoa, các bản dịch Ly tao, Tây sương ký… của ông ta đến bây giờ vẫn là mẫu mực, chưa ai có thể dịch hay hơn. Ngay cả Đào Duy Anh, khi dịch Sở từ của Khuất Nguyên, đến bài Ly tao thì cũng lấy lại bản dịch của Nhượng Tống để in vào sách, đề tên N.T. dịch, xem như phần tham khảo chính.
Vì sao ông là một nhà thơ mà lại chưa in một tập thơ dịch nào?
Dịch thơ ở VN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, tôi rất thích Lý Hạ và đã dịch một phần nhưng chưa biết in ở đâu. Nếu có nơi in, tôi sẽ dịch Vô đề (khoảng 60 – 70 bài) của Lý Thương Ẩn; sau đó là một tác giả cận hiện đại, thế kỷ 19, Tra Thận Hành, ông tổ của Kim Dung. Ngoài ra, Quách Mạc Nhược, Hồ Thích, Văn Nhất Đa, Từ Chí Ma, Nạp Lan… cũng là những tác giả mà tôi rất quan tâm.
Đến bây giờ, nếu phải nhìn lại chặng đường học & làm sách của mình, ông sẽ nói sao?
Học chữ Hán từ năm 1967, lập gia đình và sinh con đầu vào năm 1972, mãi đến năm 1987 tôi vẫn là người thất nghiệp. Ròng rã trong 20 năm, vừa do trốn lính (trước 1975) vừa do thất nghiệp, có lẽ thế mà tôi đã có thời gian để học và đọc. Học để quên cái đói. Một thời gian dài, vợ tôi [Quỳnh Hương, tác giả của hơn 50 cuốn sách nữ công gia chánh nổi tiếng_ TT&VH] là người xoay xở may vá loanh quanh, ăn bữa nào lo bữa ấy. Cho nên khi có điều kiện viết sách, trước hết, tôi xem đây là cơ hội để kiếm tiền tồn tại, để phụ vợ nuôi con, nuôi cháu; và đến bây giờ, tôi vẫn giữ quan điểm này.
Nhiều gian truân như vậy, các con ông có theo ngiệp cha không?
Tôi có 3 đứa con, hai trai một gái; trai lớn là thạc sĩ xây dựng, con gái học ngành giáo dục ở Tokyo Học nghệ Đại học [Tokyo Gakkugei Daigakku]; còn đứa út cũng học tại Nhật, ngành công nghệ thông tin ở Tokyo. Ban đầu tôi cứ tưởng vậy là yên thắm rồi, không đứa nào theo nghiệp sách vở, chữ nghĩa, tư tưởng… thì đỡ khổ thân cho nó. Nhưng một ngày con trai lớn tôi bỏ ngành xây dựng, đi học thư pháp ở Chợ Lớn, rồi qua Nhật học Phật học, hiện nay nó đang chuẩn bị bảo vệ luận văn tiến sĩ Phật học tại Đại Cốc Đại học [Otani Daigakku]…, nơi mà trước kia thiền sư D. Suzuki đã học; nhà tôi thành cảnh hai nơi, hai vợ chồng già và một cháu nội sống tại VN, ba đứa con sống tại Nhật, con dâu thì đi đi về về. Cái nghiệp chữ nghĩa nhiều khi cũng có di truyền là vậy. Nhưng tôi cũng thấy chuyện này là bình thường, không lấy làm vui mừng hay phàn nàn gì cả.
Ông ở Ngu Cốc [tên hiệu], con trai lớn thì học ở Đại Cốc, ông nghĩ sao về điều này?
Để biết thế nào là Ngu Cốc, nhà thơ Nguyễn Đức Sơn có làm bài thơ giễu bút hiệu của tôi treo ở trước cửa nhà, tôi nghĩ báo của anh không chịu in bài này đâu [cười]… Còn từ Ngu Cốc đến Đại Cốc, thì cả một quá trình, biết đâu con hơn cha, nhà sẽ có phúc thôi.
Một câu hỏi bên lề, Thư Ấn Quán vừa in tập "Lục bát ba câu" của ông, gồm 229 bài. Nghe nói nhà thơ Huy Tưởng cũng có làm thể loại này, vậy bản quyền phát kiến thuộc về ai đây?
Trong tập này, tôi ghi chú là viết năm 1990 đến 1996, nhưng thực tế tôi chỉ làm có 10 ngày là xong, Trụ Vũ có chứng kiến điều này. Theo nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ thì nhà thơ Huy Tưởng có tranh chấp về 'phát kiến' này; tôi thì không quan trọng lắm, cốt là phải viết như thế nào thôi. Chưa nói thực tế, Huy Tưởng chỉ làm 'những bài 14 chữ' thôi, chứ đâu phải 'lục bát ba câu', 20 chữ.
Hoàn tất vài cuốn sách nữa xem như đã hoàn thành ước nguyện, lúc ấy ông sẽ nói gì với vợ con mình cũng như với người đọc?
Như bài số 226 trong tập thơ của tôi:
                                    Mạng thân gởi lại cho em
                                    Thiết tha anh đến mép viền Vô Vi
                                    Thõng tay chẳng đem chút gì.
Lý Đợi thực hiện - SCL
Ngày đăng : 28.11.2006
Nguồn
Có mấy câu hỏi đáp thật tuyệt.
Hỏi, bao giờ xb thơ dịch, chứ không hỏi, bao giờ xb thơ NTN.
Câu về Nhượng Tống, tuyệt.
Từ từ lèm bèm tiếp
Bởi với tôi, sống được là tốt rồi.
Tôi về nghĩa địa một mình
Tôi rớt mất tim rồi tôi lặng thinh...

Tôi khóc bên ngoài tôi khóc bên trong
NTN: Thánh Ca
Tôi biết những người khóc lẻ loi,
Lệ không rơi ngoài tim mình
TTT

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư