PCT by DT
Đặng Tiến
Nhớ thương Phạm Công Thiện
Phạm Công Thiện, mới qua đời tại
Houston ngày 8.3.2011, với tôi là chỗ cố tri thân thiết, ngang trang
ngang lứa, cùng tập tành bước vào nghề văn những năm đầu thập niên
1960.
Thời đó, Thiện đã có chút ít
tiếng tăm vì từ 16 tuổi đã có soạn một từ điển tiếng Anh (Anh ngữ
tinh âm Từ Điển, 1957) được Nguyễn Hiến Lê viết lời giới thiệu nồng
hậu.
Trước tiên, chúng tôi là bạn chơi,
tại Sài gòn, cùng thân thiết với nhà thơ Hoàng Trúc Ly, đàn anh hiền
lành và hòa nhã. Cùng đi chơi đêm lúc ấy với Thiện, thường có Trịnh
Cung và nhà thơ Ninh Chữ, có tiệm may trên đường Tự Do, thường là kẻ
chi tiền, dường như thỉnh thoảng có cả Tuấn Huy. Là sinh viên bận
học tôi không tham dự những cuộc vui chơi này, nhưng hôm sau được
nghe kể lại cặn kẽ.
Tiếp theo là bạn làm báo. Khoảng
1962-1963 gì đó, anh Hoàng Minh Tuynh làm chủ báo Mai, Sài gòn, bán
nguyệt san. Anh Tuynh là người công giáo tiến bộ, có uy thế lúc ấy,
và ưa giao thiệp với các bạn trẻ mà anh tin cậy, chung quanh Nguyễn
Hữu Thái là sinh viên kiến trúc. Thái kéo bè với đám bạn trẻ như
Phạm Công Thiện, Quỳnh Tân, Lê Hiếu Đằng, Bửu Ý và tôi. Có lúc anh
Tuynh sang Đức vài tháng, giao phó tờ báo cho chúng tôi « muốn làm
gì thì làm ». Thái và Thiện viết vung vít sao đó, tòa Tổng giám Mục
có lưu ý và anh Tuynh kiểm soát tại tòa soạn.
Thiện và tôi dường như có duyên
nợ. Khoảng 1964, không hẹn mà chúng tôi cùng lên dạy học tại Đà
Lạt. Thiện thích Đà Lạt : gia đình anh dường như trước đó, có trang
trại ở Fin Nom. Thời kỳ êm đẹp : việc dạy học nhẹ nhàng, thành phố
đẹp, đồng lương dư dả. Thiện khoe tôi bài thơ mới làm xong :
Mùa xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh.
Thơ hay thiệt hay.
Anh có cho xem bài « gió thổi
đồi tây hay đồi đông » mà nói rằng thơ làm trong cơn mê ngủ.
Vì thân cận, chúng tôi thường bị
ảnh hưởng thơ Hoàng Trúc Ly :
Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm
thanh…
Thơ Phạm Công Thiện :
Cô đơn về trắng sương rừng
Ta nghe tiếng hát hoang đường
nửa đêm
Sau này, Thiện có sửa lại câu
trước.
Thơ Hoàng Trúc Ly :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn,
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
Thơ Phạm Công Thiện :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Nội dung thì khác « chiều thứ
bảy » trong thơ H.T.L. là một ngày trong tuần, trước chủ nhật.
Còn « chiều thứ bảy » trong P.C.T. là lấy ý tự kinh Phật. « Cây
khế » cũng vậy.
Dạo ấy, Thiện đi tu ở Nha Trang
với thầy Trí Thủ, pháp danh Ngươn Tánh. Một hôm xuống chơi nhà Võ
Hồng – mà anh rất thân – khi về chùa thì làm câu thơ này mà về sau
anh tự dịch ra tiếng Pháp :
Je suis le Retour / il fait
tard sur le Chemin
Sept jours après la
pluie tombe
En haut du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Việt Nam giữa thập niên 1960 :
chính trường biến động, chiến trường xao động và tâm lý giao động.
Phạm Công Thiện xuất bản cuốn « Ý thức mới trong văn nghệ và
triết học » và hằng chục sách khác trong khoảng 5 năm, đáp ứng
với tâm trạng thanh niên. Phạm công Thiện là nhà văn có tài, vô cùng
bén nhạy, nắm bắt rất nhanh các luồng tư tưởng thế giới và tâm lý
thời đại, hành văn bay bổng nhiều hình tượng độc đáo, đã gây ảnh
hưởng lớn trong đời sống trí thức miền Nam trong thời kỳ khủng hoảng.
Ra nước ngoài từ 1970, định cư tại Pháp rồi tại Mỹ, Phạm Công Thiện
tiếp tục viết và xuất bản, nhưng dường như không còn quần chúng độc
giả.
Thiện với tôi, duyên nợ vẫn tiếp
tục : tôi ra nước ngoài, làm ngoại giao tại Thụy Sĩ, khoảng 1967.
Một hôm đi làm về thì thấy Thiện ôm ba lô ngồi trước cửa. Thiện ở
chơi dăm ba hôm gì đó, thường uống rượu say, rồi vác ba lô lên đường.
Vài ba năm sau, tôi gặp lại anh tại Paris. Anh tá túc tại nhà in của
Thi Vũ, chơi thân với họa sĩ Vĩnh Ấn. Thiện sống lang bang vất vả,
có đọc cho tôi nghe bài thơ về cảnh chợ trời Montreuil :
Thân anh như con chó
Đứng đợi giữa chợ chiều
Một chiều em qua đó
Con chó đứng nhìn theo.
Dường như thời đó, anh sống nhờ
vào giúp đỡ của nhà văn Henry Miller gửi từ California.
Sau đó cưới vợ, sang Đức, rồi trở
lại Paris. Thỉnh thoảng anh đến tìm tôi, chiều thứ hai sau giờ tôi
dạy học để cùng đi uống bia tại công trường Contrescarpes, khu
Censier, nhìn những con chim đến đậu trên giây thép hay những cành
trụi lá. Có hôm anh hỏi xin tôi bao thuốc lá. Tôi bảo « vậy tao mua
cho mày cả tút » (cartouche). Thiện trả lời « vậy mày đưa tiền ấy
cho tao mua sữa cho con ». Thời điểm này anh vợ con nheo nhóc, không
giới hạn sinh đẻ vì theo…quy luật thiên nhiên.
Tình hình cải thiện khi anh tìm
được chỗ dạy học tại Đại Học Toulouse, môn Triết học…Tây Phương.
Sau đó, khoảng mười năm không tin
tức, cho đến ngày anh lại tìm tôi tại Paris tặng cuốn kỷ yếu song
ngữ Việt-Pháp có nhiều hình minh họa đẹp.
Phạm Công Thiện là người tự học,
vì vậy, mà cũng vì cá tính, có lối hành văn tự do, phóng túng, không
theo phép tắc trường quy, như nhiều tác gia biên khảo khác. Ví dụ
Nguyễn Hiến Lê, là người đầu tiên ca ngợi Thiện, cũng là người tự
học, mà cũng vì cá tính, đã có lối viết khác. Cả hai đều có nhiều
tác phẩm ăn khách, nhưng đóng vai trò hoàn toàn khác nhau trong xã
hội Miền Nam khoảng 1965-1970.
Thiện viết theo cảm hứng và sống
hết mình với từng câu viết. Đặc biệt là Thiện sống vừa thiết tha vừa
hờ hững : ăn khách một thời, thậm chí có độc giả sùng bái, anh không
lấy đó là điều quan trọng. Tác phẩm Phạm Công Thiện đánh dấu một
thời đại, nhưng bản thân tác giả không mấy quan tâm. Có tự hào thì
cũng không phải thời thượng, mà tự hào - vì một lúc nào đó - mình đã
sống tận cùng những điều mình viết, dù rằng sau đó, Thiện có viết
khác đi hay ngược lại. Vì vậy, trước những tác phẩm dồi dào, người
đọc khó nói đến một « sự nghiệp » Phạm Công Thiện hay một Phạm Công
Thiện « triết gia » vì tư tưởng không thành hệ thống. Cuộc đời bồng
bềnh của Thiện cũng góp phần soi sáng điều này, như « đi cho hết đêm
hoang liêu trên mặt đất ».
Phạm Công Thiện nổi tiếng về
nhiều câu văn khẳng định, chắc nịch, có khi quá kích hay quá khích,
nhưng bản thân anh là khách hoài nghi. Từ đó, nói về anh, viết về
anh là việc khó, như đưa dòng suối vào chai thì cũng là nước suối
đấy thôi, nhưng một triệu chai không làm sống lại con suối. Chỉ nên
dành cho Thiện một kỷ niệm, chút tình cảm, và niềm suy nghĩ, vậy là
đủ.
Cuốn sách văn học đầu tiên trong
đời tôi được đọc, lúc 15 tuổi, là cuốn Việt Thi của Trần
Trọng Kim, dạy phép tắc làm thơ. Và bài thơ thất ngôn tứ tuyệt được
dùng làm chuẩn về niêm luật là thơ Bùi Kỷ :
Tôi cùng bác quen nhau đã lâu,
Khi thơ lưng túi rượu lưng bầu.
Trời đất thương tôi, tôi ở lại,
Non sông nhớ bác, bác đi đâu ?
Và đây là lời Phạm Công Thiện,
ngày 28.10.1984, đề tặng sách cho tôi :
« Gửi thằng ma gà khó quên
trong đời chó đẻ của tao ».
Đặng Tiến,
Bệnh viện La Reine Blanche,
12.3.2011
|
Comments
Post a Comment