Tưởng Niệm TTT 2006-2019



Tưởng Niệm TTT 2006-2019





TTT & Duy Thanh

bố và. tháng ba

năm thứ 13

mùa đông năm nay. khắc nghiệt

những ngày. lạnh. kéo dài

tháng ba về. bằng hơi thở. khói

giấc ngủ. đầy mộng. dữ

những dấu chấm. cứ nhân đôi

rồi đặc. kín

tháng ba về

giỗ bố. lần thứ. mười ba

tết đã. qua

mùa xuân ở đây. vẫn chưa về

người ta. trượt băng. trên dòng sông. đông đặc

quần áo. sặc sỡ

dự đoán. những ngày có. tuyết

trong tháng ba. sẽ không nhiều

nhớ bố. ngồi đọc sách. và

hút píp. bên khung cửa sổ. lớn

tràn nắng

hình như. ổ bánh mì. nóng hơn

trong ngày. cóng lạnh

hôm nay. trời trong và. nhiều nắng

ba độ F. bên ngoài

bố. thường ngồi

đọc sách. như vậy. cả ngày

ấm trà thơm. đầy. vơi

những cuốn sách. lềnh khênh. trên mặt bàn

rồi phải. làm gì?

khi ngồi. chờ đợi. trong xe

người đàn bà. chạy bộ. trên lề đường

tháng ba. người ta nói. gì

về. những người đàn ông. đã không còn

về. một tạp chí. đã không còn

tháng ba về. nhớ bố

quần áo. thật kín

khi. ra đường mùa. lạnh

bạn bè. bố không nhiều

và ở. thật xa

chỉ nói chuyện. với nhau. qua phone

cùng những. tiếng cười trống. vắng

tháng ba. tuyết sẽ. rơi

tháng ba. vẫn lạnh

tháng ba. có nắng. và

tháng ba về. để nhớ. Bố

Đài Sử




Note: Nhân giỗ TTT




At the Grave of Wallace Stevens 



(Section I4, Cedar Hill Cemetery, Hartford, Connecticut) 

1

One thinks of the gods dissolving in mid-air
And the towering stillness of a cathedral at dawn. 

One thinks of a solitary reader closing his book
In a ring of lamplight puddled on the desk

Wind ruffles the curtains all night long
And the music of the spheres is silence. 

Raindrops break the watery skin of ponds
And ponds are shattered mirrors of the absolute. 

Stars are the white tears of nothingness.
Nothingness grieves over the disintegrating gods. 


One imagines him as a prodigious morning walker
And a lonely metaphysician pausing in the park, 

A rose rabbi, a sturdy man on a wide path
Dreaming of a sky washed clean by doubt. 

One pictures him strolling under the umbrella
Pines and buttonwoods on the way to work,

Imagination's largest thinker conjuring up
Songs of human radiance twanging in the mist. 

One thinks of him by the lake in a hard rain:
Mirrors on mirrors mirroring the emptiness. 


We have stepped out into a summer storm:
Mute thunder and luminescent air, a wishbone 

Of lightning turned upside down in the clouds,
A crescent of light poised on a dark steeple. 

We have scattered sprigs of holly on the grave
And noticed the rosebushes blooming in shadows. 

But we have not knelt at the heavy slab
Of Rhode Island granite carved with dates. 

The ambassador of imagination is dead
And the guitars are silent. So farewell 


To the maker of mournful summer melodies,
The connoisseur of moonlight, improvisation's king. 

Farewell to the laudator of imperfection,
Grandeur in a business suit, the stylist

Of the void. Farewell to dried fruit
From California, tea imported from Ceylon, 

And fresh ideas sailing in from anywhere.
Farewell to fidelity bonds and surety claims. 

All those worldly realms of reflection
Have been traded in for a slope of trees. 


The graveyard is carved into separate parts:
Streams and ponds, muddy paths, curving lanes. 

You taught us to imagine the sublime
In a bare place, filling in the spaces. 

Thus the sky is a lake brimming with tears,
The lake is a cloudy mirror. All morning 

The wind rises and falls on transparent wings
And the traffic winding along Asylum Avenue 

Is like a ghostly procession, a cortege!
The domes of skyscrapers gleam in the distance. 




1

Người ta nghĩ về những vị thần tan vào thinh không
Và thánh đường sừng sững lúc rạng đông
Người ta nghĩ về 1 độc giả cô đơn
Đóng cuốn sách của mình lại
Trong vùng ánh sáng đùng đục trên mặt bàn
Gió xôn xao bàng hoàng trên những tấm màn cửa suốt đêm
Và âm nhạc của những trái cầu là im lặng
Mưa gãi sồn sột da mặt những ao hồ:
Chúng là những tấm gương bể nát bởi cái tuyệt đối
Những vì sao là những giọt nước mắt trắng của hư vô
Hư vô trầm tư, âu sầu, trên cái hoang phế của những vị thần

2

Người ta nghĩ về ông, như 1 kẻ tản bộ phi thường vào lúc buổi sáng
Và một siêu hình gia cô đơn ngừng nghỉ nơi công viên
Một giáo sĩ Do Thái trong tấm áo choàng màu hồng,
Một người đàn ông vạm vỡ trên lối đi rộng
Mơ một bầu trời rửa sạch hồ nghi
Người ta hình dung ra ông, như 1 kẻ nhàn nhã tản bộ dưới chiếc dù
Thông và buttonwoods trên con đường tới nơi làm việc
Người suy tư rộng lớn nhất, của sự tưởng tượng
Đánh thức, vời tới, tạo ra, gọi dậy…  những bài ca sáng ngời của 1 cõi người
Lung linh trong sương mù
Người ta nghĩ về ông, bên hồ, dưới trận mưa tầm tã
Những tấm gương của những tấm gương phản chiếu cõi trống không

3

Chúng ta bước ra ngoài trời, vào cơn bão mùa hè
Sấm câm nín, không khí phát sáng như lân tinh, và sét như 1 vầng tam giác, lảo đảo trong mây
Một vùng ánh sáng như lưỡi liềm lơ lửng trên lối đi u tối  
Chúng ta trải những nhánh cây holly lên nấm mồ
Và nhận ra những bụi hồng nở rộ trong những bóng dâm
Nhưng chúng ta không quỳ gối
Trên phiến đá cẩm thạch nặng nề ở Rhode Island
Trên khắc tên người với ngày tháng
Vị đại sứ của những người chết, đã chết
Và những cây đàn ghi ta đã im tiếng. Xin vĩnh biệt

4

Gửi tới người làm ra những bia mộ, ngiai điệu, bi khúc mùa hè
Kẻ sành điệu về ánh trăng, vì vua của những ứng tác, gia giảm, “khởi từ ca dao qua tự do”.
Vĩnh biệt chủ soái thơ tự do, kẻ hoành dương cái hoàn hảo, cái bảnh thật bảnh, cái bảnh nhất
Lớn lao, hoành tráng, huy hoàng trong bộ đồ đơn sơ, kẻ tạo ra văn phong của cái trống không, cõi vắng ngắt
Vĩnh biệt
Trái cây khô từ California
Trà nhập cảng từ Ceylon
Và tư tưởng tươi rói rong buồm tới, từ bất cứ nơi nào
Vĩnh biệt những trái phiếu trung thực và những yêu sách an toàn, bảo đảm
Tất cả những vuơng quốc thế gian của sự phản chiếu, nhìn lại
Được mua bán trao đổi, với, chỉ một ven đồi cây

5

Nghĩa địa được khảm, khắc, chạm, đục…
Thành những khu vực tách biệt:
Những con suối và hồ
Những con đường bùn lầy lội
Những lối đi cong cong, vòng vòng
Bạn dậy chúng tớ tưởng tượng cái khinh khoái/khoát - từ này chôm của Khanh Huynh – cái thăng hoa, the sublime
Ở 1 nơi chốn trần trụi, nhập/lấp đầy những không gian
Như thế đó, không gian, bầu trời là 1 con hồ “mù mù sương mù” – không, không phải sương mù, mà là nước mắt –
Con hồ thì là 1 tấm gương mây mù chín cõi, tới tận cõi trời!
Tất cả những buổi sáng
Gió lên, và xuống, trong những cái cánh trong suốt
Và xe cộ luân lưu, vận hành dọc theo Đại Lộ Tạm Cư, 
Giống như 1 đám ma đang diễn tiến, a cortege!
Những vòm cong của những căn nhà chọc trời lấp lánh, từ xa



On the Anniversary of Joseph Brodsky’s Death

 (January 2001) 
Archangelsk, the briny cold, the frigid Baltics,
Children throwing snowballs at Soviet statues.

The Arctic chill of the moon at midday,
The trees wrapped, the pedestrians bundled.

How the sun shivered behind the smokestacks
Like a soldier frozen in place.

At the dimly lit Museum of the Far North
The subject was the poet’s internal exile,

Metaphysics versus History, and the fateful
Struggle between Poetry and Time,

A Cold War that will never end.
Also, his love for watery ports

And stubborn cats, especially the Russian
Blue that hailed from the White Sea.

Afterwards, a slushy walk, salty air,
Sleep in an overcoat in a converted barracks.

All night I heard the muffled boots
Of an army marching through the streets

Under the thick cover of darkness.
But in the morning, anniversary mourning,

I woke to a magisterial silence.
Snow occupied the city.

-Edward Hirsch.

NYRB, Feb 11, 2010


Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông

January 2001


Archangelsk, cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết 

Cái ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.

Mặt trời rùng mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ

Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ 

Siêu hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian

Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước

Và những con mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải

Sau đó, là một cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo

Suốt đêm tôi nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố

Dưới cái vỏ thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,

Tôi thức giấc, bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.







https://www.economist.com/obituary/2019/03/09/obituary-andre-previn-died-on-february-28th

Đọc, thì bỗng nhớ tới MCNK và bản hòa tấu Số 5 La Symphonie du Destin của Beethoven, bản nhạc nền của cuốn tiểu thuyết.
Rồi “nhớ gợi nhớ”, những dòng viết cho cô con gái, trong Thơ Ở Đâu Xa, và…

Tất cả chỉ để nhớ bản After the Sunrise, của Yanni, lần đầu được nghe, khi ra được hải ngoại, và, 1 cách nào đó, với riêng Gấu, nó chính là 1 bản nhạc sến nghe trong tù VC, nhung được rũ sạch tất cả những đau khổ, mất mát… Và liệu ông anh, khi nghe nhạc cổ điển như thế, thì cũng giống như thằng em của ông, khi nghe Yanni.

Và đó là ý nghĩa của câu của Weil.

Ðiều mà tôi mong được trình ra trong những truyện kể của tôi, là, nếu bạn ao uớc chi đó thì phải trải qua ác mộng dài. Muốn kiếm ánh sáng, thì phải bị bủa vây bởi bóng tối sâu thẳm. Muốn hòa bình, thì phải qua cuộc bạo tàn bạo ác vuột khỏi chúng ta. Nếu có những người cảm nhận những gì tôi viết, thì có thể họ cảm nhận ra ở tận sâu thẳm trong trái tim của tôi, có niềm tin rằng, người ta luôn thấy ra được một dấu hiệu nhỏ của ánh sáng, ngay cả trong đêm cực kỳ đen tối.
Murakami
Ðiều Murakami phát biểu, trên đây, Gấu, qua kinh nghiệm cá nhân, có 1 cách phát biểu khác, "cứ mỗi nỗi đau của bạn, là được đền bù bằng 1 nốt nhạc".
Nhưng chỉ đến khi đọc câu của Simone Weil, thì mới hoàn toàn vỡ ra:

Cái "Distance is the soul of beauty", “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, chính là cái khoảng cách giữa 1 bản nhạc sến bạn nghe trước 1975, và cũng nó, khi bạn nghe ở trong tù VC!
Trong bài viết “Ðọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn”, Gấu có nhắc tới Yanni, và những lời ông phát biểu về ông bố của mình.

Vào năm Yanni được 9 tuổi, mê âm thanh quá, mê nhạc quá, quá thèm cây đàn piano, ông bố hiểu thấu lòng dạ con, đã cầm căn nhà đang ở, lấy tiền mua cây đàn.
Yanni nói, nếu mua chậm, là hỏng, vì những cái mầm âm thanh ở trong tôi sẽ chết đi, và sẽ chẳng có dịp chào đời.

Ðó cũng là kinh nghiệm đọc Bếp Lủa của Gấu: Ðọc chậm là... hỏng!
Nhưng kỷ niệm “Gấu biết tới Yanni”, mới đẹp làm sao, và mới đúng cái ý của Murakami: Bạn phải đi hết cuộc chiến đó, thì bạn mới nhìn ra cái tia sáng nhỏ nhoi của hy vọng trong đêm đen sâu thẳm được.

Note: Gấu quen cô bạn Huế, là qua câu của Weil.
Tếu thế.
Thú thế.

Gấu thú thực, không làm sao thưởng thức được nhạc cổ điển. Và để bù lại, nhân đọc bài ai điếu trên Người Kinh Tế, Gấu kể hầu quí độc giả kỷ niệm lần đầu nghe Yanni, New Age – không phải Cổ Điển - khi gặp lại cô bạn – trong Kiếp Khác, Cõi Khác, Đời Khác, Người Khác – khác Gấu Cái – và mới nhất, kỷ niệm với cô bạn Huế, qua Weil.



Nguyễn Quốc Trụ
THƠ MỖI NGÀY
EDWARD HIRSCH
 
 
Note: Bài thơ sau đây, đã post trên Tin Văn, lấy từ tập thơ “The Living Fire”. Gốc của nó, là ở trong Earthly Measures, tập thơ mới order.
 
Trong phần ghi chú, tác giả cho biết, cấu trúc của bài thơ, là từ “In Memoriam Paul Eluard”.
"In Memoriam Paul Celan" is structured after Celan's elegy "In Memoriam Paul Eluard"

 
In Memoriam Paul Celan

Lay these words into the dead man's grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.

Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.

Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.

Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and absolute.

Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.

In memoriam Paul Celan

Déposez ces mots dans la tombe du mort
à côté des amandes et des cerises noires-
crânes minuscules et gouttes de sang en fleurs, yeux,
et toi, ô amertume qui couche sa tête.

Posez ces mots sur les paupières du mort
comme les sourcils, comme les fleurs de trompette médiévales
cela fleurira cette fois-ci à l'ombre.
Laissez les tulipes décapitées luisantes de pluie.

Posez ces mots sur ses paupières noyées
comme des pièces de monnaie ou des étoiles, des yeux auxiliaires.
Canopy le ciel gonflé avec des taches solaires
tandis que le tonnerre aborde le sol.

Syllabe de syllabe, griffée et manipulée,
les mots se sont unis dans le chagrin.
C'est l'heure fantomatique de la lamentation,
le vide à son tour, triste et absolu.

Posez ces mots sur les lèvres du mort
comme des pinces brûlantes, une langue de flamme.
Un aigle à récurer roule et hurle.
Que Dieu nous prie pour cet homme.



Tưởng niệm Paul Celan

Hãy để những từ này trong mồ của người đã chết
Bên cạnh những trái hạnh, và anh đào đen –
Những cái sọ nhỏ xíu, những hoa máu, mắt,
và, mi, ôi cay đắng, làm cái gối đầu

Hãy để những từ này lên mi mắt người chết
Như những sợi lông mi, như những bông hoa kèn trung cổ
Và lần này, sẽ nở rộ trong bóng râm.
Hãy để những bông tulips cụt đầu lấp lánh với mưa

Hãy để những từ này trên mi mắt kẻ chết đuối
Như những đồng tiền, hay ngôi sao, mắt phụ.
Hãy che bầu trời sưng phồng với những lấm tấm mặt trời
Khi sấm dội ầm ầm lên mặt đất

Từng con chữ, từng con chữ, cấu xé, thao túng
Những từ được tạo thành, hợp nhất, trong thống khổ
Đó là giờ giấc ma mị của nỗi than van
Cõi trống rỗng, tới phiên, bèn nức nở, vô cùng, tuyệt đối.

Hãy để những từ này lên môi người chết
Như những chiếc kẹp nóng bỏng, cái lưỡi cháy phừng phực,
Một con chim ưng bay vòng vòng, bay lui, bay tới, và hú lên từng hồi
Cầu Chúa cầu nguyện, cho chúng ta,
Người đàn ông này.


 
Nguyễn Quốc Trụ dịch

 
(Nguồn : Tin Văn
 



















Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư