MỘT NGÀY CỦA IVAN DENISOVICH
Aleksandr Solzenisyn
Đào
Tuấn Ảnh chuyển ngữ
MỘT NGÀY
CỦA IVAN DENISOVICH
Vào
năm giờ sáng, như thường lệ, hiệu
lệnh báo thức vang lên - tiếng búa đánh vào thanh tà
vẹt treo cạnh sở chỉ huy. Tiếng kẻng rè
ngắt quãng, yếu ớt vọng qua lớp kính băng
đóng dầy đến hai đốt ngón tay, chẳng bao
lâu đã im bặt: trời rét nên viên giám thị cũng
chẳng buồn vung tay lâu làm gì.
Tiếng
kẻng đã tắt, nhưng ngoài cửa sổ trời
vẫn tối đen, y như lúc nửa đêm khi Sukhov
dậy đi vệ sinh. Chỉ có ánh sáng của ba ngọn
đèn vàng hắt vào cửa sổ: hai chiếc ở vùng
ngoại biên, một chiếc soi khu vực bên trong trại
giam.
Không
hiểu tại sao chưa có ai tới mở cửa
trại xá*, và cũng không nghe thấy
tiếng đám trực nhật kéo thùng vệ sinh
để luồn đòn vào khiêng đi.
Sukhov
không bao giờ ngủ quá lệnh báo thức, lúc nào anh
cũng dậy đúng vào thời gian này, và như vậy,
trước lúc điểm danh, anh có hẳn một
tiếng rưỡi cho bản thân. Đây không phải là
thời gian của công, mà là thời gian cá nhân. Những
người từng trải cuộc sống trại giam,
bao giờ cũng kiếm được chút gì đó vào
quãng giờ này: có thể khâu thuê cho ai đó đôi găng
tay từ miếng vải lót áo cũ; có thể mang đôi
ủng dạ đã được sấy khô tới
thẳng giường cho tay đội trưởng giàu có
để hắn khỏi phải đi chân trần lục
lọi trong đống ủng tìm đôi của mình; hay chạy
tới các phòng kho xem có ai cần quét dọn, hoặc khuân
vác gì không; hay tới nhà ăn thu dọn bát đĩa trên
các bàn, khuân từng chồng tới chỗ rửa - làm
việc này tuy cũng có thêm được đôi ba
miếng ăn, nhưng ở đó có vô thiên lủng kẻ
tới kiếm chác. Tuy nhiên, điều tệ hại
nhất là nhìn thấy chút cơm thừa canh cặn trong
bát, không đừng được, lại thè lưỡi
ra mà liếm. Sukhov nhớ rất kỹ lời của tay
đội trưởng đầu tiên tên là Kuzmin - một
sói già trong trại giam mà ngay từ hồi bốn ba thâm niên
tù đã có tới 13 năm. Trên một chỗ đất
trống trong rừng, cạnh đống lửa, hắn
nói với đám người vừa bị đưa
thẳng từ mặt trận tới:
-
Các cậu, ở đây là luật rừng. Nhưng kể
cả ở đây người ta vẫn sống
được. Đi tong trước tiên là những
thằng liếm bát, tin vào trạm xá hay làm ăng ten cho
bọn cai ngục.
Về
bọn chỉ điểm, tất nhiên anh ta nói đúng.
Đám ấy cũng biết giữ thân lắm, song lại
giữ thân bằng tính mạng người khác.
Sukhov
bao giờ cũng dậy theo kẻng báo thức, nhưng
hôm nay anh vẫn nằm ì trên giường. Từ chiều
hôm trước anh cảm thấy khó chịu trong
người, chẳng ra sốt rét, chẳng ra nhức
xương. Cả đêm người lúc nào cũng
lạnh cóng, không sao ấm lên được. Chập
chờn nửa thức nửa ngủ anh cảm thấy
lúc thì ốm hẳn hoi, lúc lại thấy đơ
đỡ, và thấy sợ trời sáng.
Nhưng
buổi sáng vẫn cứ tới như thường
lệ.
Với
lại ấm thế quái nào được khi lớp
băng tuyết chất đống trên cửa sổ
như thế kia, còn trên tường của trại xá -
một cái trại xá khốn nạn, dăng khắp
những chỗ tiếp nối với trần là những
màng băng mỏng trông như mạng nhện.
Sukhov
không dậy, anh nằm trên giường tầng trên cùng,
chăn và áo buslat* đắp trùm đầu, còn
hai chân nhét vào một ống tay của chiếc áo bông. Anh
không nhìn, song qua tiếng động cũng biết hết
những gì đang diễn ra trong trại xá và trong cái góc
của đội anh. Ngoài hành lang là tiếng bọn trực
đang huỳnh huỵch khiêng một trong tám thùng vệ
sinh. Người ta cho đây là công việc nhẹ nhàng, dành
cho bọn người tàn tật, nhưng cứ thử
nhấc lên xem, chẳng phải trò đùa! ở đội
75 người ta đang vất xuống sàn một xâu
ủng dạ vừa lấy từ chỗ sấy về.
Còn đây là tiếng đội mình (đội mình hôm nay
cũng đến phiên sấy ủng). Đội
trưởng và đội phó đội anh đang im
lặng đi ủng, giường của họ kêu cót két.
Tay đội phó chắc bây giờ phải tới chỗ
chia khẩu phần bánh mì, còn đội trưởng
phải lên phòng chỉ huy nhận công việc cho
đội trong ngày.
Anh
ta cũng chẳng dễ gì khi hàng ngày phải đối
mặt với mấy ông chỉ huy trại. Sukhov chợt
nhớ ra: hôm nay số phận sẽ được
định đoạt - người ta đang muốn
đẩy đội 104 của anh ra khỏi chỗ xây
dựng xưởng thợ sang một công trình mới mang
tên “Sotsbytgorogok” - “Làng xã hội chủ nghĩa kiểu
mẫu” (LXHCNKM). Cái LXHCNKM này hiện đang còn là một
chỗ đất hoang phủ đầy tuyết mà
muốn làm được cái gì trên đó thì trước
tiên mình phải đào hố, chôn cọc, dăng hàng rào giây
thép gai để tự rào mình lại, để mình
khỏi trốn. Sau đó mới xây dựng.
Ở
đó chắc chắn trong một tháng sẽ chẳng có
lấy một chỗ để mà sưởi - chẳng có
lấy một cái lều rách nào để mà chui vào. Không có
củi - lấy gì mà đốt? Chỉ còn biết dựa
vào chính mình thôi, và đó cũng cách duy nhất để
tự cứu mình.
Đội
trưởng lo lắng tìm phương kế đùn
việc này cho một đội nào đó khù khờ hơn.
Tất nhiên, đi tay không thì đừng hòng mà
được việc. Cũng phải có nửa cân mỡ
muối lót tay cho trại trưởng, có khi phải cả
cân cũng nên.
Hay
hôm nay mình tới trạm xá xin cái giấy phép nghỉ
một ngày? Người ngợm làm sao cứ bải
hoải bài hoài. Thì cứ thử, cũng chẳng mất
gì.
Còn
nữa, hôm nay cha giám thị nào trực nhỉ? Anh nhớ
ra, hôm nay đến phiên Nửa Ivan, một tay trung sỹ
gầy nhom, dài đuồn đuỗn, mắt đen.
Thoạt nhìn hắn ai cũng hãi, nhưng khi đã biết
hắn rồi, thì đây là người dễ dãi nhất
trong đám giám thị trực - anh ta chẳng bao giờ
nhốt ai vào xà lim, hay lôi ai tới thủ trưởng
quản chế. Thế là mình có thể nằm cho tới
lúc đội 9 tới nhà ăn.
Chiếc
giường tầng bên cạnh rung lên và chao đảo vì
cả hai người cùng dậy một lúc - tầng trên là
láng giềng Sukhov - anh chàng Aliosa theo đạo Báp-tít*,
còn tầng dưới là Buinovski, trước là trung tá
hải quân.
Những
người tù già khiêng thùng vệ sinh đang cãi lộn,
đùn đẩy nhau đi lấy nước sôi. Họ
chửi bới ầm ĩ như mấy mụ đàn bà.
Tay thợ hàn điện ở tổ 20 rống lên:
-
Ê, mấy lão bấc thối, có im đi không! - và ném
chiếc ủng về phía họ.
Chiếc
ủng bay đánh vèo, đập vào cột. Những
người khênh thùng im bặt.
Ở
đội bên, tay đội phó lẩm bẩm than
phiền:
-
Này Vasil Fedorych, bọn ở phòng cấp lương
đểu quá, mọi khi mình vẫn được bốn
chiếc bánh mì chín lạng, hôm nay chúng thiến mất
một, còn có ba. Ai là người chịu đói đây?
Anh
ta nói thầm, nhưng tất nhiên cả đội
đều nghe thấy và ai cũng lo: kẻ nào sẽ
bị truất khẩu phần chiều nay đây?
Sukhov
vẫn nằm dài trên chiếc đệm nhồi cứng
mạt cưa. Cứ sốt rét mẹ nó cho xong, chứ
đừng có nhức mỏi nửa chừng, nửa
đoạn như thế này, chẳng còn biết ra làm sao
nữa.
Trong
lúc anh chàng Báp - tít lẩm nhẩm cầu kinh, Buinovski
chạy vọt vào phòng, lớn tiếng tuyên bố không cho
riêng ai, nhưng vui mừng một cách độc
địa:
-
Nào, các chiến sỹ hải quân đỏ, hãy giữ
vững! Đúng ba mươi độ dưới không!
Và
thế là Sukhov quyết định: đi trạm xá.
Song
cũng chính lúc đó một bàn tay đầy quyền
lực lột phăng tấm chăn đắp trên
người anh, Sukhov hất chiếc trấn thủ ra
khỏi mặt, nhỏm dậy. Phía dưới,
đầu ngang thành giường tầng trên, là gã giám
thị người Tác Ta gầy ốm.
Thế
tức là thằng cha này trực đột xuất và
hắn đã lẻn vào trại xá tự lúc nào.
-
S-854! - tên Tác Ta đọc con số ở tấm mụn
trắng khâu trên lưng chiếc trấn thủ màu đen
của Sekhov - ba ngày nhà đá, làm việc bình thường!
Cái
giọng nghèn nghẹn đặc biệt của hắn
mới chỉ vang lên, tức thì trong trại xá mờ
tối, nơi không phải ngọn đèn nào cũng sáng,
nơi ngủ trên năm chục chiếc giường
đầy rệp là hai trăm con người, lập
tức tất cả những ai còn đang nằm vội
vùng dậy và vội vàng mặc quần áo.
-
Vì tội gì ạ, thưa thủ trưởng? - Sukhov
hỏi, cố làm cho giọng mình đáng thương
hơn là muốn biết lí do.
Làm
việc bình thường, có nghĩa mới chỉ một
nửa nhà đá thôi, tức là vẫn được ăn
nóng và chả còn lúc nào mà nghĩ ngợi. Nhà đá hoàn toàn,
đó là ở hẳn trong xà lim, không được ra ngoài
làm việc và không được ăn nóng.
-
Tại sao giờ này vẫn chưa dậy? Lên phòng chỉ
huy! - tên Tác Ta uể oải giải thích, vì cả hắn,
cả Sukhov, và tất cả mọi người
đều đã hiểu lí do bị phạt.
Cái
mặt nhẵn nhụi, nhăn nhúm của tên Tác Ta không
biểu hiện điều gì. Hắn quay lại tìm
bắt thêm người khác, song tất cả mọi
người, kẻ ngồi trong bóng tối, người
ngồi dưới bóng đèn, đều đã xỏ chân
vào hai ống quần bông có ghi số hiệu ở
đầu gối trái, hoặc đã mặc xong quần áo,
khép vạt áo bông, chạy vội ra, đứng chờ
hắn ở ngoài sân.
Giá
Sukhov bị phạt nhà đá vì tội khác cơ, tội mà
anh đáng bị phạt, thì đã chẳng bực mình đến
thế. Đằng này bao giờ anh cũng là một trong
những người dậy sớm trước tiên. Song
anh hiểu, chẳng thể xin xỏ gì ở tên Tác Ta này.
Và tiếp tục hỏi cho phải phép, Sukhov, trên
người vẫn chiếc quần bông không cởi lúc
đi ngủ (phía trên đầu gối trái cũng vá
một miếng vải trắng có hàng chữ đen đã
bạc màu S-854), mặc áo bông (đằng trước
ngực và sau lưng chiếc áo này cũng in số hiệu
này), vớ lấy đôi ủng của mình trong cái
đống ở trên sàn, đội mũ (gắn cùng
số hiệu ở đằng trước), rồi
đi theo tên Tác Ta.
Toàn
đội 104 đều nhìn thấy Sukhov bị giải
đi, song không ai nói một lời nào: nói để làm gì,
và liệu nói gì đây? Gía có đội trưởng thì anh
ta có thể can thiệp đôi chút, nhưng hiện anh ta
không có mặt. Sukhov cũng không nói với ai một
lời, chọc tức thằng Tác Ta này làm gì. Không cần
phải dặn, anh em khắc giữ suất sáng cho anh.
Hai
người bước ra ngoài.
Băng
giá lập tức choán lấy hơi thở. Hai ngọn
đèn pha lớn chiếu bắt chéo khắp vùng từ
những cái chòi dựng ở góc xa. Những ngọn đèn
ở ngoại vi và trong khu vực trại giam sáng trưng.
Đèn nhiều đến nỗi chúng hoàn toàn làm mờ
những ngôi sao.
Tiếng
ủng nghiến rau ráu trên tuyết, những người
tù đang vội chạy làm việc của mình,
người đi vệ sinh, người tới kho
giữ đồ tiếp tế, người mang kê
tới bếp cá nhân, - ai cũng đầu rụt vào vai,
áo bông cài chặt cúc. Tất cả họ đều
thấy lạnh không phải vì băng giá, mà vì ý nghĩ
suốt cả ngày hôm nay sẽ phải ở ngoài trời.
Tên Tác Ta mặc chiếc áo khoác cà tàng có viền nẹp xanh
vẫn bước đều, có vẻ như băng giá
hoàn toàn không chạm tới hắn.
Hai
người đi qua dãy hàng rào gỗ cao bao quanh khu
trừng giới - nhà tù bằng đá trong khu trại giam,
cạnh hàng rào giây thép gai ngăn lò bánh của trại
với tù nhân; qua góc trại chỉ huy, nơi thanh tà
vẹt cũ dùng làm kẻng treo trên một cây cột
bằng sợi giây thép to tướng; qua một cây cột
khác, trên đó, ở chỗ khuất gió và không cao lắm,
có treo một cái hàn thử biểu bị băng tuyết
bọc kín. Sukhov liếc mắt nhìn lên chiếc ống màu
sữa với hi vọng: nếu nó chỉ âm bốn
mươi mốt độ thì tù nhân không bị xua đi
làm việc. Chỉ có điều hôm nay nhiệt độ
không xuống tới bốn mươi.
Vừa
bước vào phòng chỉ huy, hai người lập
tức tới thẳng chỗ giám thị. Hoá ra, như
Sukhov đã nghi nghi trên đường: chẳng có nhà đá
nào cả, chỉ là sàn trong phòng giám thị chưa
được cọ rửa. Lúc này tên Tác Ta tuyên bố tha
tội cho Sukhov và ra lệnh cho anh lau sàn.
Trước
đây việc lau sàn trong hòng dành cho một tù nhân chuyên làm
việc này và anh ta không phải làm việc ngoài trại -
tức là nhận trực tiếp công việc cần
vụ trong phòng chỉ huy. Song sống lâu trong phòng các
xếp, thường xuyên ra vào chỗ ông thiếu tá,
trưởng trại, trưởng ban an ninh, phục
vụ họ, đôi khi nghe lỏm được
chuyện nọ chuyện kia mà ngay đến các giám
thị cũng không được biết, hắn lên
mặt, cho rằng lau sàn cho mấy tên giám thị tầm
thường không xứng với mình. Bọn kia gọi
hắn vài ba bận, cuối cùng hiểu ra, bắt
đầu triệu đám tù thường tới làm công
việc này.
Trong
phòng giám thị lò sưởi cháy phừng phừng. Hai tên
giám thị đang đánh cờ, cởi hết sống áo,
chỉ để lại mỗi áo lót bẩn thỉu, còn
tên thứ ba để nguyên cả áo bông có thắt lưng
và nguyên cả ủng, đang nằm ngủ trên một
chiếc ghế băng hẹp. Ở góc phòng có một
chiếc xô với miếng giẻ.
Sukhov
sung sướng cảm ơn tên Tác Ta đã tha cho anh:
-
Cám ơn thủ trưởng! Từ giờ trở đi
tôi hứa sẽ không bao giờ dậy trễ nữa.
Luật
lệ ở đây rất đơn giản: xong việc -
cứ việc về. Bây giờ, khi được giao
việc, Sukhov cảm thấy hết nhức mỏi. Anh
xách xô ra giếng, tay không đi găng (vì vội nên anh
đã bỏ quên đôi găng dưới gối).
Mấy
tay đội trưởng đi nhận việc ở Ban
kế hoạch sản xuất (BKHSX) đang tụ tập
dưới chân cột treo hàn thử biểu. Một tay
trẻ hơn cả, từng là Anh hùng Liên Xô, trèo lên cột
lau chiếc hàn thử biểu.
Phía
dưới mọi người gọi với lên:
-
Cậu thở ra chỗ khác ấy, kẻo nhiệt
độ tăng lên đấy!
-
Lên cái con tiều! Lên cái gì!... không ảnh hưởng.
Turin,
đôi trưởng của đội Sukhov không có trong
đám người này. Đặt chiếc xô và giấu hai
tay vào ống tay áo, Sukhov tò mò đứng xem. Anh chàng ở
trên cột nói giọng khàn khàn:
-
Hai mươi bẩy độ rưỡi - cứt
thật!
Ngó
lại một lần nữa cho chắc ăn, anh ta
nhảy xuống đất.
-
Cái nhiệt độ kế này bố láo, toàn chỉ sai, -
có người nào đó nói - Liệu người ta có
chịu treo cái tốt trong trại tù không đây?
Đám
đội trưởng giải tán. Sukhov chạy ra
giếng. Dưới hai vạt mũ đã buông xuống
nhưng chưa buộc chặt, tai anh bị băng giá làm
cứng lại.
Giếng
bị băng phủ dầy nên mãi mới cho
được cái xô qua cái lỗ ở miệng giếng.
Còn giây kéo thì cứng lại như một cái que.
Sukhov
xách chiếc xô bốc hơi về phòng giám thị và nhúng
đôi tay đã mất cảm giác vào nước giếng.
Anh thấy ấm hơn.
Tên
Tác Ta không còn ở đó, trong phòng có thêm một giám thị
nữa, họ đã thôi chơi cờ và thôi ngủ,
đang cãi nhau xem tháng Giêng này sẽ được lĩnh
bao nhiêu kê (trong khu dân cư tình hình thực phẩm thật
tồi tệ, và mặc dù tem phiếu đã hết từ
lâu, song đám giám thị vẫn được ưu tiên
so với dân trong khu, mua một vài thứ giảm giá ).
-
Đóng cửa lại thằng ngu! Gió lùa! - một trong
mấy tên giám thị quát lên.
Không
nên làm ướt ủng ngay từ buổi sáng. Dù có
chạy được về trại cũng chẳng có
đôi khác mà thay. Suốt tám năm tù Sukhov đã nắm
vững tình trạng giầy dép. Có lúc qua cả mùa đông
chẳng có lấy một đôi ủng dạ, có lúc ngay
giầy thường cũng chẳng thấy, phải
đi loại dép làm từ vỏ cây phong hay dép mác STZ
(tức loại dép được sáng chế từ vỏ
lốp ô tô cũ của xưởng máy cày Cherlabinsk, lúc
đi để lại vết lốp xe). Bây giờ tình
hình giầy dép có phần khả quan hơn: dạo tháng
Mười (nhân được xuống kho với trại
trưởng) Sukhov nhận được một đôi
giầy chắc chắn, mũi khoẻ, và đủ
rộng để có thể quấn tới hai lớp
vải bọc chân. Suốt cả tuần Sukhov như
người được hưởng lễ thánh, lúc nào
cũng khoái trá đập hai gót giầy mới vào nhau.
Thế rồi vào tháng Chạp lại được phát
ủng nữa chứ, đời tươi như hoa,
thật chẳng muốn chết tí nào. Nhưng có một
thằng chó má nào đó ở phòng kế toán rỉ tai
thủ trưởng rằng ủng thì vẫn phát, nhưng
giầy thì phải thu về, rằng không có cái lệ tù
được lãnh hai đôi một lúc. Và thế là Sukhov
phải lựa chọn: hoặc đi giầy cả mùa
đông, hoặc đi ủng cho ấm, nhưng phải
trả lại đôi giầy. Anh đã nâng niu đôi
giầy, đánh cho da mềm ra, giầy mới làm sao
chứ, ôi trời! Suốt tám năm ở tù anh không
tiếc gì bằng tiếc đôi giầy ấy. Chúng
sẽ bị đổ vào một đống, đến
mùa xuân chúng sẽ chẳng phải là của anh nữa.
Hệt như những con ngựa nhà đem nộp vào nông
trang vậy.
Sukhov
bỗng nảy ra một sáng kiến. Anh nhanh nhẹn
tụt vội đôi ủng, dựng chúng vào góc nhà, ném
mớ vải bọc chân lên trên (chiếc thìa rơi
xuống sàn; dù có vội vào nhà đá đến mấy, anh
vẫn không quên dắt thìa vào ủng) và chân trần, anh
nhúng giẻ đẫm nước, lùa đại vào
đống ủng của mấy tên giám thị.
-
Thằng này, đồ khốn, nhẹ tay chứ! -
Một giám thị co chân lên ghế, la lối.
-
Sao lại gạo? Gạo chia theo định mức khác,
không lấy gạo ra mà so được!
-
Mày nhúng ngần ấy nước làm gì hở đồ
ngu? Lau nhà kiểu gì vậy?
-
Thưa thủ trưởng, không thế thì tài thánh cũng
chẳng cọ được, sàn bẩn quá...
-
Mày đã nhìn thấy mẹ đĩ nhà mày lau sàn bao giờ
chưa hở đồ đầu lợn?
Sukhov
đứng thẳng người, tay cầm miếng
giẻ rỏ nước tong tong, miệng cười
hồ hởi để lộ mấy chiếc răng
khuyết do bị bệnh xung huyết đục thủng
ở Ust-Izma năm 1943, năm anh đã vượt qua
được. Mà vượt qua như thế nào chứ,
ỉa chảy ra máu triền miên, cái dạ dầy lép
kẹp chả chịu nhận bất cứ thức gì. Bây
giờ cái còn lại của thời kỳ ấy là
giọng nói phều phào tức cười của anh.
-
Thưa thủ trưởng, tôi xa vợ từ năm 1941.
Bây giờ chả còn nhớ bà xã ra làm sao nữa.
-
Nhìn chúng lau nhà kìa, bọn khốn kiếp, chẳng biết
làm cái gì cả, mà cũng chẳng thiết làm nữa. Quân
này không đáng ăn bánh mì, ăn cứt mới phải!
-
Nhưng việc chó gì mà ngày nào cũng phải lau sàn
nhỉ? Làm sao hết ẩm được. Này, số 854!
nghe đây. Lau qua thôi, nhúng nước vừa vừa
chứ. Lau xong rồi xéo!
-
Gạo! Không so kê với gạo được!
Sukhov
lau sàn hùng hục. Công việc giống như đòn xóc hai
đầu: làm cho thiên hạ đòi hỏi chất
lượng, làm cho thủ trưởng chỉ cần
tỏ vẻ thôi. Nếu không tất cả đã ngỏm
củ tỏi từ lâu rồi. Đó là cái chắc.
Sukhov
lau qua sàn gỗ một lượt nữa, không để
sót một chỗ khô nào rồi ném luôn cái giẻ chưa
vắt vào phía sau chiếc lò, ra đến cửa anh xỏ
ủng, hắt chỗ nước còn lại trong xô lên
lối đi, chỗ các thủ trưởng hay qua lại,
và đi tắt qua nhà tắm, qua nhà câu lạc bộ
tối om, lạnh lẽo, đến nhà ăn.
Anh
còn phải kịp đến trạm xá nữa, bây giờ
lại thấy đau ê ẩm cả người. Lại
còn phải tránh không để bọn giám thị nhìn
thấy trước cửa nhà ăn: trại trưởng
đã ra lệnh triệt để bắt giữ và
nhốt xà lim các phạm đi một mình.
Hôm
nay, trước cửa nhà ăn không đông người,
không phải xếp hàng. Quả là một trường
hợp hi hữu. Vào thôi.
Bên
trong nhà ăn mù mịt như nhà tắm hơi, nào là hơi
nước do băng tan ở cửa tràn vào, nào là hơi
súp loãng của nhà ăn bốc lên. Người các
đội ngồi la liệt sau bàn, hoặc đứng
chen chúc ở lối đi giữa các dãy bàn chờ lấy
chỗ. Vừa la lối, vừa len lỏi qua đám
đông, hai, ba người thuộc mỗi đội bê
khay gỗ chất những bát súp và cháo, tìm chỗ trống
trên bàn để đặt xuống. Gào lên như thế
mà cái thằng ngớ ngẩn này vẫn không nghe thấy gì,
xô luôn vào khay người ta làm đổ tung đổ toé
thế này! Tiện cái tay để không ông cho mày mấy
nhát vào gáy, vào gáy. Cứ phải làm thế cho chừa cái
thói lớ xớ kiếm chác, liếm láp đồ ăn
thừa mà vướng cả lối đi.
Ở
đằng kia, ngồi sau bàn là một chàng trai trẻ
đang làm dấu thánh trước khi ăn. Chắc là dân
vùng Tây Ucraina, hoặc là phạm mới, chứ dân Nga thì
từ lâu đã chẳng nhớ phải làm dấu bằng
tay nào rồi.
Ngồi
trong nhà ăn vẫn lạnh, nên phần đông các phạm
đội mũ trong lúc ăn. Nhưng mà họ chẳng
vội, vớt hết những mẩu cá thối bé tí
lẫn trong đám lá bắp cải, rồi nhổ
xương ra bàn. Khi xương cá chất thành đống
sẽ có một người nào đó gạt xuống
đất trước khi đội mới ngồi vào, và
rồi xương sẽ bị dẫm nát bét dưới
đất.
Nhổ
ngay xương xuống sàn bị coi là bất lịch
sự.
Giữa
nhà ăn có hai dãy không ra cột nhà, không ra dàn chống.
Ngồi cạnh một trong những cái cột ấy là
Fechiukhov, người cùng đội với Sukhov, đang
giữ suất sáng cho anh. Đó là một trong những
thằng vét đĩa nhất đội, còn kém cả
Sukhov nữa. Bề ngoài tưởng chừng mọi
người trong đội ai cũng như ai - cũng áo bông
đen, cũng mang số - nhưng bên trong thì khác nhau
lắm - có thứ bậc, đẳng cấp rõ ràng.
Buinovski, chẳng hạn, không thuộc hạng người
ngồi giữ bát cho kẻ khác, hay chẳng phải
việc nào Sukhov cũng phải dúng tay vào, đã có những
kẻ thấp kém hơn anh phải làm.
Nhìn
thấy Sukhov, Fechiukhov thở dài và đứng dậy
nhường chỗ cho anh.
-
Nguội hết cả rồi, tôi đã định sơi
hộ anh. Cứ tưởng anh nằm nghỉ ở nhà
đá cơ.
Hắn
không đứng chầu, vì biết Sukhov sẽ không
để lại chút gì cho hắn. Ai chứ cha này đánh
nhẵn cả hai bát cho coi.
Sukhov
rút chiếc thìa giắt trong bốt ra. Chiếc thìa này quý
giá đối với anh, nó đã theo anh khắp miền
Bắc. Chính anh đã đổ khuôn cát đúc nó từ
một sợi giây nhôm và khắc lên dòng chữ: “Ust - Izma,
1944”.
Sukhov
bỏ mũ khỏi cái đầu trọc của mình - dù
lạnh mấy anh cũng không bao giờ để nguyên
mũ mà ăn. Anh khuấy bát súp đã nguội, vội xem
trong đó có gì. Vẫn như mọi khi, không phải súp múc
đầu nồi, cũng không phải súp vét nồi.
Thằng Fechiukhov trong lúc giữ hộ khẩu phần, dám
hớt của mình một củ khoai tây lắm.
Súp
trong trại đôi khi ngon do nóng, nhưng bây giờ tô súp
của Sukhov đã nguội ngắt. Dù vậy anh vẫn
ăn chậm rãi và nhâm nhi như thường lệ.
Chả việc gì phải vội, dù có cháy nhà cũng
mặc. Ngoài lúc ngủ, tù nhân được sống cho
mình 10 phút vào bữa sáng, năm phút vào bữa trưa và
năm phút vào bữa tối.
Súp
thì ngày nào cũng vậy, không thay đổi. Chỉ có
tuỳ thuộc vào loại rau nào trữ được
trong mùa đông. Năm ngoái chỉ trữ được cà
rốt, muối, vì vậy suốt từ tháng Chín tới
tháng Sáu năm sau trong súp chỉ có độc mỗi cà
rốt. Bây giờ là bắp cải thối. Trại
được ăn ngon nhất vào tháng Sáu, khi mọi
thứ rau đều đã hết, phải dùng đến
lúa mạch. Tệ nhất là tháng Bẩy, người ta
trộn lá tầm ma xé nhỏ vào nồi.
Cá
thì toàn loại nhỏ và rặt những xương.
Thịt cá đã bị nấu rữa hết, chỉ còn
dính một ít ở đầu và đuôi. Không bỏ sót
một cái vẩy hay một mẩu thịt còn dính trên
bộ xương cá, Sukhov nhai nát hết xương, hít
lấy nước, rồi nhả bã xuống bàn. Tất
cả những gì có trong con cá anh ăn bằng hết,
kể cả mang, kể cả đuôi, mắt cá anh cũng
ăn nếu như nó còn nguyên tại chỗ, chỉ khi nào
những mắt cá lớn bị long ra và nổi lềnh
bềnh trong bát thì anh mới không ăn. Ai cũng
cười anh về chuyện này.
Hôm
nay Sukhov để dành được đôi chút: anh không có
mặt trong phòng lúc phát khẩu phần bánh mì buổi sáng,
vì vậy lúc này anh ăn súp không. Bánh mì lúc nào ăn chả
được, ăn sau càng đỡ đói.
Món
thứ hai là cháo magara đã nguội ngắt và đặc
cứng vón thành từng cục. Cái món magara này có nóng cũng
không ngon, ăn chẳng thấy no, vì chỉ độc
cỏ là cỏ, có điều nó màu vàng nên trông giống màu
cháo mạch. Người ta nghĩ ra cách dùng nó thay cho
hạt mạch và bảo rằng đó là học
được của người Tầu. Khi nấu lên
một bát cháo nặng chừng 300gram - thế là ổn: cháo
không ra cháo, nhưng thay được cho cháo.
Sukhov
liếm thìa, giắt vào chỗ cũ trong ủng,
đội mũ, rồi đi trạm xá.
Trời
vẫn tối đen, những ngôi sao đã bị đèn
pha của trại xua đi mất. Và hai luồng sáng
rộng của chiếc đèn pha vẫn quét đi quét
lại khắp khu trại giam. Vì đây là trại
đặc biệt*, nên lúc đầu còn có cả
pháo sáng chuyên dụng cho mặt trận nữa. Hễ
động mất điện là ngay lập tức pháo sáng
vãi lên trời, trắng xanh đỏ tím vàng, như thể
chiến tranh thực sự. Sau này người ta ngừng
bắn pháo sáng, có thể vì quá tốn kém.
Trời
vẫn còn là đêm, như lúc có lệnh báo thức, song
người có kinh nghiệm căn cứ vào những
dấu hiệu nhỏ nhặt khác nhau dễ dàng biết
được lệnh điểm danh sắp sửa
nổi lên. Tên phụ việc cho thằng Thọt (Thọt
là biệt hiệu đặt cho một tên cần vụ
trong nhà ăn. Hắn tự nuôi một người giúp
việc) đi gọi trại xá 6 tới ăn sáng. Đây
là nơi dành cho những phạm tàn tật, không thể làm
việc ở ngoài trại. Một ông hoạ sỹ già
đang tập tễnh tới bộ phận Văn hoá -
Giáo dục của trại lấy sơn và cọ
để vẽ số hiệu lên quần áo của
phạm. Lại thấy thằng cha Tác Ta đang vội vã
sải bước băng qua đường về phía
phòng trại trưởng. Không có mấy người ở
ngoài sân, có nghĩa tất cả các phạm đang ngả
ngốn trong phòng sưởi ấm, tận hưởng
những giây phút ngọt ngào cuối cùng.
Sukhov
mau lẹ nấp ngay sau góc nhà để tránh mặt tên Tác
Ta. Lần thứ hai mà để hắn tóm được
thì khốn to. Mà cũng chẳng phải mình hắn, lúc nào
cũng phải mở to mắt ra mà nhìn, đừng bao
giờ để một tên giám thị nào bắt gặp
anh đi một mình, mà phải đi cùng với cả
bọn. Hắn rình bắt người hoặc để
làm việc gì đó, hoặc để trút cơn giận dữ.
Lệnh đã ban cho toàn trại: khi gặp giám thị
phải bỏ mũ cách năm bước và chỉ
được đội sau khi đi được hai
bước. Có những giám thị nhắm mắt làm
ngơ, chả thèm để ý, nhưng cũng có những
kẻ lấy làm khoái cái trò này lắm. Biết bao nhiêu
phạm đã phải vào nhà đá vì cái trò này rồi, lũ
chó đáng nguyền rủa. Thôi chả dại, hãy cứ
tạm lánh vào cái góc này đã.
Tên
Tác Ta đi khỏi, Sukhov vừa định đi tiếp
tới trạm xá thì chợt nhớ ra anh có hẹn với
tên người Latvi cao kều bên trại xá 7 để mua
thuốc lá sợi của hắn vào sáng nay, trước
giờ điểm danh. Từ sớm tới giờ anh
bận quá nên quên khuấy đi mất. Anh chàng Latvi này
mới nhận được đồ tiếp tế hôm
qua, ngày mai chắc sẽ chẳng còn lấy một sợi
thuốc. Lại phải đợi thêm một tháng
nữa, cho tới khi hắn nhận được
đồ tiếp tế mới. Thuốc của hắn
khá ngon, nặng vừa phải, lại thơm nữa.
Thứ thuốc có màu hơi nâu nâu.
Sukhov
phân vân đứng lại nghĩ xem có nên quay lại
trại 7 không, nhưng trạm xá chỉ còn cách vài
bước chân. Anh sợ sệt tiến tới bậc
thềm trạm xá, tuyết lạo xạo dưới chân.
Hành
lang trạm xá, như mọi khi, sạch tới mức
sợ phải bước trên đó. Tường sơn màu
trắng sáng loá. Bàn ghế cũng trắng tinh.
Nhưng
cửa của tất cả các phòng đều đóng. Các
bác sĩ giờ này chắc đang còn nằm trên
giường. Người trực hôm nay là y tá Kolia Vdovuskin
- một chàng trai trẻ, mình bận blu trắng tinh,
ngồi sau chiếc bàn nhỏ sạch sẽ, đang
viết cái gì đó. Ngoài ra không có ai.
Sukhov
bỏ mũ, như khi đứng trước thủ
trưởng, và theo thói quen trong trại, không nhòm vào
những chỗ không nên nhìn, song không thể không nhận
thấy Nikolai đang viết những dòng chữ rất
đều nhau và mỗi dòng, đều chằn chặn
từ trên xuống dưới, được bắt
đầu bằng một chữ cái hoa viết thụt vào
so với dòng kẻ. Sukhov tất nhiên hiểu ngay rằng
đó không phải công việc, Nikolai đang làm việc
riêng, song chẳng hơi đâu mà để ý.
-
Có việc này... Nikolai Semenych... hình như... tôi bị ốm
thì phải... - Sukhov ấp úng, có cảm giác sắp sửa
qụyt nợ người khác.
Vdovuskin
ngừng viết, ngước đôi mắt to, lạnh
lùng. Anh ta đội mũ trắng, mặc áo choàng
trắng, không có số tù.
-
Sao đến muộn thế? Chiều tối qua sao không
tới? Anh biết buổi sáng trạm xá không khám bệnh
chứ? Danh sách những tù nhân được nghỉ
việc đã gửi sang BKHSX rồi.
Sukhov
thừa biết tất cả. Anh cũng biết bứt ra
một lúc buổi tối đâu có dễ dàng gì.
-
Nhưng, Kolia à, khổ nỗi là lúc tối, khi cần nó có
đau cho đâu...
-
Đau ra làm sao? Đau cái gì?
-
Cũng không biết đau chỗ nào nữa, nhưng toàn
thân cứ rã rời.
Sukhov
không thuộc những kẻ thường xuyên chầu
chực ở trạm xá và Vdovuskin cũng biết vậy.
Song anh ta chỉ được phép cho hai người
nghỉ việc buổi sáng, và anh ta đã cho hai
người nghỉ rồi. Tên của họ đã ghi trong
danh sách đặt dưới tấm kính màu xanh trên bàn và
phía dưới bảng danh sách đã có một
đường gạch chéo.
-
Anh phải lo từ sớm chứ. Ai lại ngay
trước giờ điểm danh bao giờ? Đây!
Vdovuskin
rút một chiếc cặp nhiệt độ trong đám
cặp nhiệt độ cắm trong một cái lọ
giữa những miếng gạc, lau khô, rồi đưa
cho Sukhov.
Sukhov
khép nép ngồi xuống chiếc ghế dài đặt
cạnh tường, sát mép đầu ghế, cố không
để nó bị lật. Anh cố tình chọn cái thế
ngồi bất tiện như vậy để tỏ ra
rằng mình xa lạ với trạm xá, rằng anh tới
đây đâu có xin xỏ gì nhiều.
Vdovuskin
lại tiếp tục viết.
Trạm
xá là một khu biệt lập hẳn, nằm ở một
góc xa của trại và không một âm thanh nào vọng
được tới đây. Không một tiếng tích
tắc của đồng hồ - tù nhân không
được đeo đồng hồ - đã có thủ
trưởng quản thời gian cho họ. Thậm chí ngay
tiếng chuột cũng không nghe thấy, chúng đã bị
con mèo của trạm xá vồ hết. Nó được
nuôi để làm công việc này.
Ngồi
trong một căn phòng sạch sẽ, tĩnh mịch
dường này, dưới ngọn đèn sáng choang và
chả phải làm gì những suốt năm phút
đồng hồ, Sukhov cảm thấy kì kì thế nào. Anh
ngắm nghía tất cả các bức tường và
chẳng thấy gì ở trên đó. Anh săm soi chiếc áo
trấn thủ của mình, số hiệu trên ngực áo
đã mờ rồi đây, phải làm cho mới lại,
chẳng lại rách việc. Anh sờ đám râu trên mặt
- rậm rồi đây, từ lần chót được
thăm nhà tắm tính tới hôm nay đã mười hôm
rồi còn gì. Kệ mẹ nó. Còn ba ngày nữa tới
kỳ tắm rửa, lúc ấy cạo một thể.
Việc chó gì phải ngồi xếp hàng chờ đợi
ở chỗ hớt tóc. Có ma nào coi mà đỏm với
dáng.
Nhìn
chiếc mũ trắng tinh của Bdovuskin, Sukhov chợt
nghĩ tới cái bệnh viện dã chiến bên bờ sông
Lovat, cái hồi anh được đưa tới đó
với cái quai hàm bị vỡ và khi ấy - ngu không chịu
được - anh đã tình nguyện xin trở lại
mặt trận, trong khi có quyền được nằm
nghỉ những năm ngày.
Bây
giờ thì chỉ ao ước ốm lấy độ hai
ba tuần, chỉ đừng thập tử nhất sinh,
hay bị mổ xẻ gì, cốt yếu được
nằm bệnh viện - nằm yên ba tuần, không
động đậy, dù phải húp canh xuông cũng
được.
Nhưng
Sukhov chợt nhớ ra bây giờ ngay cả trong bệnh
viện cũng không được nằm. Có một tay bác
sĩ vừa tới cùng với một mẻ tù mới, tên
là Stepan Grigorich - một người lắm mồm, chân tay
không lúc nào yên, và cũng không để cho bệnh nhân
được yên. Lão nẩy ra sáng kiến bắt tất
cả các bệnh nhân còn đi lại được
phải làm việc xung quanh bệnh viện: rào giậu,
dọn lối đi, chở đất đắp các
luống hoa. Mùa đông thì dọn tuyết. Hắn luôn
mồm nói làm việc là cách chữa bệnh tốt
nhất.
Nhưng
lão đâu có chịu hiểu, làm việc quá sức thì
đến ngựa cũng phải lăn ra chết. Cứ
thử vác đá xây tường một hôm xem, có mà im như
thóc.
Vdovuskin
vẫn mải miết viết. Anh ta đúng là đang làm
“việc riêng”, nhưng là một việc mà Sukhov không
đủ sức hiểu. Anh ta đang chép lại một
bài thơ dài hôm qua mới chữa xong và hứa hôm nay
sẽ cho Stepan Grigorich xem, cái lão bác sĩ lắm mồm
ấy.
Chuyện
như thế này thì chỉ trong trại tù mới có. Số
là Stepan Grigorich gà cho Vdovuskin tự nhận là y tá, và cho
hắn làm công việc này. Thế rồi Vdovuskin bắt
đầu học tiêm trên cơ thể tù nhân, những
người Litva, Estoni chất phác, cả tin, không bao
giờ có thể nghĩ rằng y tá lại có thể
chưa một ngày là y tá. Kolia thực ra là sinh viên khoa
văn, bị bắt từ năm thứ hai. Stepan Grigorich
muốn trong tù anh ta ngồi viết những cái mà ở
“bên ngoài” anh ta không được phép.
Tiếng
còi báo hiệu điểm danh vẳng đến qua hai
lớp cửa sổ phủ đầy băng tuyết.
Sukhov thở dài, đứng dậy. Người anh vẫn
lúc nóng lúc lạnh như trước, song xem ra anh chẳng
có cơ hội nào để nghỉ việc. Vdovuskin
với tay lấy cái cặp nhiệt độ và nheo
mắt nhìn.
-
Xem đấy, 37 độ 2. Gía 38 độ thì chả
phải bàn. Tôi không thể cho anh nghỉ việc
được. Nếu không sợ thì anh cứ ở
lại. Sau khi khám, nếu anh ốm thật, thì bác sĩ
sẽ cho anh nghỉ. Nếu khoẻ - anh sẽ phải vào
nhà đá. Tốt nhất nên đi làm.
Sukhov
không trả lời, thậm chí không gật đầu,
chụp mũ lên đầu rồi đi ra.
Không
phải ăn nhạt đâu biết thương
đến mèo.
Băng
giá đánh thốc vào người Sukhov. Cái lạnh và
sương mù giá buốt bóp nghẹt Sukhov làm anh bật ho.
Nhiệt độ ngoài trời âm 27, còn trong cơ thể
anh là 37 độ. Bây giờ ai thắng ai đây.
Sukhov
hối hả chạy về trại. Sân trại vắng
tanh và toàn khu trại giam không một bóng người. Đó
là giây phút thư giãn ngắn ngủi, khi không còn cách nào thoát
được nữa, song người ta vẫn tự
huyễn hoặc rằng sẽ có cách, rằng sẽ không
có điểm danh. Những người lính áp giải
đang ngồi trong doanh trại ấm áp, tựa
đầu vào súng thiu thiu ngủ, họ cũng đâu có
sung sướng gì khi phải đứng đập chân
nọ vào chân kia trên các chòi gác trong cái lạnh cắt da
cắt thịt này. Những người lính gác ở
trạm gác chính ném thêm than vào lò. Những người giám
thị trong phòng giám thị hút nốt điếu thuốc
cuối cùng trước khi ra lục soát tù nhân. Còn tù nhân -
bây giờ đã đóng đủ mọi thứ quần áo
rách rưới, chằng đụp lên người,
quấn đủ thứ dây nhợ xung quanh thắt
lưng, quấn mặt bằng giẻ từ cằm lên
tận mắt để chống lạnh - đang nằm
trên giường, chân đi ủng dạ. Họ nằm
yên, mắt nhắm lại trong khi đội trưởng
còn chưa gào lên: “Ra tập hợp!”.
Đội
104 gà gật cùng với tất cả các phạm trong
trại số 9. Chỉ có đội phó Pavlo là còn đang
lập bập môi tính toán cái gì đó bằng bút chì. Ở
giường trên, anh chàng theo phái Tẩy lễ Aliosa, láng
giềng của Sukhov, gọn gàng, sạch sẽ, đang
đọc cuốn sổ tay trong đó đã chép
được tới phân nửa kinh Phúc Âm.
Sukhov
chạy vụt vào, nhưng không gây ra tiếng động,
tiến thẳng tới giường đội phó.
Pavlo
ngẩng đầu lên.
-
Không phải vào nhà đá ư, Ivan Denicych? Còn sống
hả? (không làm sao dậy nổi cái dân miền Tây Ucraina
này, cả đến trong tù chúng cũng vẫn còn lễ
phép gọi ta bằng cả tên lẫn phụ danh).
Pavlo
lấy từ trên bàn khẩu phần bánh mì đưa cho
Sukhov. Trên bánh mì có mấy miếng đường trắng
vun lại thành đống nhỏ.
Tuy
đang rất vội, song Sukhov vẫn lễ phép trả
lời (đội phó cũng là thủ trưởng,
thậm chí nhiều việc còn tuỳ thuộc vào anh ta
hơn là trại trưởng). Vội ơi là vội, anh
lấy môi tợp một nhát hết mấy viên
đường, liếm sạch miếng bánh, đặt
một chân lên mép giường dưới, trèo lên
để thu dọn chăn đệm ở giường
mình. Anh ngó khẩu phần bánh mì, lấy tay nhấc
nhấc xem có đủ 500 gram là phần anh được
lĩnh không. Trong các nhà tù và trại giam, Sukhov đã lĩnh
có đến cả ngàn khẩu phần như vậy, và dù
chưa có một dịp nào cân thử, dù chưa một
lần dám lên tiếng để bảo vệ quyền
lợi của mình - anh là người nhút nhát, - song, cũng
như tất cả các phạm khác, Sukhov từ lâu đã
biết rằng làm trong bộ phận cắt và chia bánh mì
mà cân đủ thì có trụ lâu được khối.
Mỗi khẩu phần đều bị cắt xén, có
điều kiểm xem có thiếu nhiều hay không thôi. Vì
vậy ngày hai lần kiểm tra để tâm trí
được yên ổn, có thể hôm nay chúng cắt xén
của mình không đến nỗi nhiều quá chăng? Có
thể phần mình gần đủ cân lạng chăng?
Thiếu
20 gờ ram, không hơn, Sukhov kết luận và bẻ
phần bánh ra làm hai. Anh nhét một nửa vào bên trong áo
trấn thủ, chỗ bụng, ở đó anh khâu vào
một cái túi nhỏ bằng vải trắng (xưởng
may áo trấn thủ cho tù không bao giờ làm túi). Còn nửa
kia, cái nửa anh đã tiết kiệm được
ở bữa sáng, anh định bụng ăn quách ngay, song
đồ ăn mà ăn vội thì sẽ chẳng còn là
đồ ăn nữa, phí hoài đi, chẳng bõ dính
bụng. Anh nhoài người nhét nửa phần bánh vào trong
cái tủ nhỏ, song lại đổi ý: anh còn nhớ
bọn cần vụ đã hai lần nhừ đòn vì
tội ăn cắp rồi. Cái trại rõ rộng, y như
sân công cộng.
Cho
nên, tay không rời mấy miếng bánh, Ivan Denisovich rút chân
ra khỏi bốt, để nguyên vải quấn chân và cái
muỗng giắt ở đó, anh trèo chân không lên hẳn
giường, vạch rộng cái lỗ nhỏ ở
nệm giường và nhét nửa khẩu phần vào
đó, giấu dưới lớp mạt cưa. Anh lột
mũ trên đầu xuống, rút từ trong đó ra
một cái kim đã xâu sẵn chỉ (cái này cũng phải
giấu kỹ, vì họ cũng nắn cả mũ
để kiểm tra; có lần một viên giám thị
bị kim đâm vào tay, cáu tiết, phang Sukhov suýt vỡ
đầu). Một mũi, mũi nữa, mũi nữa -
thế là xong, cái lỗ giấu bánh đã được
khâu túm lại. Trong lúc đó thì đường trong
miệng cũng tan. Sukhov căng thẳng tột
độ: viên kiểm tra nhân công sắp réo lên bây giờ.
Các ngón tay Sukhov chuyển động mau lẹ, trong khi
đầu óc anh vượt lên trước, tính toán xem
sẽ làm gì tiếp theo.
Anh
chàng Tẩy lễ đang đọc kinh, áng chừng không
đọc nhẩm cho bản thân (mà còn cố tình
đọc to cho cả Sukhov nghe. Đám người theo phái
Tẩy lễ, giống như chính trị viên, rất khoái
tuyên truyền): “Trong anh em chớ có ai chịu khổ
như kẻ giết người, kẻ trộm cắp,
kẻ làm ác, kẻ thày lay việc người khác. Nhưng
nếu có ai vì làm cơ đốc đồ mà chịu
khổ, thì đừng hổ thẹn; trái lại, hãy vì danh
ấy mà tôn vinh Đức Chúa Trời”.
Aliosa
giỏi ở chỗ: hắn giấu cuốn sổ này
trong một cái lỗ ở trên tường khéo đến
nỗi, cho tới nay, qua bao cuộc khám xét, nó vẫn
chưa bị phát hiện.
Vẫn
nhanh thoăn thoắt, Sukhov treo chiếc áo trấn thủ
của anh lên xà ngang, lôi từ dưới nệm đôi bao
tay, hai chiếc xà cạp cũ, một đoạn giây
thừng và một miếng giẻ có hai cái giải. Anh san
bằng mạt cưa trong tấm nệm (mạt cưa
nặng và nhồi chật cứng) cài bốn góc chăn
xuống dưới đệm, ném chiếc gối vào chỗ
cũ - vẫn chân trần như thế tuột xuống
dưới sàn và bắt đầu đi bốt. Thoạt
đầu, anh quấn chân bằng đôi xà cạp mới,
sau đó quấn lên trên đôi đã cũ.
Cùng
lúc đội trưởng dặng hắng, đứng
dậy tuyên bố:
-
Chấm dứt ngủ đêm, đội một lẻ
bốn, r-a n-g-oài!
Lập
tức toàn đội, dù có ngủ hay không, đứng
bật cả dậy, ngáp ngắn ngáp dài, bước ra
cửa. Đội trưởng đã ngồi tù
mười chín năm, chẳng đời nào lại xua anh
em ra ngoài sớm một phút trước giờ điểm
danh. Anh mà đã nói “ra ngoài”, có nghĩa đến lúc
phải ra thật.
Trong
khi các phạm bước những bước nặng
nề, im lặng, lần lượt nối đuôi nhau,
đầu tiên ra hành lang, sau đó qua phòng ngoài rồi
tiến ra thềm nhà, và khi đội trưởng
đội hai mươi, bắt chước Turin, cũng
hô lên “ra- n-g-oài”, thì Sukhov đã kịp nhét hai chân quấn
chặt xà cạp vào đôi ủng dạ, áo bông mặc
ngoài trấn thủ và thắt thật chặt bằng
một sợi dây thừng (thắt lưng da của tù nhân
đã bị tịch thu - trong các trại “đặc
biệt” họ không được phép dùng).
Phút
chót Sukhov cũng làm xong mọi việc và đuổi
kịp mấy người cuối cùng trong đội mình
- anh nhìn thấy lưng mang số hiệu của họ
đã ở phía ngoài cửa dẫn ra thềm nhà. Khoác
mọi thứ sống áo có được lên người,
trông to sù, cồng kềnh, các phạm nối đuôi nhau
không thẳng hàng, chẳng buồn xô đẩy nhau,
nặng nề bước ra sân, chỉ nghe thấy
tiếng bốt nghiến mặt đất đóng băng
rào rạo.
Trời
vẫn còn tối, tuy nhiên đằng đông đã bắt
đầu hửng, nhuốm một màu xanh lục. Một cơn
gió nhẹ, nhưng buốt giá, từ phía đông thổi
tới.
Không
gì cay nghiệt hơn những giây phút này - đứng
xếp hàng chờ điểm danh buổi sáng. Trong bóng
tối, trong giá buốt, với cái bụng rỗng không -
cho tới suốt suốt cả ngày. Lưỡi như
bị rút mất. Chẳng ai buồn nói chuyện với
ai.
Ở
chỗ tù tập hợp, viên phó giám công đang lồng
lộn.
-
Sao, Turin, còn phải đợi bao lâu nữa hả? Lại
định câu giờ hẳn?
Người
sợ tay phó giám công này chỉ có thể là Sukhov, chứ
không bao giờ là Turin. Anh ta chẳng thèm phí lời với
hắn, chỉ im lặng giậm giậm gót giầy.
Cả đội xếp hàng theo anh, tiếng ủng
dẫm tuyết lạo xạo.
Chắc
hẳn một ki lô mỡ muối đã được
đem hối lộ - bởi các đội bên cạnh
đều nhìn thấy 104 vẫn xếp hàng ở chỗ
mọi khi. Chỉ những đội vừa nghèo, lại
vừa khù khờ, là bị đẩy đi xây dựng Khu
Dịch xá. Chúa ơi, hôm nay mà phải ra ngoài đó thì
đời ra bã, 27 độ dưới không kèm theo gió,
không chỗ trú chân, không củi sưởi!
Đội
trưởng cần nhiều mỡ lợn muối:
vừa phải hối lộ các thủ trưởng trên
BKHSX, vừa phải nuôi cái bụng mình. Bản thân
đội trưởng không nhận được
đồ tiếp tế, nhưng thiếu mỡ muối
là không được. Phạm nào trong đội nhận
được tiếp tế, lập tức phải
cống nộp ngay.
Bằng
không đừng hòng mà sống nổi.
Viên
trưởng giám công đánh dấu trên tấm bảng
nhỏ cầm tay:
-
Turin, đội của anh hôm nay có một người
ốm, đi làm hai mươi ba người, có phải
không?
-
Hai mươi ba người - đội trưởng
gật đầu.
Thằng
nào vắng mặt? Lại thằng Panteliev. Thằng ấy
mà ốm?
Ngay
lập tức những tiếng xì xào nổi lên trong
đội: Panteliev, quân chó đẻ, lại chuồn
được rồi. Nó thì ốm đau gì. Bên an ninh
giữ lại thì có. Lại sắp sửa tố cáo ai
đó cho mà xem.
Ban
ngày họ gọi nó lên để đỡ gây ồn ào,
giữ đến ba tiếng đồng hồ cũng
chả sao, chẳng ai nhìn thấy, nghe thấy.
Họ
dàn xếp việc này qua danh sách của trạm xá...
Cả
sân trại đen ngòm màu áo bông của phạm. Các
đội rục rịch nhích dần tới chỗ khám
xét. Sukhov sực nhớ cần phải làm mới số
hiệu trên áo, nên anh vội lách sang phía bên kia sân. Đã có
hai ba phạm đứng xếp hàng trước mặt ông
hoạ sĩ. Sukhov đứng vào hàng. Cái số hiệu này
báo hại anh em không ít: cứ theo số hiệu giám thị
có thể nhìn thấy phạm từ xa, lính canh trên chòi cao có
thể ghi lại, còn để nó mờ đi hả - vào
nhà đá: ai bảo không giữ gìn cẩn thận?
Trong
trại có ba hoạ sĩ, vừa vẽ tranh không công cho các
thủ trưởng, vừa thay phiên nhau tô mới các
số hiệu trên áo tù ở chỗ điểm danh. Hôm nay
đến lượt ông hoạ sĩ già râu hoa râm. Khi ông
hoạ sĩ tô số hiệu trên mũ tù trông chả khác
gì cha cố đang xức dầu thánh lên trán con chiên.
Vẽ vẽ, quệt quệt, rồi lại thổi lên
đầu các ngón tay đeo găng. Găng tay đan
mỏng, bàn tay ông tê dại không sao tô nổi các con số.
Ông
hoạ sĩ tô mới con số S-854 trên áo trấn thủ
của Sukhov, và anh chẳng buồn thắt lại áo bông,
bởi đội anh đã tiến gần đến
chỗ kiểm soát rồi. Cầm sợi giây thừng trong
tay, anh vội đuổi theo họ. Sukhov bất chợt
nhìn thấy Sezar, người cùng đội, đang hút,
không phải thuốc sợi, mà là thuốc điếu
hẳn hoi. Có nghĩa anh có thể xin hắn mẩu
thuốc. Song anh không xin thẳng, mà đứng sát ngay
cạnh Sezar, quay nửa mặt về phía hắn.
Anh
ngó xéo, ra cái bộ không cần, song vẫn nhìn thấy,
cứ sau mỗi lần rít vào (Sezar đang nghĩ ngợi
điều gì đó nên không rít liên tục) thì cái lằn tàn
đỏ lại chạy dọc theo điếu thuốc
và mỗi lúc một cháy gần chiếc tẩu.
Vừa
lúc thằng Fechiukov, đồ chó hoang, quân liếm
đĩa, lù lù mọc ngay trước mặt Sezar, nhìn
chòng chọc vào miệng anh ta, hai mắt sáng rực.
Sukhov
không còn lấy một sợi thuốc, anh biết
trước cho tới tận tối sẽ chẳng
đào đâu ra và lúc này đây anh căng thẳng chờ
đợi, khao khát được người ta vứt
cho mẩu thuốc còn hơn được trả tự
do. Nhưng anh đâu có hạ thấp mình mà nhìn chòng
chọc vào miệng người ta như cái thằng
Fechiukov chó má ấy.
Sezar
là người lai đủ thứ giống - chẳng
thể hiểu được hắn là người Hi
Lạp, Do Thái hay Sưgan. Hắn còn trẻ, ngày
trước làm nghề quay phim, nhưng chưa làm
được phim nào đã bị bắt vào tù. Hắn có
bộ ria đen và rậm. Sở dĩ ở đây
người ta không bắt cạo đi, vì trong hồ
sơ của hắn, tất cả các bức ảnh
đều có ria.
-
Sezar Markovich! - không nhịn được Fechiukov nuốt
nước bọt ừng ực - cho tôi xin một hơi!
Và
mặt hắn hằn lên sự tham lam và thèm khát.
Sezar
hé mắt nhìn Fechiukov, hai hàng lông mi rợp xuống đôi
mắt đen. Hắn hay dùng tẩu chính vì không muốn
người ta làm phiền, xin xỏ lúc mình hút thuốc.
Hắn không tiếc thuốc, mà tiếc dòng suy nghĩ
bị cắt ngang. Hắn hút thuốc để đánh
thức trong mình ý nghĩ mạnh mẽ và giúp nó tìm kiếm
cái gì đó. Nhưng cứ hễ bắt đầu hút là y
như rằng hắn nhìn thấy không biết bao nhiêu
cặp mắt: “Cho xin tí mẩu thừa!”.
Sezar
quay sang Sukhov và nói:
-
Cầm lấy, Ivan Denisych!
Ngón
tay to tướng của hắn rút mẩu thuốc là
từ cái tẩu ngắn bằng hổ phách.
Sukhov
giật mình (anh đã đợi để Sezar tự
mời mình), vội đưa một tay đỡ lấy
mẩu thuốc một cách biết ơn, tay kia đỡ
phía dưới phòng nó rơi xuống đất. Anh không
tự ái vì Sezar không cho mình hút mẩu thuốc thừa
bằng tẩu của hắn (có người mồm
sạch, có người mồm thối), và tay anh thì chai
sạn tới mức có thể hút đến tận cùng
mẩu thuốc cũng không sợ bị bỏng. Cái chính
là anh đã phỗng tay trên của thằng mót rác Fechiukov kia
và lúc này anh rít một hơi dài chút nữa bỏng cả
môi. M-m-m-m! khói thuốc lan toả trong cái cơ thể
đói khát của anh, đọng lại ở chân và
đầu.
Đúng
cái lúc cảm giác đê mê lan toả khắp cơ thể,
thì thì có tiếng ồn ào nổi lên:
-
Chúng nó tịch thu áo lót!
Cũng
như các phạm khác, cuộc sống trong tù đã tạo
cho Sukhov một thói quen: phải cẩn thận, chỉ
cần sơ ý một tí là chúng trấn ngay.
Nhưng
tại sao lại là áo? Chính trại trưởng đã phát
cơ mà? Không, chắc không phải ...
Đội
của Sukhov chỉ còn cách trạm kiểm soát có hai
đội, và tất cả mọi người đều
nhìn thấy rõ trung uý Volkovoi - thủ trưởng bộ
phận an ninh, đang từ phòng chỉ huy xuống và
đang quát tháo bọn giám thị về việc gì đó.
Mấy tay này lúc Bolkovoi chưa tới thì làm việc lờ
phờ lắm, bây giờ thì cuống quýt nhảy xổ vào
anh em như bầy thú, còn sếp của chúng thì la lên:
-
C - ở-i á-o!
Không
chỉ phạm nhân và giám thị sợ Bolkovoi, mà ngay
đến trại trưởng cũng sợ hắn. Ông
Trời trông mặt mà đặt tên*, không thế Volkovoi
đã không có cái nhìn của loài chó sói. Hắn người
cao, tóc đen, mặt mũi cau có, thoắt ẩn, thoắt
hiện. Hắn thường xuất hiện từ trong
một góc trại nào đó, quát tháo: “Tụ tập ở
đây làm gì thế này?”. Lúc ấy thì có mà chạy
đằng trời. Trước đây hắn còn mang theo
một cái roi bằng da bện, dài bằng cả cánh tay.
Nghe nói, hắn đánh người ở khu trừng
giới bằng cái roi ấy. Hoặc trong giờ
điểm danh buổi chiều, khi phạm túm tụm
ở cạnh trại, từ đằng sau hắn quất
roi vào gáy người ta: “Sao không đứng vào hàng, lũ
mắc dịch?”. Người bị ăn roi ôm lấy gáy,
lẳng lặng chùi máu: cứ thử kêu lên xem, vào nhà đá
tức thì.
Bây
giờ chẳng hiểu sao hắn không mang theo roi nữa.
Khi
trời rét quá thì cuộc khám xét buổi chiều vẫn
thế, nhưng buổi sáng có đỡ ngặt hơn: tù
nhân mở phanh áo trấn thủ và cứ để như
thế mỗi lần có năm người bước
tới cho năm tên giám thị lục soát. Chúng sờ
nắn áo trấn thủ, vỗ vỗ vào túi trên
đầu gối phía chân bên phải, chúng đi găng và
hễ cứ sờ thấy cái gì lạ là không lôi ra ngay, mà
lười biếng hỏi: “Cái gì thế này?”
Buổi
sáng thì tìm thấy gì trong người tù nhân cơ chứ?
Dao ư? Nhưng dao thì người ta mang vào trại,
chứ mang ra làm cái gì. Buổi sáng thường chúng khám xem
tù nhân có mang nhiều đồ ăn hay không, ba ki lô gam
chẳng hạn, để đào tẩu. Đã có hồi
người ta quá lo lắng về cái khẩu phần 200
gam bánh mì bữa trưa, nên đã ra một cái lệnh
như sau: mỗi đội phải tự đóng lấy
một cái hòm gỗ để gom toàn bộ khẩu
phần để vào trong đó. Chẳng hiểu cái sáng
kiến ấy hay ho ra làm sao, nhưng tù nhân bị hành
tới số: sợ ăn lẫn phần của nhau, nên
trước khi ném xuất của mình vào thùng ai cũng
cắn một miếng để đánh dấu. Bánh thì
miếng nào chả giống miếng nào, cùng cắt từ
một cái bánh mì, ấy thế nhưng suốt dọc
đường phạm ta lo lắng, khổ sở,
chỉ nghĩ tới việc không biết xuất của
mình có bị đánh tráo không, rồi thì cãi cọ, thậm
chí thỉnh thoảng còn choảng nhau nữa. Chỉ
tới lúc xảy ra việc có ba phạm trốn trại
trên một chiếc xe tải, ôm luôn cả hòm bánh mì theo, khi
đó các thủ trưởng mới tỉnh ra, bắt
đập hết các hòm đựng bánh, thôi thì cho chúng mày
tự mang lấy xuất của mình. Mọi chuyện
lại y như cũ.
Buổi
sáng cần phải khám xét xem phạm có mặc giấu
thường phục bên trong hay không? Khốn nỗi
tất cả quần áo thường phục người
ta đã tịch thu sạch từ lâu và hứa khi nào mãn
hạn tù sẽ trả lại. Song ở cái trại này
chưa từng một ai được mãn hạn cả.
Rồi
họ còn khám xem phạm có giấu thư từ để
nhờ người ngoài gửi đi hộ hay không.
Nhưng nếu ai cũng bị lục soát thư thì có
đến bữa trưa cũng không xong.
Nhưng
Bolkovoi gào tìm cái gì đó và những người giám thị
vội vã tháo găng, bắt phạm cởi áo trấn
thủ (mà phạm cất giấu được chút hơi
nóng từ phòng giam mang đi), phanh áo trong. Họ luồn tay
vào bên trong, sờ nắn xem có ai mặc thêm đồ gì vi
phạm quy chế hay không. Các đội truyền cho nhau
lệnh của Volkovoi bắt cởi hết, chỉ
giữ lại trên người áo sơ mi và áo lót. Những
đội đi trước đã gặp may, một
số phạm đã lọt được ra ngoài cổng,
những phạm còn lại phải mở hết ra, ai
mặc thêm đồ phải cởi tuốt tuột ngay
ngoài trời lạnh âm 27 độ!
Họ
bắt đầu thi hành lệnh, nhưng chẳng mấy
chốc cổng trại bị ùn tắc, lính canh gào lên: “Ra
đi! ra đi!”, và thay vì sự tức giận bị
đổ lên đầu, đội 104 đã
được hưởng ân huệ của Volkovoi: ghi tên
ai mặc thêm đồ, đến tối nộp lại
kèm theo bản tường trình tại sao lại giấu và
giấu bằng cách nào.
Mọi
thứ trên người Sukhov đều là đồ phát
cả, này, cứ việc nắn thoải mái, chả có quái
gì. Nhưng họ bắt được Sezar mặc
một chiếc áo sơ mi bằng vải bông, còn Buinovski
một chiếc áo len đan cộc tay. Ông trung tá vào tù
chưa đầy ba tháng, vẫn còn thói quen chỉ huy trên
tàu, la toáng lên:
-
Các người không có quyền lột quần áo
người ta giữa trời lạnh thế này! Các
người không biết điều Chín trong bộ
luật Hình sự!
Họ
có quyền. Họ biết luật. Chỉ có cậu, ông
bạn ạ, là chưa biết đó thôi.
-
Các anh không phải người Xô Viết - Buinovski bồi
thêm.
Về
luật hình sự thì Volkovoi còn khả dĩ chịu
được, chứ bảo hắn không phải
người Xô Viết thì hắn chịu thế nào
được. Viên sĩ quan điên tiết, mặt xám
lại như đám mây dông, hắn giật giọng:
-
Mười ngày biệt giam!
Rồi
hắn nói nhỏ hơn với trưởng giám thị:
-
Tối nay làm thủ tục.
Người
ta không thích tống phạm vào nhà đá ban ngày, vì như
vậy sẽ lãng phí ngày công. Cứ để cho hắn
xụm lưng cả ngày, ban đêm quẳng vào xà lim
cũng chưa muộn.
Khu
trừng giới ở ngay gần đấy, về phía bên
trái sân trại, được xây bằng đá có hai chái.
chái thứ hai mới xây xong dạo mùa thu - một chái không
đủ chỗ giam phạm. Nhà giam chia thành mười
tám khối, mỗi khối gồm những xà lim để
nhốt riêng phạm. Tất cả các nhà khác trong trại
đều làm bằng gỗ, riêng khu biệt giam
được xây bằng đá.
Cái
lạnh đã ngấm vào dưới lần áo sơ mi tù,
bây giờ thì không đẩy nó ra được nữa.
Thật phí thời gian quấn quấn, buộc buộc.
Sukhov lại thấy đau lan dọc sống lưng. Giá
bây giờ được ngả lưng trên giường
bệnh viện mà ngủ nhỉ. Thật chả còn
muốn gì hơn. Được đắp một
chiếc chăn dầy dầy vào thì còn gì bằng.
Tù
nhân đứng trước cổng cài lại sống áo,
lại quấn quấn buộc buộc, còn bọn lính canh
đang đợi họ ở bên ngoài thì cứ gào lên:
-
Ra mau, ra mau!
Người
kiểm soát nhân công thúc vào lưng:
-
Khẩn trương, khẩn trương!
Toàn
những cổng là cổng. Lớp cổng đầu
liền sát với vành đai trại, tiếp đến
lớp cổng thứ hai. Cả hai phía gần trạm gác
đều có chấn song sắt.
-
Đứng lại! - một tên lính hô to, - xếp hàng
giống như đàn cừu, năm người một.
Trời
đã tang tảng. Đống lửa đằng sau
trạm gác đã gần tàn. Lính canh bao giờ cũng
đốt một đống lửa trước giờ
điểm danh để sưởi cho ấm và cũng
để lấy ánh sáng mà đếm tù.
Một
tên lính canh đếm rõ to, giọng chát chúa:
-
Một, hai, ba!..
Mỗi
nhóm gồm năm người tách ra riêng biệt, xếp
hàng đi qua, cho nên nhìn họ từ phía nào, bất kể
đằng trước hay đằng sau, đều
thấy năm cái đầu, năm cái lưng và
mười cái chân.
Tên
lính thứ hai làm nhiệm vụ kiểm soát viên,
đứng bên chấn song sắt im lặng kiểm tra xem
đếm có đúng không.
Cả
viên trung uý cũng đứng đó, chăm chú theo dõi.
Đó
là việc của trại.
Đối
với lính canh, tù nhân còn quý hơn vàng. Để thiếu
một thằng tù ở bên kia rào thép gai, thì phải đem
cái mạng của mình mà thế vào.
Cả
đội lại tập hợp một lần nữa.
Lúc
này đến lượt trung sĩ đội áp tải
đếm tù:
-
Nhóm thứ nhất! nhóm hai! nhóm ba!
Và
lại một lần nữa tù nhân xếp thành từng
khối năm người một như những mắt
xích riêng rẽ của một sợi dây xích.
Trợ
lý đội trưởng đội cảnh giới
kiểm tra phía bên kia đoàn tù.
Thêm
cả viên trung uý nữa.
Đó
là việc của đội áp tải.
Không
được nhầm lẫn. Nếu kí nhận thừa
một tù, thì cũng phải lấy mạng mình mà thế
vào. Lính áp tải nhan nhản. Họ bọc lấy đoàn
tù theo hình vòng cung, súng tiểu liên chĩa thẳng vào
mặt phạm. Rồi có cả lính dắt theo chó
nghiệp vụ lông xám. Có một con nhe răng nhọn
hoắt như đang chế nhạo đám tù nhân. Tất
cả lính áp tải đều mặc áo da lộn ngắn,
chỉ có sáu người mặc áo lông dài. Họ thay nhau
mặc áo lông dài khi nào đứng canh ở trên chòi cao.
Tù
nhân lại xếp hàng lại một lần nữa và lính
áp tải đếm từng nhóm năm người
một.
-
Lạnh nhất bao giờ cũng là lúc rạng đông, - ông
trung tá hải quân giải thích, - vì đó là điểm
cuối cùng của sự mất nhiệt lượng do
bức xạ xảy ra vào ban đêm.
Ông
trung tá cắt nghĩa mọi sự. Ông có thể tính
được tất cả các tuần trăng - trăng
non hay trăng già, trong bất cứ năm nào, ngày nào. Ông
xuống mã trông thấy, song nom vẫn còn tươi
tỉnh.
Băng
giá cộng với gió thổi vù vù ở bên ngoài trại
khiến da mặt đã chai sạn của Sukhov như có
hàng ngàn mũi kim châm. Anh biết sẽ bị gió thốc
vào mặt như vậy suốt trên đường đi
tới công trường xây nhà máy điện, nên đã
quấn kĩ mặt bằng một miếng giẻ
với hai giải dài khâu hai bên. Tất cả các phạm
đều thừa nhận miếng giẻ rất có ích.
Sukhov quấn nó kín mặt, lên tận mắt, kéo hai giải
ra đằng sau, phía dưới tai và buộc lại
ở sau gáy. Rồi anh kéo vạt mũ che gáy, nâng cổ áo bông
lên, kéo vạt mũ đằng trước xuống che
trán. Như vậy tất cả mặt anh kín hết,
chỉ còn hở mỗi đôi mắt. Anh buộc chặt
ngang bụng áo bông bằng một sợi giây thừng.
Thế cũng tạm ổn, chỉ có điều đôi
găng tay mỏng và đã cũ, nên hai bàn tay bị
lạnh cóng. Anh xoa xoa, vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau và
biết rằng chỉ lát nữa anh sẽ phải bẻ
quặt chúng ra sau lưng và cứ giữ như thế
suốt trên đường đi.
Viên
chỉ huy đội lính áp tải đọc “kinh nhật
tụng” chán ngấy của trại :
-
Các tù nhân chú ý! Trên đường đi phải triệt
để giữ đúng hàng lối! không được
giãn ra, không được chạy vượt lên, không
tự động thay đổi nhóm năm người.
Không được nói chuyện, ngó sang hai bên và hai tay
phải để ra sau lưng! Bước sang phải hay
sang trái một bước sẽ bị coi là mưu toan
đào tẩu và lính áp giải sẽ nổ súng không cần
báo trước! Chuẩn bị, bước đều,
bước!
Và
tất nhiên dẫn đầu đoàn tù phải là hai lính áp
tải. Đoàn tù chuyển động về phía
trước, vai tù nghiêng ngả. Lính áp tải đi hai bên,
cách đoàn tù hai chục bước hàng ngang, cách nhau
một chục bước hàng dọc, súng tiểu liên
sẵn sàng nhả đạn.
Một
tuần rồi tuyết không rơi, con đường
bị dẫm nát, trông thật tang thương. Đoàn tù
đi vòng theo trại giam, gió thổi thốc vào mặt
mũi. Hai tay vòng ra sau lưng, đầu cúi xuống, trông
như đoàn người đang đi đưa đám.
Chẳng còn thấy gì ngoài ống chân của mấy
phạm đi đầu và khoảng đất bị
dẫm nát mà những bàn chân vẫn tiếp tục
đạp lên. Cứ chốc một lính áp tải lại
quát lên: “U-48! để tay sau lưng!”, “B - 502, đi vào
hàng!”. Về sau tiếng quát thưa dần: gió quất vào
mặt khiến mắt trở nên khó nhìn, hơn nữa,
lính lại không được phép bịt mặt như
phạm. Một công việc cũng chẳng thú vị gì...
Khi
nào trời ấm, trong đoàn tiếng nói chuyện nổi
lên dù lính áp tải có quát tháo mấy cũng mặc. Nhưng
hôm nay ai cũng cắm đầu bước, cố
giấu mình vào lưng người đằng trước
và chìm trong những ý nghĩ của mình.
Ý
nghĩ của tù nhân cũng không được tự do mà
cứ quay về một chỗ: liệu chúng có sờ
thấy khẩu phần bánh mì mình giấu trong đệm
hay không? Tối nay liệu chúng có cho mình vào danh sách
người bệnh không? Liệu ông trung tá có bị
tống vào nhà đá không? Sezar lấy đâu ra chiếc
sơ mi ấm đó? Chắc lại đổi chác
đồ của mình lấy nó ở nhà kho, chứ còn
ở đâu ra nữa?
Hôm
nay Sukhov vẫn thấy đói, có lẽ vì anh ăn sáng không
có bánh mì, và ăn toàn đồ lạnh chăng. Và
để cái bụng khỏi rên rỉ đòi ăn, anh thôi
không nghĩ tới trại giam nữa, mà nghĩ tới
bức thư sắp tới sẽ gửi về nhà.
Đoàn
người đi qua xưởng làm đồ mộc do tù
nhân dựng lên, qua khu nhà ở (cũng do tù nhân xây dựng,
song lại dành cho người tự do ở), qua câu
lạc bộ mới (cũng do tù làm hết, từ
đổ móng đến trang trí trên tường, nhưng
phim chiếu lại để cho người tự do xem),
bước ra ngoài thảo nguyên, đối diện với
gió và bình minh mỗi lúc một đỏ rực. Cả
một vùng tuyết trắng mênh mông, trơ trọi, không có
lấy một cái cây.
Một
năm mới bắt đầu, năm năm mốt, và
ở năm này Sukhov được phép viết hai thư.
Bức cuối cùng anh gửi vào tháng bẩy, nhưng
thư trả lời mới nhận được
hồi tháng mười vừa rồi. Còn trại Ust-Izma,
nơi anh bị giam trước đây, lại có quy
chế khác, nếu muốn, mỗi tháng có thể viết
một lần. Nhưng có quái gì để mà viết cơ
chứ? Khi đó Sukhov cũng không viết thường
xuyên hơn bây giờ.
Anh
rời nhà vào ngày hai mươi ba tháng sáu năm bốn
mươi mốt. Vào một sáng chủ nhật, mọi
người đi lễ nhà thờ ở Polomi về thông
báo rằng chiến tranh đã nổ ra rồi. Ở Polomi
mọi người biết tin qua bưu điện,
chứ ở làng Temgenuva của anh, trước chiến
tranh, chả ai có lấy nổi một chiếc máy thu thanh.
Bây giờ người ta viết thư khoe rằng
hiện nhà nào cũng có một cái radio galen quấn giây.
Viết
thư lúc này chẳng khác gì ném sỏi xuống cái hố sâu
không đáy. Sỏi rơi mất tăm, không một
tiếng động vẳng lại. Chả ai đi kể
mình làm ở đội nào, tay đội trưởng
Andrei Prokofiev Turin là người ra làm sao. Bây giờ với
tay Kildigs người Latvi xem ra mình còn chia xẻ nhiều
hơn là với người nhà.
Vả
lại người nhà anh cũng chỉ viết thư hai
lần trong năm. Cuộc sống của họ mình
cũng chẳng thể hiểu nổi. Nghe bảo chỗ
họ mỗi năm lại thay chủ tịch nông trang
mới, cấm ông nào trụ được lấy hơn
năm. Nông trang đã được sát nhập rồi. Thì
trước đây nó cũng đã từng được
hợp nhất, sau lại tách ra, có gì là mới đâu.
Lại thấy bảo ai không đạt định mức
đề ra, thì phải cắt đất vườn có
đến một phần tư, nhiều người
bị cắt tới sát nhà. Có hồi vợ anh còn kể
rằng người ta đề ra luật, người
nào không làm đủ định mức sẽ bị xét
xử và bị đi tù. Nhưng cái luật này sau cũng
bị bãi bỏ.
Có
một điều Sukhov không làm sao hiểu nổi, vợ
anh viết rằng, ngay sau chiến tranh cấm có lấy
một mống nào trở về nông trang: lớp trẻ,
tất cả mọi đứa, đều tìm cách nhảy
ra ngoài tỉnh hết, vào làm trong nhà máy hay trong các mỏ
than bùn. Nửa số đàn ông đã không quay về sau
chiến tranh, mà có ai quay được về, thì cũng
không làm ở nông trang nữa: họ sống ở nhà, song
kiếm tiền ở nơi khác. Đàn ông trong nông trang còn
lại mỗi đội trưởng Zakhar Vasilich Tikhon -
lão thợ mộc già năm nay đã tám mươi tư,
vừa lấy vợ và đã có con rồi. Mọi công
việc nông trang do một tay các bà đảm
đương, những người buộc phải gánh
vác công việc từ hồi những năm ba mươi.
Họ mà đổ thì nông trang cũng chết.
Đấy,
cái điều mà Sukhov không sao hiểu nổi là tại sao
sống ở quê mình mà lại đi làm ở chốn khác.
Anh cũng đã từng thấy sự thể ra sao cả
trong nông trại tư nhân, lẫn nông trang tập thể,
song việc đàn ông không làm việc tại làng xã mình, thì
anh chịu không hiểu được. Hay là họ làm thêm
các nghề khác? Vậy việc phạng cỏ thì làm
thế nào?
Trong
thư vợ anh viết rằng các nghề phụ đã
bị bỏ từ lâu rồi. Người ta thôi không làm
mộc, một nghề mà nhờ nó làng anh một thời
nổi tiếng, không đan giỏ bằng nhành miên
liễu. Bây giờ chả ai người ta thèm làm mấy
thứ đó. Bây giờ có một nghề mới, nhẹ
nhàng, vui vẻ - nghề vẽ thảm. Chả biết có
một người nào đó từ chiến trường
mang về một cái khuôn, thế là từ đó ngày càng
nhiều người học làm cái nghề này. Việc nông
trang họ chẳng màng đến, cả năm
độc có một tháng là họ ra đồng gặt lúa
và phạng cỏ, còn mười một tháng nông trang
cấp giấy giấy chứng nhận nông trang viên này
nọ được nghỉ để làm việc riêng,
thuế má đã nộp đầy đủ. Và rồi
họ đi khắp nước, thậm chí còn đi
cả máy bay để tiết kiệm thời gian, còn
tiền thì kiếm được hàng nghìn rúp, thảm
vẽ khắp mọi xó xỉnh: cứ năm mươi
rúp một tấm thảm vẽ trên vải trải
giường cũ, bất cứ loại nào người
ta cũng không thấy xót ruột bỏ ra để thuê
vẽ. Mà vẽ kiểu thảm này chỉ chừng một
tiếng đồng hồ là xong, không hơn. Trong thâm tâm
vợ anh rất hi vọng khi nào Ivan trở về anh
chẳng cần phải làm ở nông trang làm gì cho nhọc
xác, cứ học lấy cái nghề này. Lúc đó gia đình
anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo mà hiện vợ anh
đang phải vật lộn, con cái thì cho đi học
kĩ thuật, dỡ cái nhà nát hiện nay, dựng cái
mới. Cánh thợ vẽ thảm đều đã làm
được nhà mới, mà nhà ở gần
đường xe lửa bây giờ là hai mươi
nhăm nghìn rúp, chứ chẳng phải năm nghìn rúp
như ngày xưa đâu nhé.
Sukhov
còn lâu mới hết hạn tù - đông này qua đông khác, hè
nọ sang hè kia, nhưng những tấm thảm đó
vẫn làm anh mệt óc không ít. Một công việc thật
thích hợp với anh, nếu như anh mang án và mất quyền
công dân, chẳng đâu người ta nhận, mà cũng
không được phép về lại làng nữa. Khi ấy
anh viết thư hỏi vợ, liệu anh có thể
trở thành thợ vẽ thảm được không, khi
chẳng có lấy một tí khiếu vẽ nào? Mà thảm
ấy là loại gì mà xôm vậy, vẽ bằng gì và vẽ
cái gì trên đó? Vợ anh trả lời rằng chỉ có
những thằng đần thối mới không vẽ
được thôi: chỉ việc đặt khuôn lên
vải, rồi lấy bút lông chấm chấm sơn vào
những cái lỗ nhỏ trên đó. Thảm có ba loại.
Loại thứ nhất là loại “Tam mã” - vẽ một
cỗ xe đẹp ba ngựa kéo, cầm cương là
một sĩ quan kị mã. Loại thứ hai vẽ tranh con
hươu. Loại ba - mô phỏng thảm Ba Tư. Chả
còn loại nào khác, nhưng thế cũng đủ làm thiên
hạ loá mắt, tranh cướp nhau, làm không kịp bán. Là
bởi vì thảm thật không phải năm mươi, mà
hàng nghìn rúp.
Sukhov
ước giá được nhìn qua mấy bức thảm
đó...
Thời
gian ở tù Sukhov đã đánh mất thói quen lo lắng,
sắp đặt công việc cho ngày mai, cho năm sau và
nghĩ cách kiếm tiền để nuôi gia đình.
Tất cả mọi việc đã có mấy ông cấp trên
nghĩ hộ anh, xem ra thì nhẹ cho mình thật
đấy, nhưng lúc ra tù thì làm sao đây?...
Từ
những câu chuyện của cánh lái xe và lái máy xúc - dân
tự do, Sukhov biết rằng lối đi thẳng đã
bị chặn lại, nhưng con người không chịu
bó tay: họ đi đường vòng và bằng cách đó
họ vẫn sống.
Giá
ở ngoài ấy thì Sukhov cũng có thể thử cách đi
vòng này: kiếm tiền ngon lành, lại chắc ăn. Thua
kém những người cùng làng kể cũng xấu
hổ thật... song, trong thâm tâm Sukhov không thấy khoái ba
cái vụ thảm thiếc này cho lắm. Muốn làm
phải mặt dày mày dạn, phải lo lót đủ kiểu,
phải láu tôm láu cá và chạy chọt công an. Sukhov sống
ở trên đời đã bốn mươi năm, đã
mất nửa hàm răng và đầu bắt đầu
hói, anh chưa bao giờ hối lộ và chưa từng
nhận hối lộ của ai, bao nhiêu năm trong trại
anh cũng không học được cái trò đó.
Đồng
tiền kiếm được dễ dàng nào có ra cái gì, nó
đâu cho mình cái cảm giác làm ra được. Các cụ
nói chí lí thật: cái gì không phải trả giá, cái đó không
giữ được bền. Chân tay Sukhov còn khoẻ,
chẳng lẽ khi nào về nhà anh lại không kiếm
được một công việc đàng hoàng hay sao. Làm
bếp lò chẳng hạn, hay quay lại nghề thợ
nề, hay hàn nồi hàn xoong gì đó.
Nhưng
liệu mình có được thả đúng thời
hạn không? Liệu có bị ấn thêm chục năm
nữa hay không? Với lại được thả ra
rồi mà vẫn bị tước quyền công dân, không
được sống trong làng, xin việc đâu cũng
không được nhận, thì lại đến phải
làm ba cái đồ thảm rởm đó mất thôi...
Đoàn
người đã tới nơi và dừng lại
trước trạm gác của một công trường
rộng lớn đang xây cất. Trước đó,
từ một góc công trường, hai lính áp tải mặc
áo khoác ngắn da lộn đã tách ra, đi tới chòi gác
ở phía xa. Đám tù chưa được phép vào phía
trong, chừng nào lính canh chưa lên được hết
các chòi gác. Viên sĩ quan phụ trách, vai đeo tiểu liên
đi tới trạm gác. Từ trong ống khói lò
sưởi của trạm gác, khói vẫn cuồn cuộn
bốc lên: lính gác công trường cả đêm ngồi
trong đó canh chừng ván và xi măng khỏi bị
mất cắp.
Một
mặt trời to tướng, đỏ ối, như
được bọc trong sương mù, chiếu ánh sáng
xuyên qua những hàng dây thép gai trên cổng, trải khắp
công trường, tới tận hàng rào dây thép gai phía xa.
Đứng cạnh Sukhov là anh chàng Tẩy lễ Aliosa
nụ cười rạng rỡ trên môi, đang nhìn mặt
trời và lấy làm sung sướng lắm. Hai má hắn
hóp lại, sống chỉ nhờ vào khẩu phần hàng
ngày, chả kiếm chác được gì thêm, không hiểu
hắn sung sướng cái nỗi gì nhỉ? Vào các ngày
chủ nhật, tối ngày hắn thì thầm chuyện trò
với mấy tín đồ Tẩy lễ khác, đời
sống trong trại chả làm cho họ bận tâm,
chẳng khác gì nước đổ đầu vịt.
Đã hai mươi nhăm năm nay người ta
quần thảo họ vì cái đạo Tẩy lễ
ấy, chẳng lẽ người ta lại tin rằng
đám người này vì thế mà bỏ đạo của
mình?
Miếng
giẻ quấn mặt Sukhov đã ướt hết cả
vì hơi thở của anh trên đường đi và
nhiều chỗ đã đóng băng cứng lại. Sukhov
cởi nó ra khỏi mặt, tụt xuống cổ và
đứng quay lưng lại hướng gió. Trên
người anh không có chỗ nào băng giá có thể xuyên
vào được, chỉ có hai tay bị tê cóng vì đôi
găng mỏng quá, mấy ngón chân thì cứng lại, vì bên
ủng trái có một cái lỗ bị cháy lúc sấy, hôm nào
phải khâu lại mới được. Thắt lưng
và cả vùng lưng đau nhức, lan đến tận
vai, làm việc như thế nào đây? Anh nhìn quanh, chợt
thấy bóng đội trưởng đứng ở hàng
cuối. Hắn có đôi vai vạm vỡ và khuôn mặt to
lớn. Hắn đứng đó, mặt mũi xầm xì.
Hắn rất ghét những trò tếu táo, nghịch ngợm
trong đội của mình, song được cái hắn
nuôi anh em khá, lúc nào cũng tìm mọi cách lo cho anh em khẩu
phần dồi dào. Hắn bị kéo dài thêm một hạn
tù nữa, con đẻ của GULAG, đời sống
trong trại hắn thuộc như lòng bàn tay.
Trong
trại nào cũng thế, đội trưởng là
tất cả: gặp được tay đôi
trưởng khá, anh như được tái sinh lần
nữa, còn gặp phải thẳng tồi, đời anh
coi như tàn. Sukhov quen Turin từ thời còn ở Ust - Izma,
có điều hai người không ở cùng một
đội. Sau này các tù nhân bị kết án theo Điều
58*,
bị chuyển từ trại thường ở Ust - Izma
sang trại khổ sai thì Turin đã chọn Sukhov vào
đội của mình. Sukhov chẳng bao giờ tiếp xúc
với trại trưởng, hay BCHSX, với các giám công hay
các kĩ sư, đã có Turin lo cho tất cả, hắn
chạy như con thoi. Nhưng mà liệu đấy,
hắn chỉ cần nhướng lông mày, hay chỉ ngón
tay là phải chạy ngay đi mà làm. Có thể lừa
bất cứ ai trong trại, nhưng chớ có lừa
Turin. Có thế mới sống được.
Sukhov
những muốn hỏi Turin xem có làm việc ở chỗ
hôm qua không, hay chuyển sang chỗ khác, song anh không dám
cắt ngang dòng suy nghĩ quan trọng của hắn.
Hắn chỉ vừa mới tháo gỡ được gánh
nặng của cái Khu dịch xã trên vai, giờ chắc
đang tính kế làm sao giành được khẩu
phần khơ khớ đây. Xuất ăn của anh em
trong đội năm ngày tới phụ thuộc cả vào
việc này.
Mặt
đội trưởng chằng chịt vết rỗ hoa,
hậu quả của bệnh đậu mùa. Hắn
đứng trực diện với hướng gió, vậy
mà cấm thấy nhăn nhó, da mặt hắn cứng
như vỏ cây sồi.
Các
phạm đứng túm tụm, đập hai tay vào nhau,
dậm dậm chân trên tuyết cho ấm người. Gió ác
nghiệt - như thể cả bốn phương tám
hướng đều có thần gió thổi tới.
Người ta vẫn chưa cho tù vào bên trong. Để
nâng cao cảnh giác, phải làm tình làm tội họ tới
số.
Cuối
cùng thì viên sĩ quan phụ trách cùng với tay cán bộ
kiểm tra cũng bước ra khỏi trạm gác, họ
đứng mỗi người một bên và mở
cổng.
-
Tập họp theo nhóm năm người! một! hai!
Đoàn
tù bước như đi diễu hành, có điều chân
bước không được đều lắm. Một
khi vào được bên trong công trường rồi, thì
chẳng cần phải bảo, ai nấy đều
biết việc của mình.
Qua
khỏi trạm gác một chút là đến văn phòng. Tay
giám công đang đứng cạnh đó, cất tiếng
gọi các đội trưởng tới. Mà cũng
chẳng cần phải gọi, tự họ phải
chạy đến hắn. Cả Der - một trong mấy
thằng quản công lấy từ đám tù nhân lên - cũng
chạy đến. Đó là một thẳng đại
khốn nạn, cùng bạn tù với nhau mà nó đối
xử với anh em còn tệ hơn chó.
Tám
giờ năm phút (cái máy hơi nước dùng để
phát điện vừa mới huýt lên một tiếng), các
sếp cuống cả lên, sợ tù nhân lãng phí thời gian,
lại rúc vào lều tạm nào đó để
sưởi. Nhưng tù nhân có cả một ngày dài, họ có
đủ thời giờ làm mọi việc. Vừa
mới tới chỗ làm, lập tức họ cúi xuống
nhặt nhạnh các mẩu gỗ, que củi, tất
cả những gì dùng được cho cái lò sưởi
ở trại nhà.
Turin
ra lệnh cho tay phụ tá Pavlo đi theo mình lên văn phòng.
Sezar cũng được gọi theo. Sezar giàu có, tháng hai
lần nhận được đồ tiếp tế.
Hắn đút cho tất cả những ai cần phải
đút lót, nên được phân công làm việc nhẹ trong
văn phòng, giúp việc cho người phụ trách bộ
phận chỉ tiêu.
Những
phạm còn lại của đội 104 tản nhanh về
một phía.
Mặt
trời đỏ ối bọc trong sương mù lên cao
trên công trường hoang vắng, những tấm ván
của các ngôi nhà lắp ghép phủ đầy tuyết,
một mảng tường móng bằng đá xây bỏ
dở, ở đó cần lái của một chiếc máy xúc
bị gãy, cái gầu xúc, những phế liệu sắt
thép, nằm lăn lóc, nào rãnh, nào mương, nào hố
đào dở bừa bãi. Các xưởng sửa chữa máy
móc, xe cộ đã làm xong, trừ phần mái. Nhà máy
điện ở trên một khu đồi cao đang
bắt đầu xây lên tầng thứ hai, cũng không mái.
Mọi
người đều đã tản đi hết,
ngoại trừ sáu người lính trên các tháp canh và
những người bận rộn ra vào văn phòng. Đó
chính là thời điểm cánh tù được
hưởng chút thời gian cho mình! Nghe nói, tay đốc
công đã bao lần doạ sẽ phát mệnh lệnh phân
phối công việc cho các đội từ chiều hôm
trước. Song điều đó mãi vẫn chưa làm
được, bởi vì từ chiều hôm trước
cho tới sáng hôm sau mọi thứ ở chỗ họ
cứ lộn tùng phèo cả lên.
Thế
cho nên ta được hưởng giây phút này, nó là
thời gian của ta! Trong khi các sếp còn bận rộn
tính toán công việc, thì hãy chen vào những chỗ có thể
sưởi ấm hơn, hãy ngồi xuống, ngồi
xuống mà nghỉ trước khi làm quần quật gẫy
cả lưng. Nếu mà được ngồi cạnh lò
sưởi thì chả còn gì bằng - có thể tháo vải
quấn chân hơ lên lửa một chút, như thế
suốt cả ngày chân sẽ được giữ ấm.
Mà không được gần lò sưởi, vẫn cứ
tốt chán.
Đội
104 đi vào gian nhà lớn của xưởng sửa
chữa xe đã được lắp các cửa kính
từ mùa thu và đội 38 đang đổ các khối xi
măng. Một số khối xi măng còn trong khuôn nằm
ngổn ngang, một số đã được dựng
lên, ở đó cốt thép làm từ những tấm
lưới. Mái thì cao, sàn thì vẫn là nền đất,
nên ở đó chẳng bao giờ thực sự ấm
cả, có điều người ta đốt lò cho gian nhà
này và không hề hà tiện than, chẳng phải để
sưởi ấm cho đám tù, mà để cho các khối
bê tông chóng khô. Trong nhà còn treo cả hàn thử biểu
nữa. Vào các ngày chủ nhật tù nhân vì lí do gì đó mà
không phải làm việc, thì có một công nhân tự do*
vẫn đốt lò và canh ở đó lo cho lửa cháy
đều.
Tất
nhiên, đám phạm trong đội 38 ôm chịt lấy cái
lò, hơ hơ, sấy sấy và không cho người ngoài
đội tiến lại gần. Đếch cần,
bọn ta ngồi vào góc này vậy, ấm chán.
Sukhov
đặt đít quần bông đã ngồi lê la khắp
chốn lên cái khuôn bằng gỗ, lưng dựa vào
tường. Khi anh cúi xuống, cái áo bông mặc ngoài và áo
trấn thủ bị kéo căng ra, anh cảm thấy phía
ngực trái, gần tim, có cái gì đó cưng cứng
cộm lên. Thì ra là khúc bánh mì, nửa xuất ăn sáng mà anh
giấu vào cái túi khâu trong áo, để dành cho bữa
trưa. Bao giờ anh cũng mang theo ngần ấy và không
khi nào đụng tới trước bữa trưa.
Nhưng những lần ấy anh đều ăn một
nửa xuất vào bữa sáng, còn sáng nay anh không kịp
ăn. Và Sukhov hiểu rằng anh chẳng thể
để dành được lâu hơn, anh phải ăn
ngay ở chỗ ấm áp này, từ giờ tới bữa
trưa còn những năm tiếng, chịu sao thấu.
Cái
nhức nhối trên lưng anh giờ chuyển xuống hai
chân, khiến chúng rệu rã, mỏi nhừ. Ước gì
đến được gần cái lò!..
Sukhov
tháo đôi bao tay đặt lên đùi, mở khuy áo bông, tháo
miếng giẻ quấn mặt ở cổ ra, bẻ nát
lớp nước đá đóng phía ngoài để gấp
nó lại rồi nhét vào túi. Sau đó anh lôi khúc bánh mì bọc
trong miếng rẻ màu trắng, rồi bắt đầu
gặm ít một. Anh hứng bánh trên vạt áo bông
để những vụn nhỏ khỏi rơi xuống
đất. Bánh được bọc những hai lớp
vải, lại được sưởi bằng chính
cơ thể anh, nên nó hoàn toàn không bị lạnh cứng.
Ở
trong các trại giam Sukhov thường hay nhớ tới
những bữa ăn ở nhà trước đây: khoai tây
hàng chảo đầy, cháo hàng nồi gang lớn, còn
trước đó nữa, khi chưa có nông trang, thịt
thái toàn miếng to. Còn sữa thì mặc sức, uống
đến vỡ bụng thì thôi. Nhưng có nằm trong
trại rồi thì anh mới hiểu ăn uống kiểu
đó là sai lầm. Khi ăn phải để hết tâm
trí vào đồ ăn, như bây giờ chẳng hạn,
anh nhấm nháp từng miếng bánh nhỏ, đảo nó
lên lưỡi, rồi đảo đi đảo lại
trong miệng - lúc đó mới thấy cái bánh mì đen này
thơm, ngon làm sao. Sukhov được ăn gì trong tám, chín
năm vừa qua? Chẳng có gì. Vậy có bao nhiêu công lao,
sức lực anh đã phải bỏ ra? Ô-hô!
Trong
khi Sukhov bận rộn với hai trăm gram bánh mì của
mình, thì cạnh anh, toàn đội 104 đang ngồi xúm xít
trong một góc xưởng.
Hai
anh chàng người Etoni, như hai anh em ruột, ngồi
trên một khối bê tông thấp và thay phiên nhau hút nửa
điếu thuốc lá cắm vào một cái tẩu. Cả
hai người đều có tóc màu trắng, cả hai cùng
cao, gầy, mũi dài và mắt to. Hai người quấn
quýt nhau tới nỗi có cảm giác nếu thiếu nhau
họ sẽ không sống được. Đội
trưởng không khi nào tách họ ra. Họ chia nhau
đồ ăn, ngủ chung một giường ở
tầng trên, và khi đi trong hàng hay lúc điểm danh,
cũng như trên giường ngủ, lúc nào họ cũng
thì thầm, nhẩn nha trò chuyện. Thế nhưng họ
đâu phải anh em ruột, mà chỉ mới quen nhau trong
đội 104 này. Họ kể, một người
trước đây là thuyền chài đánh cá ở ven
biển, còn người kia, khi nhà nước Xô Viết
thành lập thì đang còn nhỏ, được bố
mẹ đưa sang Thuỵ Điển. Khi lớn anh ta
tự ý quay về để tốt nghiệp đại
học. Thế là bị bắt liền.
Người
ta bảo rằng sắc tộc chẳng đóng vai trò gì,
đâu cũng có người xấu, người tốt,
thế nhưng trong tất cả những người
Etoni mà Sukhov đã gặp, anh chưa thấy người
xấu bao giờ.
Tù
nhân vẫn ngồi la liệt trên các tấm ván, hoặc trên
các khuôn đổ blốc bê tông, hay bệt thẳng
xuống đất. Mới sáng ngày ra chẳng ai muốn
nói chuyện, người nào cũng trầm ngâm với
những ý nghĩ riêng của mình. Fechiukov-chó lang nhặt
đâu được cả một đống mẩu
thuốc (nó còn nhặt cả đầu mẩu thuốc
từ trong ống nhổ, mặt mũi tỉnh bơ),
để lên đùi và đang ngồi soạn. Những
mẩu thuốc nào chưa cháy hết hắn gói tất
cả vào một miếng giấy. Fechiukov có ba con, song không
một đứa nào nhận bố khi hắn bị
bắt, vợ thì bỏ đi lấy chồng, vì thế
chẳng còn ai tiếp tế cho hắn.
Ông
trung tá Buinovski nhìn Fechiukov chằm chằm rồi bất
chợt la lên:
-
Nhặt mấy thứ rác rưởi đó làm gì hả,
muốn lây đủ mọi bệnh phải không? Trùng giang
mai đang ngốn sạch môi cậu rồi kìa, vất
đi!
Là
trung tá hải quân, Buinovski đã quen ra lệnh. Với ai ông
cũng nói bằng giọng đó.
Nhưng
Fechiukov có coi trung tá ra cái gì. Trung tá thật đấy
nhưng cũng cóc có đồ tiếp tế gửi
đến. Khẽ há cái miệng còn nửa răng ra
cười khẩy, hắn nói với ông ta:
-
Cứ đợi đấy, ngài trung tá ạ, cứ
ngồi tám năm, rồi ông sẽ thấy, tới lúc
đó ông cũng sẽ làm như tôi thôi.
Điều
đó là đúng, cái tự trọng của ông trung tá mọi
người trong trại đều đã trải qua.
-
Cái gì? Cái gì?- Anh chàng Senka Klevsin nghễnh ngãng, không nghe rõ,
tưởng mọi người nhắc lại vụ ông
trung tá bị lôi thôi lúc điểm danh. - Đáng ra ông
đừng có gây với chúng làm gì! - anh lắc đầu
quầy quậy, - thì mọi chuyện may qua
được.
Senka
Klevsin thật đáng thương. Anh là người
trầm tĩnh, ít nói, hồi bốn mốt anh bị
sức ép bom, một bên màng nhĩ bị thủng. Sau đó
bị bắt làm tù binh, chạy trốn ba lần, chúng
bắt được dần cho thừa sống thiếu
chết rồi nhốt vào Buchenvald. Nhờ phép lạ anh
thoát chết ở Buchenvald, song lại âm thầm ngồi tù
ở đây. Anh bảo nếu cứ làm ầm lên khéo mà
đi tong.
Đúng
vậy, chỉ còn mỗi nước là làm việc quần
quật, làm thật lực. Nếu chống lại -
sẽ bị bẻ gẫy ngay lập tức.
Aliosa
úp mặt vào lòng bàn tay, im lặng. Anh đang cầu
nguyện.
Sukhov
không ăn hết phần bánh mì, anh để lại
miếng cùi đầu mỏm bánh. Là bởi không có một
chiếc thìa nào có thể vét sạch cháo trong bát bằng bánh
mì cả. Miếng cùi bánh anh gói lại vào miếng giẻ
trắng để giành đến bữa trưa, đút
vào chiếc túi may phía trong áo trấn thủ, đóng cúc áo
lại cho khỏi lạnh, bây giờ thì muốn gọi
đi làm lúc nào thì gọi. Nhưng giá họ thư thư
cho một lúc nữa thì tốt quá.
Đội
38 đã đứng dậy. Một số người
đi tới chỗ máy trộn bê tông, một số đi
lấy nước, số còn lại đi lấy
lưới sắt để làm cốt bê tông.
Nhưng
chưa thấy đội trưởng Turin và cả Pavlo,
người giúp việc của anh ta, quay về
đội. Và mặc dầu đội 104 mới ngồi
chưa đầy 20 phút, còn ngày làm việc - một ngày mùa
đông ngắn ngủi - kéo dài chỉ đến sáu
giờ chiều, nhưng mọi người đều
thấy quá may mắn và buổi tối dường như
chẳng còn lâu la gì.
-
Lâu lắm rồi chẳng thấy bão tuyết gì cả, -
anh chàng Kildigs, người Latvi, béo tốt, má đỏ au,
thở dài nói. - Cả mùa đông chẳng có lấy một
trận bão nào! Mùa đông gì mà lại thế hở?!
-
Ờ... bão tuyết... bão tuyết, - tiếng thở dài
truyền đi khắp đội.
Khi
bão tuyết ở vùng này nổi lên thì không chỉ phạm
được nghỉ việc, mà ngay đến việc
để họ ra ngoài cũng sợ: từ trại
đến nhà ăn nếu không lần theo sợi giây
buộc thì lạc ngay. Nếu có tù nhân chết cóng trong
tuyết, thì dù chó có đến ăn cũng mặc.
Nhưng ngộ ngỡ hắn đào tẩu thì sao? Cũng
đã từng xảy ra những trường hợp
như vậy. Khi có bão tuyết thì tuyết rơi rất
mỏng, nhưng đóng lại thành đống chắc
nịch như thể được nện chặt.
Trượt theo những đống tuyết này mấy
phạm nhà ta vượt qua hàng rào giây thép gai, thoát
được ra ngoài, song cũng chẳng đi
được bao xa.
Xét
cho cùng bão tuyết chẳng được cái tích sự gì:
tù nhân suốt ngày ngồi trong nhà, than chở đến
chậm, hơi ấm tuồn ráo ra ngoài. Không có ai chở
được bột mì đến trại, thành thử
chẳng có bánh mì mà ăn, ở bếp cũng chẳng có
gì mà nấu nướng. Và bất kể bão có kéo dài
đến bao giờ - một, hai ngày hay cả tuần
lễ, thì người ta vẫn tính đó là những ngày
phạm được nghỉ và họ phải đi làm
bù vào những ngày chủ nhật sau đó.
Nhưng
có thế nào thì tù nhân vẫn cứ thích bão tuyết và
cầu trời khấn phật cho bão đổ. Chỉ
cần gió thổi mạnh một tí là y như rằng ngóng
tất cả lên trời, cầu khẩn: Lạy trời
cho chúng con thứ của cải ấy đi! Của
cải đây là tuyết. Là vì ở đây chưa từng
có bão tuyết thực sự.
Có
ai đó chen vào đội 38 để tới gần lò
sưởi. Lập tức anh ta bị đẩy bật
ra ngoài. Cũng đúng lúc đó Turin bước vào, mặt
mũi ỉu xìu. Toàn đội hiểu rằng sẽ
phải làm một việc gì đó, và phải làm ngay.
-
N-à-o, - Turin nhìn quanh, - 104 có cả ở đây không
đấy?
Và
chẳng cần phải kiểm tra, chẳng cần
phải đếm lại, bởi vì ở đội
của Turin không ai có thể đi đâu được,
hắn nhanh chóng phân công công việc. Hắn phái cặp Etoni
và Klevsin cùng với Gopchik tới chỗ cái máy trộn bê
tông lớn ở gần đó và khênh lên nhà máy điện.
Thế là đã rõ, đội 104 phải chuyển lên làm
ở nhà máy điện chưa xây xong và bị bỏ
dở từ dạo mùa thu tới giờ. Hắn cắt
cử thêm hai người nữa tới kho dụng cụ,
ở đấy Pavlo đã lĩnh và đang chờ.
Bốn người được phân công dọn sạch
tuyết gần khu nhà máy điện, lối cửa vào
phòng máy phát và cả bên trong nữa. Hắn lệnh thêm hai
người khác đốt lò ở đó, xoáy ở đâu
ít ván thì xoáy, rồi chẻ nhỏ ra mà nhóm lò. Một
người chở xi măng trên xe cút kít lên đó. Hai
người đi chở nước, hai người
chở cát, thêm một người dọn sạch tuyết
ở chỗ cát đó và lấy đòn mà đập cho cát
tơi ra.
Cuối
cùng chỉ còn Sukhov và Kildigs - hai thợ lành nghề nhất
đội, là chưa được phân công. Turin gọi
họ và bảo:
-
Thế này, các cậu (hắn còn ít tuổi hơn họ,
song theo thói quen vẫn cứ cậu cậu tớ tớ
với họ), - sau bữa trưa các cậu xây nốt
bức tường ở tầng hai mà đội 6 bỏ
dở mùa thu vừa rồi. Nhưng trước tiên
phải làm cho phòng máy phát ấm lên cái hẵng. Ở đó
có ba cửa sổ lớn, tôi muốn các cậu lấy cái
gì đó bịt lại. Tôi sẽ cắt người giúp
các cậu, vấn đề là phải nghĩ xem kiếm
cái gì để bịt. Ta sẽ dùng phòng máy phát để
trộn vữa và sưởi ấm. Nếu không kiếm
cách mà sưởi cho ấm người lên thì sẽ
chết cóng như chó hoang cả lũ, hiểu chưa?
Hắn
đang còn định nói gì thêm nữa, thì Gopchik, một
thằng nhỏ mười sáu tuổi, hai má phúng phính
hồng hào trông như lợn con, chạy tới than
phiền một đội khác cứ giữ chịt
lấy cái thùng trộn bê tông, không chịu nhả. Turin
chạy bổ tới đó.
Khỏi
cần biết bắt đầu một ngày làm việc
trong cái lạnh băng giá khó khăn tới nhường
nào, có điều vẫn cứ phải bắt đầu
và quan trọng là phải vượt qua được
điểm khởi đầu ấy.
Sukhov
và Kildigs nhìn nhau. Họ đã nhiều lần làm việc
cùng nhau, lúc làm mộc, lúc làm nề, và luôn kính nể nhau. Tìm
cái gì trên cái công trường đầy tuyết này
để mà bịt cửa sổ là công việc không
mấy dễ dàng. Nhưng Kildigs nói:
-
Vanhia*! tớ biết một chỗ
ở gần nhà đựng vật liệu có một
cuộn giấy dầu to lắm. Chính tớ đã giấu
nó ở đấy. Ta thuổng chứ?
Kildigs
là người Lestoni, song nói tiếng Nga như người
Nga. Hồi còn nhỏ hắn học tiếng Nga ở làng
Cựu giáo* bên cạnh. Hắn ở trong
trại mới hai năm, nhưng gì cũng biết.
Hắn hiểu rằng mình không tự giúp mình thì chẳng
ai giúp cho. Tên của Kildigs là Ian, Sukhov cũng gọi hắn
là Vanhia.
Cả
hai quyết định thuổng cuộn giấy dầu.
Song trước đó Sukhov còn phải chạy đi
lấy cái bay của mình ở khu xây dựng xưởng
sửa chữa xe cộ. Cái bay là cả một vấn
đề đối với người thợ xây,
nếu nó nhẹ và vừa tay. Tuy nhiên, mọi chỗ làm
đều phải tuân theo luật lệ: sáng nhận
dụng cụ, chiều phải nộp lại. Và sáng hôm
sau nhận được cái gì đều phụ thuộc
vào may rủi. Có một lần Sukhov lừa được
tên cấp dụng cụ trong kho và giữ riêng cho mình
một cái bay cực tốt. Bây giờ, mỗi chiều
xong việc anh lại tìm chỗ giấu nó, sáng sau lại
lấy ra nếu như vẫn phải làm hồ. Tất
nhiên, giá hôm nay đội 104 bị lùa ra Khu dịch xã thì anh
đâu có lấy được nó. Nhưng giờ thì anh
đẩy hòn đá nhỏ sang một bên, đút mấy
ngón tay vào một kẽ hở. Nó đây rồi, anh lôi cái
bay ra.
Sukhov
và Kildigs ra khỏi xường sửa chữa xe và đi
về phía kho vật liệu. Từng đám khói dày
đặc bốc lên từ hơi thở của họ.
Mặt trời đã lên cao, song không có nắng, như
thể bị bọc trong sương mù, còn hai bên mặt
trời có những cái gì đâm lên tua tủa giống
như những cái cọc.
-
Có phải cọc không nhỉ? - Sukhov hất mặt chỉ
cho Kildigs.
-
Cọc đâu có làm phiền chúng mình, - Kildigs phẩy tay
cười lớn, - có điều đừng có giăng
nhiều giây thép gai lên chúng như thế, cậu cứ
thử nhìn mà xem.
Kildigs
cứ nói một câu là đùa một câu, nhưng cả
đội đều mến hắn. Và ôi chao, tất
cả các phạm người Lestoni mới nể hắn
làm sao! Thì, tất nhiên rồi, tháng hai lần nhận
được đồ tiếp tế, hẳn là hắn
được ăn uống tử tế rồi. Mặt
mũi hồng hào, nom hắn ai bảo hắn ở tù.
Chả trách thích đùa là phải.
Công
trường mới rộng làm sao, đi mãi mới
hết. Trên đường, hai người gặp các anh
em bên đội 82 - họ lại bị bắt đào
hố. Hố không cần lớn lắm, rộng 50, dài 50,
sâu 50. Nhưng ở cái chốn này mùa hè đất đã
cứng như đá rồi, huống hồ mùa đông, còn
phải đục thêm một lớp băng bên trên đi
nữa. Lấy cuốc chim bổ xuống thì cuốc
văng ra, độc thấy những tia lửa toé ra
chứ có thấy tí đất nào đâu. Các phạm
đứng trên hố của mình ngó quanh - chẳng có
lấy một chỗ sưởi cho ấm, mà cũng không
được bỏ đi. Đành phải lấy
cuốc tiếp tục bổ vậy, chỉ có thế
người mới ấm lên được.
Sukhov
nhìn thấy một phạm quen trong số đó,
người Viatich*, liền mách nước:
-
Sao các cậu không nhóm lấy một đống lửa
để cho băng tan ra, đào có phải dễ không.
-
Chúng không cho, - gã người Viatich thở dài nói, - không cho
củi.
-
Thì phải kiếm chứ.
Còn
Kildigs chỉ nhổ toẹt một bãi xuống
đất.
-
Vanhia, thử nghĩ xem, thằng đội trưởng
mà khôn ngoan thì anh em đâu phải ở ngoài trời trong
ngày băng giá mà chọc ngoáy đất bằng ba cái
cuốc chim như thế này.
Kildigs
chửi bới một thôi một hồi, chợt nhớ
ra không được nói nhiều ngoài trời lạnh,
hắn bèn im bặt.
Hai
người tiếp tục đi mãi mới đến
được chỗ mấy tấm ván của kho vật
liệu bị tuyết phủ dầy.
Sukhov
rất khoái làm việc cùng Kildigs, phải mỗi cái cha này
không hút thuốc, nên trong các gói đồ tiếp tế
của hắn chả bao giờ có thuốc lá cả.
Và
đúng là Kildigs tinh thật: hai người lật một
tấm ván lên, rồi một tấm nữa, dưới
chúng quả là có một cuộn giấy dầu lợp nhà
thật. Họ giở nó ra. Bây giờ thì khênh đi thế
nào đây? Lính trên các chòi gác nhìn thấy cũng chẳng sao,
các bố này chỉ quan tâm mỗi điều sao cho tù
khỏi chạy trốn, còn ở trong công trường thì
cứ việc chặt hết các tấm ván ra mà làm củi
cũng được. Hoặc có đụng giám thị
trại cũng cóc sợ, là vì bản thân các bố này
cũng luôn để ý kiếm các thứ cho bản thân. Còn
anh em phạm thì đâu thèm để ý. Cả các
đội trưởng cũng thế. Chỉ có mấy
người cần phải tránh, đó là ông đốc công
(ông này không phải tù nhân) và thằng Skuropatenko cao ngẳng,
gầy quắt. Tên này chẳng là gì hết, chỉ là
một phạm bình thường, nhưng được
thuê trông coi mấy cái kho vật liệu, không để
phạm lấy cắp các thứ. Chính thằng khốn
Skuropatenko này hay rình rập và tóm được anh em
nhất.
-
Vanhia này, không nên khiêng ngang cuộn giấy, - Sukhov bàn, - mà
phải khiêng đứng nó lên, hai tay ôm lấy nó và đi
chậm chậm thôi, lấy thân mình che cho nó. Nhìn từ xa
sẽ không thấy gì đâu.
Sáng
kiến của Sukhov khá hay. Khiêng cuộn giấy thật
bất tiện, và họ không khiêng như vậy, mà ôm
chặt nó vào giữa hai người, như thể có
người thứ ba, rồi bước đi. Nhìn bên
cạnh chỉ thấy có hai người đi sát vào nhau
thôi.
-
Sau này lão đốc công mà nhìn thấy đám giấy
dầu trên cửa sổ chắc thể nào cũng đoán
ra.
-
Thì chúng mình dính dáng chó gì đến việc này mà sợ -
Kildigs ngạc nhiên - Cứ bảo khi bọn mình tới nhà
máy, thì nó đã có ở đấy rồi. Chả lẽ
họ lại bắt mình dỡ ra à.
Cũng
có lí.
Các
ngón tay anh trong đôi bao tay cà tàng bị tê dại đã
mất cảm giác. Cái lạnh chui được vào
bốt chân trái rồi. Đôi bốt dạ là cái quan
trọng nhất. Hai tay sẽ ấm khi nào làm việc.
Họ
đi qua lớp tuyết còn nguyên chưa một dấu chân
người, tới chỗ có vết xe trượt
chạy từ kho dụng cụ đến nhà máy
điện. Thế có nghĩa xi măng đã
được chở tới chỗ làm rồi.
Nhà
máy điện được xây dựng trên một
chỗ đất cao, giáp với bìa công trường. Lâu
rồi không có ai tới đây nên tuyết xung quanh nhà máy làm
thành một lớp phẳng lì, không một dấu vết.
Chính vì vậy mà vết xe trượt và dấu chân
người lún sâu xuống tuyết trông càng nổi rõ,
chứng tỏ anh em trong đội đã tới đây. Và
họ đang lấy xẻng gỗ dọn sạch
tuyết gần nhà máy và trên đường đi, lấy
lối cho xe chạy.
Giá
cái máy nâng trong nhà máy điện còn hoạt động thì
tốt quá. Động cơ bị cháy và từ độ
đó đến nay chả thấy chữa chạy gì.
Như thế có nghiã mọi thứ chuyển lên tầng hai
đều phải khuân bằng tay hết. Cả vữa.
Cả cột bê tông.
Nhà
máy điện đã phải ngừng xây dựng từ hai
tháng nay. Trông nó giống như một bộ xương xám
bị bỏ mặc cho tuyết phủ đầy.
Nhưng đội 104 đã tới. Làm thế nào cho nó
sống lại được? Bụng thì trống trơn
được thắt chặt lại bằng giây
thừng; không chỗ trú, không lửa sưởi. Nhưng
đội 104 đã tới và cuộc sống lại
bắt đầu.
Cái
thùng trộn xi măng nằm chắn ngang chỗ lối
đi vào phòng máy phát. Nó đã rệu rã và Sukhov không nghĩ
rằng nó sẽ được khênh tới nguyên vẹn.
Đội trưởng thì chửi bới ầm ĩ cho
sướng mồm, chứ bản thân hắn cũng
biết chẳng phải lỗi tại ai. Ngay lúc đó
Sukhov và Kildigs ôm cuộn giấy dầu ở giữa đi
tới. Đội trưởng mừng rỡ liền
bố trí lại công việc: Sukhov được sai
sửa ống khói lò sao cho nó cháy càng nhanh càng tốt, còn
Kildigs thì vá víu, sửa lại cái thùng trộn xi măng, có
hai anh chàng Etoni phụ giúp. Hắn đưa cho Senka Klevsin
một cái rìu để chẻ nẹp gỗ, rồi
đóng đinh ghép giấy dầu lại, vì nó ngắn
chỉ bằng phân nửa kích cỡ cửa sổ.
Nhưng lấy đâu ra các thanh gỗ? Lão đốc công chắc
chả đời nào chi cho họ những tấm ván
chỉ để chẻ ra mà sưởi. Đội
trưởng ngó quanh. Tất cả mọi người
cũng nhìn quanh. Chỉ còn mỗi một cách: cậy
lấy hai tấm ván - thanh vịn cầu thang lên tầng
hai. Đành phải bước cho cẩn thận
để khỏi lộn cổ xuống dưới
đất. Còn biết làm thế nào?
Tại
sao một người tù lại cứ phải làm quần
quật như vậy suốt mười năm trong
trại giam? Tại sao anh ta không thây kệ mọi sự và
nhẩn nha cả ngày cho tới đêm, mà đêm thì là
của ta rồi?
Nhưng
đâu có được. Để bắt tù làm việc,
người ta mới nghĩ ra ba cái đội như
thế này. Không giống như đội sản xuất
ở “bên ngoài”, trong đó mỗi người
được trả lương riêng biệt. Trong các
trại giam, đội là một tổ chức không
phải do các sếp phía trên giám sát, mà là phạm giám sát
lẫn nhau. Nó như thế này: hoặc tất cả
được thêm chút gì đó, hoặc tất cả
đều phải đói. Mày không làm việc, đồ
thối tha, còn tao thì vì mày mà ngồi nhịn đói
chắc? Không, làm đi, đồ chết toi!
Rồi
có những lúc, như lúc này đây, lại càng không thể
ngồi đấy mà rung đùi được. Muốn hay
không muốn, cứ phải lẹ chân lẹ tay lên. Nếu
sau hai giờ nữa mà cái chỗ này không ấm lên
được, thì chết cóng cả lũ.
Pavlo
đã khuân đồ lề về, mọi người
chỉ việc chọn thứ mình cần. Có cả mấy
cái ống nữa, nhưng không có dụng cụ để
lắp các ống sắt tây, ngoài một cái búa và một cái
rìu nhỏ. Rồi cũng có cách làm được.
Sukhov
đập đập đôi tay đeo bao vào nhau,
đặt các ống đầu ống nọ sát vào
đầu ống kia, ghép chúng lại với nhau bằng
cách xiết chặt các mộng đuôi én lại ở các
chỗ tiếp giáp. Xong, lại vỗ vỗ đôi tay
đeo găng vào nhau, rồi lại tiếp tục ghép
ống (anh giấu chiếc bay của mình ở gần ngay
đây. Dù mọi người trong đội đều là
anh em, song điều đó cũng không ngăn cản các
tướng tráo của nhau. Ngay Kildigs cũng dám lắm).
Mọi
ý nghĩ trong đầu Sukhov lúc này bị xua ra ngoài hết.
Anh không còn nghĩ đến cái gì, không quan tâm đến
điều gì, ngoài việc ghép bằng được cái
ống khói, sao cho cái lò khỏi khói um lên. Anh sai Gopchik đi
tìm một đoạn giây thừng để buộc
đầu ống khói vào cửa sổ cho nó chĩa ra bên
ngoài.
Ở
góc xưởng còn một cái lò bụng phệ, ống khói
xây bằng gạch. Trên nóc lò có một tấm sắt
bị nung nóng và bên trên nó băng bám vào cát bị tan ra, cát
được sấy khô. Cái lò này đã được
đốt, ông trung tá cùng Fechiukov khênh cát đổ lên trên.
Việc khênh cát không đòi hỏi đầu óc. Cho nên
đội trưởng mới phân cho những
người trước đây từng là sếp. Fechiukov
có hồi đã từng là thủ trưởng trong một
cơ quan nào đó. Hắn còn có cả xe riêng. Những ngày
đầu khi ông trung tá hải quân mới nhập trại,
hắn toan giở trò bắt nạt ông. Sau khi bị trung tá
cho sơi mấy quả đấm, mọi chuyện
mới đâu vào đấy.
Có
mấy tay cứ xán tới cái lò sấy cát để
sưởi, nhưng đội trưởng Turin cảnh
cáo:
-
Làm đi mấy tướng, muốn sưởi thì
đưa đít ra, đây sưởi cho!
Con
chó bị đánh thì chỉ cần nhìn thấy roi là sợ.
Băng giá đã khắc nghiệt, tay đội
trưởng này còn nghiệt hơn. Mấy anh em tản ra,
ai vào việc nấy.
Sukhov
nghe thấy Turin thì thầm vào tai Pavlo:
-
Cậu ở đây trông coi họ, rắn vào. Giờ
tớ phải đi đăng kí phần trăm
định mức đây.
Mọi
thứ phụ thuộc vào cái phần trăm này nhiều
hơn là bản thân công việc. Tay đội
trưởng nào tinh khôn thì lo lắng về khoản này,
chứ không phải về công việc được giao.
Bởi gắn với phần trăm là những thứ
nhét vào bụng. Nếu việc chưa làm xong, thì cứ làm
như có vẻ đã xong, năng xuất thấp thì
biến báo cho nó tăng lên. Để làm được
những việc này đòi hỏi đội trưởng
phải có cái đầu. Nhưng cũng còn phải lo lót
cho mấy thằng chó chết trên bộ phận chỉ
tiêu thì mới được việc.
Nói
cho cùng, những phần trăm ấy đem lại
lợi ích cho ai? Chính là cho trại. Các sếp kiếm
được từ vụ này hàng nghìn rúp dôi ra, một
phần lấy làm tiền thưởng cho các sĩ quan,
như hạng Volkovoi với cái roi trong tay ấy. Còn
bản thân phạm thì chỉ được thêm 200 gram bánh
mì vào bữa tối. Hai trăm gram bánh mì ấy điều
hành cuộc sống của họ. Với hai trăm gram
bánh mì ấy cả một hệ thống khổng lồ
kênh đào Belomor đã được xây dựng.
Hai
xô nước đã được xách tới, song trên
đường đi nước trong xô đã đóng
băng lại. Pavlo nảy ra sáng kiến, tội chó gì mà
phải xách nước cho mất công, cứ việc
đun tuyết tại chỗ cho nó chảy ra là xong, và
thế là họ xúc tuyết vào xô, đặt lên lò sấy.
Gopchik
bẻ gấp lại một đoạn giây nhôm còn mới
- loại dùng để kéo giây điện. Nó nói với
Sekhov:
-
Chú Ivan Denhicych! Cái giây này làm thìa tốt lắm. Chú dạy
cháu làm thìa với nhé.
Sukhov
rất thích thằng ranh con láu cá này (con trai anh mất lúc còn
nhỏ, ở nhà chỉ còn hai cô con gái lớn). Gopchik
bị bắt vì tội đã mang sữa vào rừng cho quân
của tướng Bender* và bị lĩnh án như
người lớn. Nó dễ thương như một chú
bê nhỏ và quấn quýt với mọi người trong
đội. Nhưng nó cũng cáo ra phết: nhận
được đồ tiếp tế là ăn một
mình, thỉnh thoảng ban đêm cũng thấy nhai tóp tép.
Ờ
mà làm sao chia hết được cho tất cả mọi
người trong đội.
Hai
người gấp đoạn giây làm thìa lại rồi
giấu vào một góc. Sukhov lấy hai tấm ván buộc
lại làm thành một cái thang ghế và sai Gopchik
đứng trên đó buộc ống khói. Gopchik thoăn
thoắt trèo lên như một con sóc. Nó đóng một cái
đinh, móc một đầu giây thép vào đó và quấn
xung quanh ống khói. Sukhov lại lấy một cái ống
nữa để nó nối tiếp vào miệng cái ống
khói đã buộc. Hôm nay không có gió lùa vào hướng này,
nhưng ngày mai có thể có, nối thêm ống như
vậy để khói không tạt trở lại vào phòng. Thì
cái lò này dùng cho quân mình mà lại.
Còn
Senka Klevsin thì mãi bây giờ mới làm xong mấy cái nẹp
gỗ. Gopchik lại bị sai trèo lên để đóng.
Thẳng quỷ con trèo lên cửa sổ, la lối om sòm
xuống phía dưới.
Mặt
trời đã lên cao, sương mù đã tan nên không còn
thấy mấy cái mống trông giống như mấy cái
cọc kia nữa. Một màu đỏ ối ở chính
giữa mặt trời. Lò đã được nhóm
bằng đống củi ăn cắp được.
Còn gì sướng hơn đây!
-
Nắng tháng Giêng thì chỉ sưởi ấm
được da bò thôi, - Sukhov giải thích.
Kildigs
cũng vừa sửa xong cái thùng trộn vữa, còn
lấy cái rìu nhỏ cố gõ thêm vài nhát nữa. Hắn hô
to:
-
Nghe đây, Pavlo, xong việc này đội phải trả
cho tôi một trăm rúp. Ít hơn, không nhận!
Pavlo
cười:
-
Cậu sẽ được nhận thêm một trăm
gram bánh.
-
Để ông công tố bồi dưỡng thêm cho! - Gopchik
ở trên hét xuống.
-
Hượm đã! hượm đã! - Sukhov gắt lên.
Mọi
người cắt giấy dầu không đúng cách, anh
ngăn lại và chỉ cho họ cách cắt.
Có
mấy tay sà tới bên chiếc lò bằng sắt tây, song
bị Pavlo xua đi. Hắn cho Kildigs thêm vài người
phụ hồ nữa và ra lệnh làm những cái cáng*
để khênh vữa lên tầng hai. Sau đó phái hai
người nữa đi lấy cát, hai người khác
dọn sạch tuyết trên giàn giáo và trên tường.
Một người nữa thì xúc cát đã được
sấy khô trên lò và hất vào máy trộn bê tông.
Bên
ngoài có tiếng động cơ ô tô. Xe chở gạch
đã tới. Pavlo chạy ra vẫy vẫy và chỉ cho
mọi người chỗ dỡ gạch xuống.
Người
ta đóng đinh bịt một lớp giấy dầu che
kín cửa sổ, rồi một lớp nữa. Giấy
dầu thì che kín nỗi gì, thì cũng chỉ là giấy
chứ quái gì. Tuy nhiên, tường trông chắc chắn
hơn. Bên trong trở nên tối hơn và lửa trong lò có
vẻ cháy sáng hơn.
Aliosa
mang than tới. Người thì kêu lên: “đổ hết vào
lò!”, kẻ ngăn lại: “không được đổ,
đốt củi ấm hơn!”. Aliosa không còn biết nghe
ai.
Fechiukov
ngồi xuống cạnh lò và cứ thế đưa hai
chân đi ủng sát vào lửa. Thằng ngu thế chứ.
Ông trung tá nắm cổ hắn lôi ra và đẩy về phía
chiếc xe cút kít:
-
Đi chở cát, đồ bấc thối!
Ông
trung tá hải quân coi công việc trong trại giống
như công việc trên tầu của ông: đã lệnh là
phải làm ngay! Tháng cuối này ông trung tá trông sút hẳn,
song vẫn cố gắng sức.
Lâu
hay mau, cuối cùng thì cả ba cái cửa sổ đều
đã được bịt kín. Bây giờ ánh sáng chỉ
còn hắt vào từ phía cửa chính. Và cái lạnh cũng
theo đó mà vào. Pavlo ra lệnh che kín nửa trên cái cửa
ra vào lại, chỉ để trống nửa dưới
và người ra vào phải cúi khom khom. Các cửa khác
cũng được bịt như vậy.
Trong
thời gian đó gạch do ba chiếc xe tải chở
đến đang nằm lăn lóc trên sàn đất. Làm
sao để chuyển đống gạch đó lên
được tầng hai mà không cần đến máy nâng?
-
Ê, mấy bác thợ nề! Ta thử lên đó xem sao! - Pavlo
mời.
Xây
tường được xem là một công việc vinh
dự. Sukhov và Kildigs cùng Pavlo đi lên tầng trên. Thang
đã hẹp mà Senka lại lấy đi hai thanh tay vịn
để làm nẹp bịt cửa sổ, nên phải bám
vào tường cho khỏi ngã. Thêm vào đó tuyết còn bám
chặt trên mặt thang khiến nó trơn tuột, chân không
bám vào được, thế này thì khênh vữa lên làm sao
đây?
Họ
xem xét bức tường xây dở. Phải lấy
xẻng dọn sạch tuyết bám vào, sau đó dùng rìu
chặt những chỗ băng bám vào gạch rồi dùng
chổi quét cho sạch.
Họ
tính xem chuyển gạch lên bằng cách nào. Nhìn xuống phía
dưới họ quyết định tốt nhất là
đừng khuân lên theo lối cầu thang, mà cắt
bốn người đứng dưới ném gạch lên
dàn giáo thứ nhất. Trên đó có hai người ném
tiếp lên tầng hai. Trên tầng hai có hai người làm
nhiệm vụ chuyển gạch cho thợ xây - như
thế sẽ nhanh hơn.
Ở
tầng trên gió không mạnh lắm, song dai dẳng,
đủ xuyên thẳng vào người lúc làm việc.
Nhưng nếu cúi xuống bức tường xây dở,
nấp đằng sau nó thì sẽ thấy ấm hơn
nhiều.
Sukhov
nhìn lên và giật mình: trời trong veo. Căn cứ vào
mặt trời lên cao thì sắp tới bữa trưa
rồi. Thật là lạ, lúc làm việc sao thấy ngày
giờ trôi mau thế! Biết bao lần Sukhov nhận
thấy ngày trong trại qua đi rất nhanh, ngoảnh
đi ngoảnh lại đã hết một ngày. Ấy
thế nhưng ngày mãn hạn thì mãi chẳng thấy
tới, như thể nó không nhích lên được chút nào
ấy.
Họ
đi xuống dưới, ở đó mọi người
đã ngồi xúm xít quanh cái lò, chỉ có ông trung tá cùng
với Fechiukov đang khiêng cát. Pavlo cáu um lên, lập tức
xua tám người đi chuyển gạch, hai người
đổ cát khô và xi măng vào thùng trộn bê tông,
người thì đi lấy nước, người
đi lấy than.
Còn
Kildigs thì nói với nhóm của mình:
-
Các cậu khá lắm, phải làm xong cho nhanh mấy cái cáng.
-
Để tôi giúp họ một tay? - Sukhov nói với Pavlo,
tự xin việc.
-
Ừ, giúp họ đi. - Pavlo gật đầu.
Ngay
lúc đó một chiếc thùng sắt được mang
tới để đun tuyết cho chảy ra lấy
nước trộn bê tông. Có người nào đó nói hình
như đã mười hai giờ rồi.
-
Lại còn không đến mười hai giờ, - Sukhov nói
đế vào - mặt trời đã lên đến
đỉnh đầu rồi.
-
Nếu mặt trời lên đến đỉnh
đầu, có nghĩa không phải mười hai giờ,
mà là một giờ, - ông trung tá sửa ngay.
-
Sao lại thế được? - Sukhov ngạc nhiên. - Các
cụ chả bảo khi nào mặt trời lên đến
đỉnh đầu, lúc đó là giờ ăn trưa.
-
Đó là mấy cụ người âm lịch nói! - ông trung
tá đập lại, - chứ bây giờ đã có luật,
mặt trời lên tới đỉnh là đúng một
giờ.
-
Ai ra cái luật đó?
-
Chính quyền Xô Viết!
Ông
trung tá mang cái cáng khiêng cát ra ngoài, dù sao thì Sukhov cũng
chẳng muốn cãi lí với ông. Chả có lẽ
đến mặt trời cũng phải theo luật
của họ sao?
Đập
gõ một hồi, cuối cùng anh em cũng làm thêm
được bốn cái cáng khiêng vữa nữa.
-
Thôi được rồi, ngồi sưởi ấm cái
đã, - Pavlo nói với hai người thợ xây, - Senka
ạ, ăn trưa xong hãng xây. Ngồi xuống đi!
Và
lúc này thì tất cả mọi người đều có
quyền ngồi cạnh cái lò mà sưởi. Đằng
nào cũng vậy, không thể xây trước bữa
trưa, đánh vữa sớm để cho nó đóng bánh
lại à.
Than
trong lò cháy phừng phừng và toả đều hơi
nóng. Nhưng phải ngồi cạnh lò mới thấy
ấm, những chỗ khác trong nhà vẫn lạnh như
thường.
Bốn
người cởi bao tay hơ lên bếp lò. Còn chân đi
ủng thì tuyệt đối không được
để sát vào lửa, đó là điều cần
phải biết. Nếu là ủng da thì nó sẽ nứt, còn
ủng dạ thì sẽ ướt sũng và bốc khói, mà
chân thì vẫn bị lạnh. Để ủng sát cạnh
lửa còn rất dễ bị cháy, rồi là phải đi
ủng thủng cho tới tận mùa xuân. Chờ
đấy người ta phát ủng mới cho!
-
Sukhov thì còn phải lo gì nữa, một chân anh ấy đã
ở nhà rồi còn gì, - Kildigs lại bắt đầu
đùa.
-
Cái chân không kia kìa, - ai đó chỉ vào cái chân để
trần của anh (Sukhov cởi chiếc ủng trái có
lỗ thủng ra và đang hơ đám giẻ quấn
chân). Mọi người cười ầm.
-
Thế là Sukhov sắp mãn hạn rồi.
Bản
thân Kildigs bị hai mươi nhăm năm. Trước
kia tội như anh tất cả chỉ bị
mười năm thôi. Từ năm 49 tới giờ,
nặng nhẹ gì cũng hai mươi nhăm năm
tuốt. Mười năm còn có hi vọng sống sót mà
về, chứ hai mươi nhăm năm thì có mà về
cái khỉ mốc.
Sukhov
thấy khoai khoái khi mọi người chỉ anh mà nói anh
sắp sửa mãn hạn tù. Song anh cũng chẳng lấy
làm tin lắm vào chuyện đó. Thì đấy, có những
ngưỡi mãn hạn trong chiến tranh, nhưng
người ta cứ kéo dài cho đến tận năm 46
đấy. Có người hạn tù chỉ có ba năm, sau
bị kéo dài thành năm năm.
Luật
lệ bẻ cong thế nào cũng được. Hết
hạn mười năm, người ta sẵn sàng
bồi thêm cho anh thêm một hạn mười năm
nữa, hay tống anh đi đày, không cho về quê quán.
Biết
thế nhưng bụng vẫn cứ nôn nao thế nào
ấy. Biết đâu số mình lại chẳng gặp
may. Chúa ơi! làm sao hình dung nổi cái lúc mình bước
chân ra khỏi đây, hả?
Song
không khi nào người tù có thâm niên lại nói tất cả
những điều đó ra miệng. Và Sukhov chỉ nói
với Kildigs:
-
Cậu đừng có đếm hai mươi nhăm
năm làm chó gì cho mệt xác. Có ngồi tất cả hai
mươi nhăm năm hay không, ai mà biết
được. Nhưng chỉ biết tớ đã
ngồi đủ tám năm rồi, đó là cái chắc.
Thế
cho nên cứ phải cúi mặt xuống mà sống, thời
gian đâu mà nghĩ: vì sao mình phải vào đây và khi nào mình
được thả?
Trong
hồ sơ Sukhov bị tù vì tội phản bội tổ
quốc. Và anh cũng khai mình như vậy: đầu hàng
để bị bắt làm tù binh với ý đồ
phản bội tổ quốc. Trước lúc
được thả về đã nhận chỉ thị
của cơ quan gián điệp Đức. Nhưng
chỉ thị gì thì cả Sukhov, cả cán bộ
điều tra thẩm vấn, mãi không bịa
được, đành phải bỏ lửng như
vậy và ghi vào hồ sơ: nhận chỉ thị.
Ở
cơ quan phản gián, Sukhov bị tra tấn nhiều
lần, và anh đã tính toán rất đơn giản:
nếu không kí thì cầm chắc sẽ nằm dưới
ba tấc đất, nếu kí thì còn có cơ sống lâu
thêm một chút.
Và
thế là anh kí.
Thực
ra đầu đuôi câu chuyện là thế này: tháng hai
năm 1942, cả đạo quân của anh bị bao vây
tại mặt trận Tây-Bắc. Họ không thể
tiếp tế lương thực cho bọn anh
được - không có máy bay. Chả có gì đút vào
bụng. Tình hình nguy cấp tới mức lính phải
chặt ngựa chết, ngâm vào nước cho mềm ra mà
ăn. Và cũng chẳng còn gì để mà bắn. Thế
là quân Đức tìm thấy họ ở trong rừng,
từng toán một, và bắt làm tù binh. Sukhov ở trong
một toán như thế, bị bắt làm tù binh mấy
ngày, ngay trong rừng. Sau đó anh chạy trốn cùng
với bốn người nữa. Len lỏi, ẩn
nấp trong rừng, dưới đầm lầy, và
như có phép lạ, bọn anh đã gặp được
người đằng mình. Nhưng hai người
lập tức bị ngay xạ thủ đại liên
của mình bắn chết tại chỗ, người
thứ ba chết vì tử thương, chỉ còn hai
người sống sót. Gía khôn ra thì phải khai là bị
lạc trong rừng, thì chả làm sao. Đằng này
lại thật thà: chúng tôi trốn khỏi đoàn tù binh
của quân Đức. Sao? Trốn khỏi bọn
Đức cơ đấy? Mẹ chúng mày, quân gián
điệp cho bọn phát xít. Và thế là bị tống
giam. Giá cả năm tên còn sống, thì họ phối
kiểm khẩu cung và may ra còn tin. Nhưng chỉ còn hai tên
thì vô phương: họ cứ nằng nặc bảo
rằng hai thằng khốn nạn đã thông đồng
với bọn Đức giả vờ chạy trốn.
Nghễnh
ngãng như Senka Klevsin mà cũng nghe thủng câu chuyện
về tù binh, anh nói tướng lên:
-
Tớ đã ba lần chạy trốn, nhưng cả ba
lần đều bị bắt lại.
Senka
mới thật khốn nạn, anh bị điếc
nặng nên phần lớn thời gian chỉ im lặng:
anh đâu có nghe thấy người ta nói gì và cũng không
xen vào câu chuyện của mọi người. Vì thế anh
em trong đội biết ít về anh, chỉ biết anh
từng bị bắt giam ở Buchenvald và ở đó anh
tham gia tổ chức bí mật, chuyển vũ khí vào
trại giam cho cuộc nổi dậy của tù binh. Bọn
Đức phát hiện ra, chúng treo ngược anh lên, trói
giật cánh khuỷu, đánh cho đến thủng nốt
màng nhĩ tai kia.
-
Này Vanhia, cậu ngồi tù tám năm - ở những
trại nào vậy? - Kildigs liệt kê những nhà tù. -
Cậu cũng đã ở tù dân sự, thế thì
được ở với đàn bà và chắc không
phải đeo số? Chứ tám năm trong trại hình
lại là chuyện khác, chưa có ai sống nổi tới
lúc mãn hạn đâu.
-
Ở chung với đàn bà! Với mấy khúc gỗ thì
có...
Sukhov
đăm chiêu nhìn ngọn lửa và nhớ lại bẩy
năm tù ở miền Bắc. Suốt ba năm dòng anh
phải kéo gỗ làm đà đường xe lửa.
Đống lửa cháy ở chỗ khai thác gỗ mỗi
khi làm đêm cũng bập bùng như bây giờ. Hồi
đó trại trưởng đề ra cái luật như
sau: đội nào làm ngày không đủ định mức,
phải làm bù vào ban đêm. Tới quá nửa đêm mới
lê được về tới trại, buổi sáng,
mới bảnh mắt đã phải dậy đi vào
rừng.
-
Không, mấy ông bạn ơi... ở đây còn dễ
chịu hơn nhiều, - anh phều phào nói. - Ở đây
ăn ngủ còn có giờ giấc. Làm xong việc hay không
xong việc - vẫn được về trại, và
ở đây khẩu phần còn cao hơn những 100 gram.
Còn sống được. Trại đặc biệt - thì
kệ con mẹ nó, bận đếch gì đến mình. Hay
đeo số thấy phiền phức chăng? Nó có
nặng thêm chút nào đâu.
-
Dễ chịu hơn! - Fechiukov gắt gỏng (đã
tới giờ ăn trưa, mọi người xúm xít xung
quanh cái lò). - Đêm đang ngủ chúng mò đến cắt
cổ, dễ chịu gớm!
-
Người thường ai cắt cổ, chỉ bọn
chỉ điểm mới bị thôi! - Pavlo giơ ngón tay
dọa Fechiukov.
Trong
trại quả mới có chuyện ấy thật. Hai
thằng cha chỉ điểm nổi tiếng bị
cắt cổ ngay trong giờ báo thức. Một phạm vô
tội cũng bị - chắc là bị lầm với ai
đó. Còn một thằng chỉ điểm nữa
chạy trốn đến chỗ cấp trên, ở đó
người ta phải giấu hắn vào xà lim. Kì quặc -
những chuyện như thế trong trại tù
thường đâu có xẩy ra. Ngay trong trại này
trước cũng không có những chuyện như
vậy...
Cái
còi đầu máy hơi nước bỗng huýt lên. Nó không
huýt toáng lên ngay, mà lúc đầu còn khục khặc, khàn khàn
như người xúc miệng.
Hết
nửa ngày rồi - nghỉ trưa, đi ăn thôi!
Mẹ
kiếp, cứ dề dà! đáng lẽ phải đi vào nhà
ăn mà xếp hàng lâu rồi mới phải. Có
mười một đội làm việc trên công
trường, mà nhà ăn thì chỉ chứa được
hai đội.
Mà
mãi không thấy đội trưởng đâu. Pavlo lia
mắt nhìn quanh rồi quyết định:
-
Sukhov, Gopchik theo tôi! Kildigs! Lúc nào tôi phái Gopchik trở lại
là anh phải cùng toàn đội tới ngay!
Mấy
người vừa đi khỏi, chỗ của họ
liền bị chiếm ngay. Cái lối họ chen vào ôm
lấy cái lò, như thể ôm đàn bà vậy.
-
Đừng ngủ nữa! - mấy tướng hét toáng
lên, - hút thuốc thôi!
Cả
bọn nhìn nhau xem ai châm thuốc. Chả có ai cả.
Hoặc cóc có thuốc, hoặc có, nhưng ém nhẹm, không
muốn cho ai biết.
Sukhov
cùng Pavlo bước ra ngoài. Gopchik chạy tung tăng
đằng sau.
-
Có ấm hơn rồi đấy. Không quá âm mười tám
độ. Giời này xây tốt.
Họ
quay nhìn đống gạch. Một số lớn đã
được ném lên giàn giáo, một số đã nằm
trên sàn tầng hai rồi.
Sukhov
nheo mắt nhìn mặt trời xem cái luật mà ông trung tá nói
có đúng không.
Ngoài
quãng trống không có vật cản, gió vẫn tha hồ
thổi và cắn vào mặt nhức buốt, như
nhắc ta rằng giờ hãy còn là tháng Giêng.
Nhà
ăn của công trường chỉ là một căn nhà
gỗ tồi tàn. Giữa nhà là cái bếp lò trên có kê
những tấm sắt rỉ để che những khe
hở. Bên trong ngăn ra một phần làm bếp, phần
làm chỗ ngồi ăn. Cả hai phần đều không
có sàn gỗ. Mặt đất bị dẵm nát, lồi
lõm. Toàn bộ bếp chỉ độc một cái lò vuông,
trên đặt một cái nồi lớn.
Có
hai người phục dịch trong bếp: cấp
dưỡng và một người kiểm tra vệ sinh.
Buổi sáng, trước khi rời khỏi trại,
cấp dưỡng đã lĩnh hạt mạch ở
bếp chính của trại. Tính ra mỗi đầu người
được khoảng 50 gram, cả đội - một
kí lô, còn toàn công trường khoảng hơn một
yến. Tay cấp dưỡng chả tội vạ gì mà
phải vác cái bao hơn chục kí đi hơn ba cây số
từ trại đến công trường. Hắn giao
việc này cho một phạm tin cậy. Chẳng thà ăn
bớt của đám tù để thuê thằng này còn hơn
sụm lưng mà mang vác. Các việc khác cũng vậy, xách
nước, bổ củi, nhóm lò, thằng cha này chẳng
động tay, tất cả đều thuê phạm -
bọn vét đĩa, làm hết, và cũng lại bấu
vào phần của anh em để cho bọn này. Thì của
người phúc ta mà lại. Lại còn cái luật này
nữa: không được ăn ở ngoài nhà ăn. Vì
vậy ngày nào cũng phải mang bát đi theo (cũng không
thể để bát lại ở công trường qua
đêm được, dân ngoài sẽ vào lấy hết). Có
tới năm chục cái bát, cứ mỗi đội
ăn xong là phải rửa ngay cho đội sau, và người
thu dọn bát cũng được thêm phần. Để
bát không bị tuồn ra ngoài, người ta đã cắt
cử một phạm tin cậy đứng kiểm tra
ở cửa. Nhưng tha hồ cho kiểm tra anh em vẫn
mang được bát ra ngoài như thường, hoặc
nói khó với tên kiểm soát, hoặc đợi lúc hắn
sơ ý mang lén ra. Thế là lại phải cử thêm
một phạm nữa đi khắp công trường, thu
gom bát bẩn mang về. Cả tên soát bát ở cửa,
lẫn tên này, đều được cho thêm phần.
Bản
thân tên nấu bếp thì chỉ làm mỗi việc:
đổ hạt mạch và muối vào nồi. Nếu có
mỡ thì hắn chia đôi: hắn một nửa và cái
nồi một nửa. (Mỡ ngon chả bao giờ
đến lượt tù nhân. Chỉ có mỡ xấu
mới được bỏ vào nồi. Chính vì thế tù
nhân chỉ mong được lĩnh mỡ xấu ở
nhà kho). Như vậy công việc của tay bếp chỉ
là khuấy cháo lúc sắp chín. Còn cha vệ sinh viên thì ngay
cả đến việc này cũng chả làm, chỉ
ngồi nhìn. Khi cháo chín đầu bếp múc cho hắn
trước tiên, muốn ăn bao nhiêu cũng
được. Thằng cha đầu bếp cũng
thế. Rồi một trong các đội trưởng làm
nhiệm vụ trực - họ thay nhau mỗi người
một ngày - đến nếm xem cháo nấu như vậy
phạm có ăn được không. Cha này được
xuất đúp.
Xong
xuôi rồi còi mới huýt. Lúc này đội trưởng các
đội mới đến, xếp hàng lần
lượt đưa bát vào cho tên bếp để lĩnh
cháo cho đội mình. Cháo đựng trong bát loãng toẹt,
và đừng có hỏi họ đã bỏ bao nhiêu khẩu
phần của anh vào đó, bởi chỉ cần mở
miệng họ sẽ cho anh ăn đủ các thứ
nhơ bẩn nhất.
Gió
rít trên thảo nguyên hoang vu - nơi mùa hè thì khô cháy, mùa
đông thì băng giá. Ở thảo nguyên còn chẳng cây gì
có thể mọc lên được, huống hồ
giữa bốn tầng rào giây thép gai. Lúa mì mọc ở
chỗ độc nhất là chỗ phát khẩu phần
bánh mì, lúa mạch chỉ được gặt trong kho
lương thực của trại. Và dù anh có làm
đến gãy lưng hay lê lết ra đó, cũng không
thể đào đâu ra thức ăn, ngoài phần trại
phát cho. Mà cả khẩu phần này anh cũng không
được lĩnh đủ: còn phải cúng cho
đầu bếp, cho bọn phạm được thuê
làm dịch vụ và đủ thứ hạng khác. Chúng
bớt xén, trộm cắp của anh em từ trên xuống
dưới và khắp mọi nơi: cả ở đây
lẫn trong trại, trước đó cả ở các nhà
kho nữa. Mình làm trầy vẩy ra mà chúng cho bao nhiêu chỉ
được bấy nhiêu. Và đừng có láng cháng
tới gần những chỗ phát đồ ăn.
Ai
có thân người ấy khắc tự lo.
Pavlo,
Sukhov và Gopchik bước vào nhà ăn - ở đó toàn
thấy lưng người là lưng người, chả
nhìn thấy bàn ghế đâu. Chỉ có một số
đang ngồi ăn, còn phần lớn là đứng.
Đội 82 từ sáng tới giờ đào hố ngoài
trời, vừa nghe thấy tiếng còi đã xông ngay vào nhà
ăn chiếm hết chỗ rồi. Dù đã ăn xong,
nhưng họ vẫn ngồi ỳ ra đó. Thì còn có
chỗ nào ấm mà nghỉ nữa? Anh em chửi mắng
ầm ĩ đòi chỗ, nhưng chẳng thà vạch
đầu gối ra mà chửi còn hơn. Họ đâu có
nghe, ngồi trong này nghe chửi còn hơn phải ra
ngồi ở ngoài trời giá buốt.
Pavlo
và Sukhov lấy khuỷu tay chen đẩy đám đông,
đến vừa đúng lúc. Một đội đang
lĩnh xuất, đội khác đứng đợi, các
đội phó đứng cạnh cửa tò vò chỗ phát
cháo. Như vậy đôi 104 sắp đến lượt
rồi.
-
Bát đâu! bát đâu! - tên bếp la hét đằng sau
cửa tò vò, mọi người đẩy bát vào cho
hắn. Sukhov nhặt được mấy cái bát sạch
cũng tính đẩy vào, không phải để lấy
thêm phần cho mình, mà để cho nhanh. Một vài phạm
thân tín của tên bếp đang rửa bát bên trong, bọn
này đâu có làm không công.
Người
đội phó đứng trước đến
lượt lấy đồ ăn cho đội mình, Pavlo
quay lại hét qua đầu những người khác:
“Gopchik!”
-
Cháu đây! - tiếng Gopchik vọng từ cửa vào,
giọng nó the thé như tiếng dê con.
-
Gọi đội mình tới!
Thằng
bé chạy biến đi.
Cái
chính là cháo hôm nay không đến nỗi tệ. Vào hạng
ngon nhất, được nấu bằng hạt lúa
mạch.
Năm
thì mười hoạ mới được như
vậy. Thường thì chỉ có món magara ngày hai bữa,
hay bột khuấy với nước. Cháo nấu bằng
hạt mạch no lâu hơn, quý là ở chỗ đó.
Lúc
còn nhỏ Sukhov cho ngựa ăn biết bao nhiêu lúa
mạch, anh đâu có ngờ một ngày kia anh chỉ ao
ước có được một nắm.
-
Bát! bát! - họ lại hét toáng lên.
Đã
tới lượt đội 104. Tay đội phó
đứng trước nhận khẩu phần đúp
của “lãnh đạo” rồi chen ra.
Cái
khẩu phần đúp đó cũng là bấu từ
khẩu phần của anh em, song không có ai kêu ca. Mỗi
đội trưởng có quyền nhận khẩu
phần đúp, anh ta có thể ăn, hoặc cho
người phụ tá của mình. Turin cho Pavlo xuất này.
Lúc
này nhiệm vụ của Sukhov là lách tới một cái bàn,
đuổi hai thằng đang mót đồ thừa đi,
nói khó với một bạn tù ăn xong rồi thì đi
đi cho, dọn sạch một chỗ trên bàn đủ
để anh đặt mười hai cái bát sát cạnh
nhau, rồi chồng thêm sáu cái nữa lên trên, và trên cùng
chồng hai bát. Bây giờ phải đón những bát cháo
từ tay Pavlo. Anh phải đếm lại một
lượt nữa và canh chừng không cho mấy tay
đội khác thuổng cháo đội mình, hay lấy cùi
chỏ huých đổ. Ngay bên cạnh, người
đứng lên, kẻ ngồi xuống ăn ào ào. Phải
lấy mắt mà vạch rõ ranh giới, xem họ ăn bát
của họ hay ăn sang bát của đội mình.
-
Hai! bốn! sáu! - Tên bếp đếm ở đằng sau
cửa tò vò. Hai tay hai bát, hắn phát liền một lúc.
Như thế dễ cho hắn hơn, đếm bát
một hay bị nhầm.
-
hai, bốn, sáu, - Pavlo khẽ đếm theo và anh cũng
chuyển cho Sukhov hai bát một lúc, và Sukhov xếp bát lên bàn.
Tuy
không đếm thành tiếng, nhưng Sukhov đếm
kĩ hơn ai hết.
-
Tám, mười.
Sao
đến giờ Gopchik chưa đưa đội mình
tới nhỉ?
-
Mười hai, mười bốn... - trong bếp vẫn
tiếp tục đếm.
Vừa
đúng lúc đó trong bếp đã hết sạch bát. Nhìn
qua đầu và vai Pavlo, Sukhov thấy tên bếp đặt
hai bát cháo lên thành cửa, hai tay vẫn giữ lấy bát
như đang nghĩ gì. Chắc hắn đang ngoái vào bên
trong chửi mấy tên rửa bát. Cùng lúc ấy có
người đẩy qua cửa tò vò vào cho hắn một
chồng bát không. Hắn phải buông hai bát cháo ra để
bê chồng bát vào.
Sukhov
thôi không canh mấy bát cháo trên bàn nữa, quay lại,
bước qua cái ghế dài, lôi hai bát cháo trên thành cửa tò
ra và nói khẽ: “Mười bốn!”. Nói cho Pavlo nghe,
chứ không phải cho tên bếp.
-
Để lại, lôi đi đâu thế? - Tên bếp
rống lên.
-
Của bọn tôi, của bọn tôi, - Pavlo hét lại.
-
Của các anh thì của, chứ đừng làm cho người
ta đếm nhầm.
-
Thì mười bốn rồi, - Pavlo nhún vai nói. Tự mình
hắn chả bao giờ làm cái trò này, còn phải giữ uy
tín của một đội phó chứ. Song hắn đã
về hùa với Sukhov, vả lại đã có Sukhov rồi,
có chuyện gì xẩy ra thì cứ đổ cho anh ta là xong.
-
Tôi đã đếm mười bốn rồi! - Tên bếp
nổi cáu.
-
Đếm rồi, nhưng cháo chưa đưa, hai tay
chả giữ khư khư ấy là gì.- Sukhov nói chõ vào. -
Không tin cứ đếm lại, tất cả đang còn
ở trên bàn đây này.
Sukhov
quát trả lại tên bếp, song cũng đã nhìn thấy
cặp Estoni đang tiến đến gần, anh liền
ấn hai bát cháo vào tay họ, và còn kịp quay trở
lại bàn, kịp đếm xem các bát cháo có còn nguyên
tại chỗ không. Hoá ra đội bạn chậm
chạp quá, chưa nẫng được bát nào, mặc dù
chẳng có ai canh chừng cả.
Cả
cái khuôn mặt đỏ gay của tên bếp lấp
đầy khung cửa sổ.
-
Bát đâu? - Hắn hỏi, giọng nghiêm nghị.
-
Đây, nhìn đi! - Sukhov hét lên. - Đứng lùi ra ông
bạn, để cho người ta nhìn - anh đẩy
một người nào đó. - Hai này! - anh nhấc hai bát
cháo chồng trên cùng lên cao. - Còn đây là ba bát nữa, bốn
bát một hàng, đếm đi!
-
Đội của các bố chưa đến hả?
Tên
bếp nhìn Sukhov qua khuôn cửa tò vò. Cửa làm hẹp
để mọi người khỏi nhìn được
vào bên trong xem cháo còn bao nhiêu.
-
Chưa, chưa đến, - Pavlo lắc đầu.
-
Đội chưa đến mà đã lĩnh cháo, các bố
làm trò gì thế hả? - Hắn cáu um.
-
Họ đến kia rồi! Sukhov kêu lên.
Và
tất cả đều nghe thấy cái giọng oang oang
của ông trung tá, như thể ông đang nói trên đài
chỉ huy:
-
Chen chúc nhau làm gì ở đây thế này? Ăn xong rồi
thì phải đi ra lấy chỗ cho người khác vào với
chứ!
Tên
bếp còn cằn nhằn cái gì đó rồi đứng
thẳng lên, và ta chỉ còn trông thấy hai bàn tay hắn qua
lỗ cửa tò vò như lúc trước.
-
Mười sáu! mười tám!
Và
một xuất đúp - hai bát cuối cùng:
-
Hai mươi ba. Xong! đội khác!
Những
người trong đội len tới và Pavlo chuyển cháo
cho họ, còn những người ngồi ở bàn bên thì
anh phải đưa cháo qua đầu người khác
mới tới được họ.
Vào
mùa hè, mỗi ghế dài thường ngồi
được năm người, mùa đông quần áo
mặc to sù sụ, nên chỉ ngồi được có
bốn, thế mà cũng không có chỗ để khuỳnh
tay xúc thìa.
Nghĩ
thầm trong bụng mình sẽ được một trong
hai bát cháo vừa thuổng được, Sukhov bèn ăn
vội xuất của mình. Anh co đầu gối chân
phải vào bụng, rút cái thìa có ghi “Ust - Izma, 1944 ra, bỏ
mũ xuống kẹp vào nách bên trái, rồi bắt
đầu khuấy cháo.
Bây
giờ phải để hết tâm trí vào việc ăn.
Phải vét lòng bát cho thật sạch, đưa thận
trọng vào miệng, lấy lưỡi đảo đi
đảo lại. Song cũng lại phải ăn cho nhanh
để Pavlo thấy hết mà đưa thêm cho bát
nữa. Thằng cha Fechiukov lúc nãy đến cùng với
cặp Estôni, đã chứng kiến vụ hai bát cháo
thừa, đang đứng ngay trước mặt Pavlo.
Hắn hau háu nhìn vào hai bát cháo đó và muốn Pavlo hiểu
rằng hắn cũng phải được hưởng
xuất đó, ít nhất là một nửa.
Tuy
nhiên đội phó Pavlo trẻ tuổi, da ngăm ngăm,
vẫn ăn bình thản. Nhìn nét mặt hắn không thể
hiểu được hắn có nhìn thấy người
bên cạnh hay để ý tới hai bát cháo thừa kia không.
Sukhov
ăn gần hết bát cháo. Không biết có phải vì cái
dạ dầy được chuẩn bị trước
cho hai bát cháo hay không, mà ăn xong một bát anh vẫn
chưa thấy no như mọi khi được ăn
cháo mạch. Anh luồn tay vào túi áo, lấy nửa miếng
cùi bánh tròn không bị lạnh cứng bọc trong tấm
rẻ trắng, vét cho sạch những hạt mạch còn
dính trong lòng bát và chung quanh thành bát, vun vào một chỗ.
Được một miếng kha khá, anh lấy
lưỡi liếm thật sạch, rồi lại vét
lại lần lữa. Khi ăn xong, cái bát của anh
sạch như đã được rửa, chỉ có
điều mờ mờ, chứ không bóng lên như thế.
Anh quài tay qua vai đưa chiếc bát cho mấy tên rửa
bát, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, mũ cắp nách.
Tuy
Sukhov là người chớp được hai bát cháo, song
Pavlo là người có quyền chia.
Pavlo
bắt anh đợi thêm chút nữa cho tới khi hắn
ăn xong. Hắn không liếm bát, mà chỉ lấy thìa vét
sạch cháo, sau đó cất thìa và làm dấu thánh. Khi đó
hắn khẽ chạm vào hai trong bốn bát cháo - bàn nhiều
bát quá, không thể đẩy chúng được, - ra
điều cho Sukhov đó là hai bát cháo của anh.
-
Ivan Denisevich, anh lấy một bát, còn một bát đem
đến cho Sezar.
Sukhov
nhớ ra là phải mang một bát cho Sezar ở trên văn
phòng (Sezar chẳng bao giờ hạ mình ngồi ăn ở
nhà ăn, cả ở đây lẫn ở trại), -
nhớ ra, song khi Pavlo chạm tay vào hai bát cháo, tim anh như
ngừng đập: liệu Pavlo có cho mình cả hai bát
không? Khi biết chỉ được một, tim anh
đập bình thường trở lại.
Và
bây giờ khi anh cúi xuống cái của kiếm
được hợp pháp đó và bắt đầu ăn
một cách có lí trí, thì anh chẳng còn cảm thấy
những cú huých vào lưng của những người
mới tới. Anh chỉ khó chịu không biết Pavlo có cho
Fechiukov bát cháo thứ hai không. Fechiukov hơn người
về tài bòn mót, nhưng không đủ gan tăm tia.
Ông
trung tá hải quân Buinovski ngồi gần đó. Ông đã
ăn xong từ lâu và không biết trong đội có cháo
thừa, cũng không đếm xem có bao nhiêu bát còn lại
ở chỗ đội phó. Đơn giản là ông đang
thư giãn, đang ngồi sưởi ấm và không
đủ sức đứng dậy đi ra ngoài trời
rét buốt, hay trở lại chỗ nhà máy điện
chẳng có lấy chút hơi ấm nào cả. Lúc này ông
cũng đang chiếm chỗ của những
người mới đến, giống như những
người mà năm phút trước ông đuổi
quầy quậy bằng cái giọng chói tai của mình. Ông
vừa mới vào trại và cũng vừa mới làm
việc chung với mọi người, cho nên chính
những giây phút này thực sự là những giây phút quan
trọng đối với ông (mặc dù ông không biết
điều đó) - những giây phút biến ông từ
một sỹ quan hải quân to mồm, hách dịch, thành
một tù nhân chậm chạp, thận trọng. Chỉ có
thế ông mới có thể qua được hai
mươi nhăm năm trong trại.
...
Người ta la hét, chửi bới ông, thúc vào lưng ông
đòi chỗ.
Pavlo
nói:
-
Trung tá! Trung tá!
Buinovski
giật bắn mình, như bị đánh thức và quay
lại.
Pavlo
đưa bát cháo cho ông, không hỏi xem ông có muốn ăn
hay không.
Cặp
lông mày của Buinovski dựng ngược lên, hai mắt
nhìn vào bát cháo như thể nhìn vào một vật lạ
chưa từng thấy bao giờ.
-
Cầm lấy, cầm lấy, - Pavlo nói cho ông yên tâm,
rồi cầm lấy bát cháo cuối cùng cho đội
trưởng, đứng dậy, bước ra ngoài.
Nụ
cười ngượng ngập nở trên đôi môi
nứt nẻ của viên trung tá, người đã từng
bôn ba bốn biển, vòng quanh châu Âu và vùng cực Bắc
mênh mông. Ông sung sướng cúi xuống bát cháo mạch
đong vơi, loãng hoét, không một chút mỡ, chỉ có
hạt mạch và nước.
...
Fechiukov hậm hực nhìn Sukhov và trung tá rồi bỏ
đi.
Theo
Sukhov thì việc Pavlo cho ông trung tá bát cháo là đúng. Rồi
sẽ đến lúc ông ta tự học được cách
xoay xở, chứ như bây giờ ông còn ngu ngơ lắm.
Sukhov còn có thêm một niềm hi vọng mỏng manh nữa:
Sezar có thể sẽ cho anh bát cháo của hắn chăng?
Sau
khi ăn xong xuất thứ hai, Sukhov lại lấy cùi bánh
vét sạch lòng bát, vừa lau vừa liếm miếng bánh,
cuối cùng thì anh ăn hết miếng bánh đó. Xong xuôi
anh mới bưng bát cháo đã nguội của Sezar và
đứng dậy đi ra ngoài.
-
Mang lên văn phòng! - anh ẩy tên phạm canh bát đĩa
ở cạnh cửa định không cho anh ra.
Văn
phòng là một cái nhà gỗ thô mộc cạnh trạm gác.
Vẫn như lúc sáng, khói cuồn cuộn tuồn từ
trong ống khói ngôi nhà ra. Bếp lò lúc nào cũng
được một tên cần vụ kiêm tuỳ phái trông
nom. Hắn được trả lương khoán
để làm những việc này. Đối với văn
phòng người ta không tiếc củi.
Sukhov
kẹt mở cửa ngoài, rồi đến một
cửa nữa được nhồi kín chặt bằng
những sợi đay. Anh bước lẹ vào mang theo
một đám hơi nước băng giá, vội vàng
sập cửa lại (kẻo lại bị la tướng
lên: “Ê, đồ ngu, đóng cửa lại!”).
Anh
thấy trong phòng nóng như nhà tắm hơi vậy. Qua
lớp băng chảy trên mặt kính cửa sổ,
mặt trời vui vẻ đùa nghịch, không giận
dữ như ở phía trên nhà máy điện. Và khói từ
trong chiếc tẩu của Sezar nhả ra cuồn cuộn
như hương trầm trong nhà thờ. Còn lò thì cháy
đỏ rực, các ngài ở đây xài củi khiếp
thật. Đến cả ống dẫn khói cũng
đỏ rực.
Nóng
như thế này ngồi xuống một tí là ngủ ngay.
Văn
phòng chia làm hai căn. Cửa phòng của ông giám công hé
mở, tiếng ông oang oang vọng ra:
-
Ta đã chi quá mức cho quỹ tiền lương và cho
vật liệu xây dựng. Có những tấm gỗ
rất quý, đây tôi còn chưa nói đến những
bộ ván, tù nhân đem bổ ra chặt làm củi
sưởi, thế mà các anh chẳng biết gì cả.
Mấy ngày hôm nay trời gió to như vậy mà tù nhân
bốc dỡ xi măng ở cạnh kho, lại còn lấy
cáng mà khiêng xi măng đi đến cả chục mét.
Xung quanh kho đâu cũng thấy xi măng ngập
đến mắt cá chân, lúc ra về áo tù không phải màu
đen nữa, mà là màu xám. Mất mát bao nhiêu các anh có biết
không hả?
Chắc
trưởng giám công đang họp với mấy tay
quản công ở trong phòng.
Ở
góc cửa ra vào, một tay cần vụ đang ngủ
gật trên chiếc ghế dài. Cạnh hắn là
Skuropachenko, B-219, cao như cây sào và cây sào này đang uốn
cong bên cửa sổ nhìn chăm chú ra ngoài xem có ai có tha lôi gì
ở nhà kho vật liệu ra không. Thế mà bọn này
vừa nẫng được một cuộn giấy
dầu ở đó đấy anh giai ạ.
Hai người kế toán - cũng là phạm,
đang nướng bánh mì trên lò. Họ lấy giây thép
đan thành cái vỉ để nướng bánh cho khỏi
cháy.
Sezar
đang ngồi ngả ngốn trên ghế, miệng hút
thuốc. Anh ta ngồi quay lưng lại nên không trông
thấy Sukhov.
Ngồi
đối diện với anh ta là X-123, một lão già hom hem
- tù nhân khổ sai mười hai năm. Lão đang ăn
cháo.
-
Không, bố già ơi, - Sezar cố nói giọng nhẹ nhàng,
- khách quan mà nói Eizenstein là một thiên tài. Phim “Ivan Hung
đế” chẳng lẽ không phải một tác phẩm
thiên tài? Cảnh các lính thị vệ đeo mặt nạ
nhảy múa, rồi cảnh trong nhà thờ nữa!
-
Uốn éo làm bộ làm tịch! - Đưa thìa lên ngang
miệng, X- 123 giận dữ nói. - Có quá nhiều nghệ
thuật để cuối cùng chẳng có nghệ thuật
gì cả. Cứ như ớt và hạt hướng
dương thay cho bánh mì vậy! Lại còn cái tư
tưởng chính trị của nó mới đê tiện làm
sao chứ - bênh vực cho ách thống trị chuyên chế
của một cá nhân. Một sự phỉ nhổ kí ức
của cả ba thế hệ trí thức Nga (cháo mà ăn
vào cái miệng chẳng phân biệt được ngon hay
không của lão già, có phí không cơ chứ)
-
Nhưng còn biết thể hiện đề tài như
thế nào để người ta thông qua đây?...
-
Ôi chao, thông qua?! Thế thì đừng có nói là thiên tài! Hãy nói
đó là thằng bợ đít, thực hiện đơn
đặt hàng chó má. Một thiên tài đâu có cái kiểu
thể hiện đề tài của mình theo ý thích của
quân bạo chúa!
-
E hèm, e hèm, - Sukhov dặng hắng. Anh ngại không muốn
phá ngang cuộc đàm thoại học thức cao siêu này.
Nhưng chả lẽ cứ đứng ở đó mãi.
Sezar
quay lại, giơ tay đón lấy bát cháo, cũng chẳng
nhìn Sukhov, cứ như thể bát cháo tự nó bay
đến, vẫn nói, khăng khăng bảo vệ ý
kiến của mình:
-
Nhưng ông hãy nghe đây, nghệ thuật không phải nói
cái gì, mà nói bằng cách nào.
Chớp
được ý, X-123 đập tay xuống bàn:
-
Không! Quỷ tha cái “như thế nào” của cậu đi,
nếu như nó không gợi lên trong tôi những tình cảm
tốt đẹp!
Sau
khi đưa bát cháo, Sukhov nán lại một chút theo đúng
phép lịch sự đòi hỏi. Anh chờ xem Sezar có
thết mình một điếu thuốc hay không, nhưng
hắn đã quên hẳn sự có mặt của anh.
Thế
là Sukhov đành quay lưng, lặng lẽ bước ra.
Bên
ngoài không đến nỗi tệ lắm. Không lạnh quá.
Hôm nay mà xây tường thì nhất rồi.
Sukhov
bước trên con đường nhỏ và nhìn thấy
một mảnh sắt nhỏ nằm lăn lóc trên
tuyết. Miếng sắt gẫy ra từ một con dao nào
đấy. Hiện tại anh không biết dùng nó vào
việc gì, song biết đâu nay mai lại chẳng có lúc
dùng đến. Anh nhặt miếng sắt lên, đút vào túi
quần. Anh sẽ giấu nó vào một chỗ trong nhà máy
điện. Năng nhặt, chặt bị.
Khi
tới nhà máy điện, việc đầu tiên Sukhov
đi lấy cái bay ở chỗ cất giấu và giắt
nó vào giây thừng buộc bụng. Rồi anh khom
người chui vào chỗ trộn vữa.
Vừa
ở ngoài nắng vào Sukhov thấy ở đây tối
hẳn và chẳng ấm gì hơn bên ngoài. Mà còn có vẻ
ẩm hơn thì phải.
Tất
cả các anh em trong đội xúm xít xung quanh cái lò tròn mà
Sukhov đặt cạnh cái lò sấy cát đang bốc
hơi nghi ngút. Ai không kiếm được chỗ
cạnh lò thì ngồi lên thành cái thùng trộn vữa.
Đội trưởng đang vét nốt bát cháo. Cháo
được Pavlo hâm nóng trên lò sưởi.
Mọi
người đang thì thào chuyện trò. Họ tươi
tỉnh hẳn lên. Họ cho Sukhov biết đội
trưởng đã khoá được phần trăm
định mức tốt, hắn ở văn phòng về
vui vẻ lắm.
Việc
phịa ra thành tích của đội là công việc của
hắn - một đội trưởng có đầu óc.
Nhưng cả sáng nay đội anh đã làm
được những gì? Đốt lò và làm chỗ trú là
làm cho bản thân, chứ đâu phải là công việc
sản xuất. Nhưng trong phiếu công tác cũng
phải ghi đã làm được những việc gì
đó vào. Trong chuyện này, có thể Sezar cũng có nhúng tay
- đội trưởng vì nể hắn, hẳn là
phải có lí do.
Khoá
được phần trăm định mức tốt,
có nghĩa đội anh sẽ nhận được
những khẩu phần hời hơn trong năm ngày
tới. Năm ngày, cũng có thể chỉ bốn ngày: các
ông trên bớt xén của đội anh một ngày, nhưng
đến khi nghỉ “bảo dưỡng” thì toàn trại
như nhau tuốt, đội làm việc tốt, cũng
như đội làm việc dở. Có vẻ như không làm
mếch lòng ai, tất cả đều bình đẳng,
nhưng kì thực người ta đã trấn của
phạm những thứ đáng ra họ được
nhét vào bụng. Thì có làm sao, bụng tù thì thế nào mà
chả chịu được. Hôm nay gắng chịu, mai
mốt rồi sẽ được ăn thoải mái.
Mơ ước này anh em mang vào cả giấc ngủ trong
những ngày nghỉ “bảo dưỡng”.
Nhưng
nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy ấm ức:
làm năm ngày, mà chỉ được ăn có bốn.
Cả
đội yên lặng. Ai có thuốc thì lặng lẽ
giở ra hút. Họ ngồi quây quần trong bóng tối và
ngắm nhìn ngọn lửa. Giống như một gia
đình. Mà đội của Sukhov đúng là một gia
đình. Tất cả lắng nghe đội trưởng
kể chuyện cho hai ba người ngồi cạnh lò
sưởi. Hắn rất kiệm lời, bởi vậy
khi nào hắn thao thao, có nghĩa lòng hắn đang vui.
Hắn,
Andrei Prokofich, tới giờ cũng vẫn không học
được cách đội mũ trong lúc ăn. Không
đội mũ trông hắn già hẳn. Đầu hắn
trọc như tất cả mọi người, ánh
lửa hắt ra từ lò sưởi soi rõ vô số
những sợi bạc lẫn trong đám tóc đã ngả
sang màu xám.
-
... Đứng trước tiểu đoàn trưởng
mình đã run bỏ mẹ, đằng này lại là trung
đoàn trưởng! “Chiến sỹ hồng quân Turin
đã có mặt theo lệnh của thủ trưởng...”,
mình báo cáo. Ông ta ngó mình trừng trừng, lông mày dữ phát
khiếp. “Tên là gì, họ là gì?”. Mình nói. “Năm sinh?”. Mình nói
tiếp. Khi ấy, năm ba mươi, mình mới hăm
hai tuổi, một thằng oắt con. “Phục vụ
thế nào, Turin? - “Phục vụ nhân dân lao động!”.
Ông ta bỗng nổi sung lên, đập tay đánh bốp
xuống bàn. “Phục vụ nhân dân lao động, mày là
thằng nào hở quân lưu manh?!”. Mình đã sôi tiết
lắm rồi, song vẫn cố nhịn: “Xạ thủ
đại liên hạng nhất. Điểm cao nhất
về quân sự và chính trị...” - “Hạng nhất cái gì
hở đồ khốn nạn? Bố mày là culac! Đây
này, có giấy từ Kameni gửi đến đây này!
Bố mày là culac, còn mày thì bỏ trốn. Người ta
truy nã mày hai năm nay”. Mặt mình tái dại, miệng câm
như hến. Ròng rã một năm mình đâu dám biên thư
về nhà, sợ để lộ tông tích. Chẳng biết
người nhà còn sống hay đã chết. Họ cũng
chẳng biết gì về mình. Lão trung đoàn trưởng
lại gầm lên, cả bốn gạch trên cầu vai áo
cùng rung lên: “Mày có lương tâm không đấy, hả
thằng khốn? Dám lừa cả chính quyền Công - Nông?”.
Lúc ấy cứ tưởng lão sẽ nện cho mình
một trận. Nhưng lão không đánh. Lão kí lệnh trong
vòng sáu tiếng đồng hồ tống mình ra khỏi
cổng doanh trại. Lúc đó là tháng mười một.
Chúng lột hết quân phục mùa đông của mình,
chỉ để lại quân phục mùa hè, một đôi
tất cũ nát và một chiếc áo khoác cũn cỡn. Lúc
ấy mình ngu, chứ không nộp chúng cũng chẳng làm gì
được mình. Và thế là chúng ấn cho mình một
cái giấy giải ngũ khốn nạn thế này:
“Bị sa thải khỏi quân ngũ vì là con phú nông”. Với
cái giấy chứng nhận như thế có mà đi xin
việc! Đi về nhà phải mất bốn ngày trên
tầu hoả, chúng chẳng cho lấy một tấm vé,
một ngày ăn đường, chỉ cho một bữa
cuối cùng rồi a lê hấp, cuốn gói khỏi trại
lính.
...
Ấy thế mà hồi ba mươi tám mình lại gặp
lại ông trung đoàn trưởng ở trại chuyển
vận Kotlas, cũng bị mười năm tù. Qua trung
đoàn trưởng mình mới biết tiểu đoàn
trưởng và chính trị viên trung đoàn, cả hai
đều đã bị xử bắn năm ba mươi
bẩy. Vô sản hay phú nông, có lương tâm hay không có
lương tâm, lúc ấy, nào có khác gì nhau... mình làm dấu
thánh, nói: “Dù sao vẫn có Chúa trên trời, đấng sáng
tạo muôn loài. Người chịu đựng biết bao
đau khổ, nhưng khi người trừng phạt
cũng rất đau”.
Ăn
xong hai bát cháo, Sukhov thèm thuốc chết được. Anh
nghĩ bụng phải vay tạm của ai đó, khi nào
mua của thằng cha người Litva ở trại
bẩy hai ca thuốc sợi, lúc đó sẽ trả sau. Anh
khẽ nói thầm vào tai gã Estoni - thuyền chài:
-
Nghe này, Eino, cho tớ vay một điếu, sáng mai sẽ
trả. Tớ không qụyt đâu mà sợ.
Eino
nhìn thẳng vào mắt Sukhov, rồi nhìn sang anh bạn
đồng hương lúc nào cũng kè kè như hình với
bóng. Hai tên này cái gì cũng chung, kể cả một sợi
thuốc. Chúng nói nhỏ gì với nhau, và Einô rút cái bao
đựng thuốc có giây buộc màu hồng. Hắn véo
một nhúm thuốc lá sợi nhà máy, rồi bỏ vào lòng
bàn tay Sukhov. Hắn nhìn nhúm thuốc, rồi rút thêm vài
sợi nữa. Chỉ vừa đủ vấn một
điếu thuốc, không hơn.
Sukhov
có ít giấy báo. Anh xé ra một miếng, quấn
điếu thuốc, rồi mồi bằng mẩu than
hồng rơi giữa hai chân đội trưởng, - và
rít một hơi dài! Một hơi thật dài! Toàn thân
ngất ngây, thậm chí có cảm giác như say từ
đỉnh đầu tới gót chân.
Chỉ
vừa mới rít được vài hơi Sukhov đã
thấy đôi mắt xanh lè nhìn mình xuyên xuốt gian
trộn bê tông: Fechiukov. Kể cũng thương hại
hắn, hay cho cái thằng mót rác này mẩu thuốc
thừa, nhưng hôm nay anh đã nhìn thấy hắn liếm
bát. Tốt nhất là để dành cho Senka Klevsin. Anh ta
chẳng nghe thấy đội trưởng kể
chuyện gì, ngồi ủ rũ trước lò
sưởi, đầu ngoẹo sang một bên.
Lửa
từ lò sưởi hắt ra soi sáng cái mặt rỗ
của đội trưởng. Hắn kể về
hắn một cách không thương tiếc, như thể
kể về ai đó:
-
Lúc ấy mình bán tất đồ đạc cho một gã
buôn ở Barakhol với giá chỉ bằng một phần tư.
Sau đó mua ở chợ đen được hai ổ
bánh mì. Dạo đó đã có tem phiếu rồi. Mình tính
nhẩy tầu hàng về nhà, nhưng luật mới
đề ra rất nghiêm: bắn bỏ tất cả
những ai nhẩy tầu hàng... Còn vé, ai chẳng nhớ,
hồi ấy đến có tiền cũng không mua
được, huống hồ không có. Trên quảng
trường cạnh ga đầy những mũ đàn
ông, rất nhiều người đã chết đói vì
không đi khỏi đấy được. Còn vé là để
giành cho các sếp, người có giấy công tác, cho quân
đội. Muốn vào trong sân ga cũng khó: ở các
cửa ra vào đều có dân quân, hai bên đường xe
lửa đều có lính gác đi lại. Trời đã
về chiều, mấy vũng nước đóng băng
cả lại, - đêm nay ngủ ở đâu bây giờ?
Mình bèn leo lên một bức tường đá nhẵn thín,
ôm hai ổ bánh mì nhẩy đại vào bên trong rồi
chạy vào nhà vệ sinh ở sân ga. Mình đứng ở
đó một lúc, không có ai đuổi ra. Rồi mình đi
ra như một hành khách, mặc đồ lính đàng hoàng.
Mà tầu Vladivostok - Moscva lại đỗ ngay trên
đường ray mới may chứ. Hành khách thì đang
chen nhau lấy nước sôi, còn cầm cả ấm mà
phạng vào mặt nhau. Có một em mặc áo xanh loanh quanh
ở đấy, tay cầm cái ấm hai lít, không dám chen vào,
sợ bị bỏng hay bị người ta dẵm lên
đôi chân nhỏ xíu của mình. Mình bèn đưa hai ổ
bánh cho cô nàng giữ hộ, bảo: “Này, cầm lấy cái
này, để tôi lấy hộ cho”. Khi mình vừa lấy
xong nước, thì đoàn tầu bắt đầu
chuyển bánh. Cô nàng khóc thút thít, hai tay vẫn ôm hai ổ
bánh của mình, không biết nên giữ hay nên quẳng đi
- ngay đến cái ấm cô nàng cũng chẳng cần.
“Chạy đi, mình gào lên, chạy đi, tôi sẽ
đuổi theo”. Cô nàng chạy đằng trước,
mình chạy đằng sau. Mình bắt kịp nàng, một
tay đẩy nàng lên tầu. Tầu bắt đầu
chạy, mình nhẩy lên theo. Người kiểm soát không
đánh mình, cũng không đẩy xuống: trong toa có
nhiều lính và hắn tưởng mình cũng ở trong
đám này.
Sukhov
lấy cùi chỏ huých vào mạng sườn Senka: này
cầm lấy mà hút, ông thợ săn tồi. Anh đưa
cho hắn cả cái tẩu thuốc, kệ, cho hắn mút,
chẳng sao. Senka là một tay kì quái, hắn làm điệu
bộ giống như nghệ sĩ, một tay ép vào tim,
đầu cúi xuống. Ôi dào, cái nhà ông điếc này!...
Đội
trưởng vẫn kể:
-
Họ là sáu cô gái, những sinh viên ở Leningrad đi
thực tập, ở cùng một cúp-pê khép kín. Trên chiếc
bàn nhỏ bày nào bánh, nào bơ và các thức linh tinh khác. Áo
khoác đung đưa trên mắc áo, những chiếc va li
nhỏ được bọc vải. Họ đâu có
biết cuộc đời thật là gì, mọi thứ
đều đã bầy sẵn dưới chân...
Cả
bọn làm quen, tán dóc, pha trò, uống trà cùng nhau. Rồi
họ hỏi tớ ở toa nào vậy? Mình thở dài và
thú nhận tất cả: tôi ở cái toa mà, các cô gái ơi,
các cô thì sống, còn tôi thì chết.
Trong
nhà im phăng phắc. Lò sưởi đỏ rực.
-
Sau một hồi “ô, a”, các cô gái bàn nhau... họ giấu
mình trên giường tầng ba, lấy áo khoác ngoài phủ
lên, khi những người kiểm soát đi tới.
Vấn đề không phải là vé, mà là mạng
người. Các cô gái giấu mình tới tận Novosibir... à
mà sau này mình đã có dịp trả ơn cho một trong
những cô gái đó ở nhà tù Petchora: năm ba mươi
nhăm cô ấy dính vào vụ Kirov*, phải làm
việc khổ sai, mình thu xếp cho cô ấy một
chỗ ở xưởng may.
-
Cho trộn vữa chứ? - Pavlo hỏi thầm đội
trưởng.
Nhưng
đội trưởng không nghe thấy.
Mình
về đến nhà vào đêm khuya. Lần vào theo lối
vườn rau. Bố thì bị giải đi rồi,
mẹ và các em thì đợi bị giải đi. Đã có
điện gửi về địa phương, chính
quyền xã đang lùng bắt mình. Cả nhà run như
giẽ, phải tắt điện và ngồi trên sàn, nép sát
vào tường, sợ những phần tử tích cực
đi tuần trong thôn nhòm qua cửa sổ. Ngay đêm hôm
đó mình mang theo thằng em chuồn xuống miền Nam
ấm áp, tới Frunze. Mình chẳng kiếm được
gì cho nó và cho mình ăn. Ở Frunze người ta đang
nấu nhựa đường trong một cái chảo
lớn, bọn trẻ con bụi đời vây xung quanh.
Mình tới cạnh chúng, nói: “Nghe đây, các ngài quần
thủng! Hãy nhận giúp thằng em tôi đây, hãy dậy
dỗ nó nên người!”. Chúng nhận thằng bé...
Tiếc là mình không nhập bọn với chúng.
-
Thế anh chẳng bao giờ gặp lại thằng em
nữa à? - Ông trung tá hỏi.
Turin
ngáp.
-
Chưa, chưa một lần gặp lại.- hắn
lại ngáp và nói: - Thôi, đừng ủ rũ thế các
cậu, ta lấy cái nhà máy điện này làm nhà vậy. Ai
được phân công trộn vữa, làm quàng lên,
đừng có đợi còi.
Đội
trong trại là thế. Trưởng trại đố có
bảo được tù rời khỏi chỗ, kể
cả trong giờ làm việc, vậy mà tổ
trưởng trong giờ nghỉ chỉ cần nói một
tiếng là tất cả đều răm rắp
đứng dậy đi làm. Với lại buộc mọi
người làm việc không phải anh ta không có lí do.
Nếu
không trộn bê tông trước khi còi huýt, thì đám thợ
xây đứng chơi à?
Sukhov
thở dài đứng dậy.
-
Thôi, tôi đi cạo băng đây.
Anh
cầm một cái rìu nhỏ và một cái bàn chải sắt
để cạo băng đóng trên gạch. Và để
xây, anh cầm một chiếc vồ, thước đo và
giây dọi.
Kildigs
mặt mũi hồng hào, nhìn theo Sukhov nhăn mặt -
việc cái gì mà chưa hô đã xung phong thế nhỉ? Là
bởi vì Kildigs không cần phải nghĩ cái ăn của
đội từ đâu ra: hắn ta, đồ quỷ hói,
có nhận ít hơn hai trăm gram cũng chẳng sao,
hắn còn sống bằng đồ tiếp tế.
Nhưng
Kildigs vẫn đứng dậy và leo lên tầng hai. Không
nên vì mình mà cả đội bị chậm.
-
Đợi tớ với, Vanhia, tớ đi đây! -
Hắn gọi với theo.
Rõ
đồ mặt mâm, giá mà làm cho hắn thì hắn đã
chả chạy vội (Còn một lí do nữa khiến
Sukhov đứng vội lên, anh muốn chiếm cái giây
dọi trước Kildigs. Cái giây dọi này họ nhận
được từ kho công cụ).
Pavlo
hỏi đội trưởng:
-
Có ba người xây tường à? Có nên cho thêm một
người nữa không? Hay vữa trộn không kịp?
Đội
trưởng chau mày nghĩ ngợi.
-
Người thứ tư sẽ là tớ, Pavlo. Cậu nói
cái gì? Trộn kịp vữa hay không á?! Cái thùng trộn to
đùng thế kia, cắt sáu người trộn vữa.
Làm như thế này này: lấy vữa đã trộn ở
đầu này, còn đầu kia vẫn tiếp tục
trộn vữa mới, làm thế nào để tớ không
được nghỉ lấy một phút thì làm!
-
Ê! - Pavlo bật dậy, hắn còn trẻ, máu còn nóng,
đời sống trong trại chưa vò nhàu
được hắn. Đôi má hắn vẫn còn phinh phính
vì từng tọng lắm bánh trôi Ucraina. - Anh xây gạch, tôi
trộn vữa, xem ai làm nhanh hơn ai! Cái xẻng to
nhất ở đây biến đâu mất rồi?
Đấy,
đội trong trại là thế đấy! Đối
với anh chàng Pavlo đã từng vác súng vào rừng, đôi
khi còn tập kích các làng nữa, thì việc gì hắn
phải làm sụm lưng ở đây nhỉ. Nhưng
với đội trưởng - đó lại là chuyện
khác!
Sukhov
cùng Kildigs leo lên tầng hai. Họ nghe thấy tiếng khò
khè của Senka ở sau lưng. Ông bạn điếc
chừng cũng hiểu là đã tới lúc làm việc.
Ở
tầng hai tường nhà mới bắt đầu
được xây: phần lớn mới chỉ xây
được ba hàng gạch, đôi chỗ cao hơn
một chút. Đây là phần việc nhẹ nhất - xây
từ đầu gối đến ngực, không cần
dàn giáo. Mấy cái dàn giáo không biết bị chở đi
đâu - chở sang khu xây dựng khác, hay phạm đã
đốt mất rồi - chỉ là để các
đội khác không mó tới được. Bây giờ,
nếu muốn làm cho ra làm, thì sáng mai phải đóng dàn giáo
mới, không thì chịu chết.
Trên
tầng hai cái nhà máy điện không mái này, có thể nhìn
rất xa: cả một khu công trường mênh mông
tuyết phủ trắng xoá trông như sa mạc (các
phạm đã tìm chỗ sưởi ấm trước lúc
còi rúc), các tháp canh đen ngòm và những hàng cột căng
giây thép gai. Nếu nhìn theo hướng nắng, những gai
thép rõ mồn một, nhưng nhìn ngược hướng
nắng, sẽ chẳng thấy gì. Mặt trời chói loà
khiến mắt không mở ra được.
Không
xa lắm là một toa xe đặt máy phát điện
chạy bằng hơi nước. Nó nhả khói mù mịt,
che lấp cả một vùng trời. Nó thở dốc. Bao
giờ trước khi rúc lên, nó cũng khò khè như
người bị bệnh. Đấy, nó đang rúc lên
đấy.
-
Ê, lao động tiền tiến *! Căng nhanh cái
dọi lên! - Kildigs thúc Sukhov.
-
Cậu nhìn xem gạch chỗ cậu có bao nhiêu băng bám
vào kìa, chắc đến tối mới cạo xong? Vác bay
lên đây cũng bằng thừa, - Sukhov chọc lại
hắn.
Hai
người định xây bức tường mà hồi
sáng họ đã chọn, nhưng đội trưởng
ở dưới gọi vọng lên:
-
Này, mấy tướng, hai cậu xây chung một bức
tường đi, để vữa khỏi bị đóng
cứng lại. Sukhov lấy Senka phụ vữa, còn Kildigs
thì để tớ phụ cho. Nhưng trước đó
Gopchik thay tớ cạo băng chỗ tường của
Kildigs đã.
Sukhov
và Kildigs liếc nhau. Ừ, phải đấy. Làm như
vậy sẽ dễ hơn. Họ cầm lấy rìu.
Và
Sukhov không còn nhìn thấy cái hồ phía xa, nơi ánh nắng
chói loà trên tuyết, không nhìn thấy đám tù nhân tản ra
khỏi những nơi sưởi ấm, kẻ thì đào
nốt những cái hố đang đào dở buổi sáng,
người thì đi dựng các đòn tay trên mái công
xưởng. Bây giờ anh chỉ thấy bức
tường đằng trước mặt - từ góc trái
tường xây thành các bậc cao ngang thắt lưng, và
đến tận góc bên phải, nơi nối với
tường của Kildigs. Anh chỉ cho Senka chỗ phải
băm, chặt lớp băng bám vào gạch, bản thân
cũng hùng hục chặt cả bằng đầu rìu
lẫn lưỡi rìu, khiến những mảnh băng
văng tung toé, bắn cả vào mặt. Anh làm phăng
phăng, song đầu óc anh không để vào công việc
này. Toàn bộ ý nghĩ của anh dồn vào bức
tường mà anh đang xăm soi trước mặt
dưới lớp băng bám vào - bức tường ngoài
của nhà máy điện dầy hai lớp gạch. Anh không
biết trước đây ai đã xây bức tường
chỗ anh đang làm, song tên thợ nề này hoặc là
kẻ không thạo việc, hoặc là kẻ ẩu tả.
Sukhov quen dần với bức tường như chính
tường nhà anh. Kia có một hòn gạch bị tụt
hẳn vào bên trong, để làm phẳng bức
tường xây, xây lại một hàng không được, anh
phải xây lại đến ba hàng, và cũng phải trát
vữa dầy hơn. Còn chỗ này tường xây bị
lồi hẳn ra - lại phải làm phẳng bằng cách
xây lại hai hàng. Và anh chia bức tường bằng
mắt - phần anh sẽ xây từ chỗ góc trái, phần
Senka đảm nhiệm, hắn sẽ xây tiếp
đến chỗ Kildigs. Anh đoán là ở đầu
đằng kia Kildigs, theo quán tính, sẽ không ngừng tay,
xây lấn sang phần của Senka, và như vậy ông
điếc này sẽ rảnh tay hơn. Trong khi họ loay
hoay bận bịu ở góc đó thì anh sẽ xây lên quá
nửa bức tường để họ khỏi bị
tụt lại đằng sau. Đồng thời anh tính
xem cần bao nhiêu gạch để xây. Và khi những
người khênh gạch vừa mới leo lên tầng hai,
anh tóm vội lấy Aliosa:
-
Mang đến đây cho tôi! Đây, đổ xuống
chỗ này, cả chỗ này nữa.
Senka
băm nốt chỗ băng bám cuối cùng, lập tức
Sukhov lấy chiếc chổi sắt, dùng cả hai tay
cạo khắp nơi, cho tới khi lớp gạch ngoài
hiện lên màu xám nhạt giống như màu tuyết
bẩn, tuy không thật sạch, song vữa có thể bám
tốt, nhất là ở các khe, rãnh. Trong khi Sukhov hì hục
chải chải, cạo cạo, thì đội
trưởng cũng đã leo lên tới nơi, dựng
chiếc thước vào góc. Thước của Sukhov và
Kildigs đã dựng ở đó từ lúc nãy.
-
Ê! - Pavlo hét vọng lên, - trên đó có ai còn sống không?
Nhận vữa đi!
Sukhov
phát hoảng: giây dọi chưa căng được
vữa thì sắp ùn ùn kéo tới. Anh quyết định:
giây dọi căng không cho từng hàng một, mà cho luôn ba
hàng, để dự phòng. Và để Senka đỡ
vất vả, anh giành xây phần tường mé ngoài, cho
hắn xây một ít bên trong.
Trong
lúc căng dọi, anh giải thích cho Senka cả bằng
lời lẫn bằng cử chỉ chỗ tường
hắn sẽ xây. Gã điếc đã thủng. Hắn
cắn môi, liếc mắt, đầu hất về phía
tường của đội trưởng, ra
điều: ta cho chúng biết tay? Không chịu thua chứ?
Rồi hắn toét miệng cười.
Vữa
đã được chuyển lên thang. Bốn cặp khiêng
bằng cáng gỗ. Và đội trưởng quyết
định, để không bị đông nhanh, vữa
sẽ để nguyên trong máng, thợ xây sẽ lấy
vữa trực tiếp từ máng để xây. Còn
những người khiêng vữa, để không bị
chết cóng trên cao, sẽ chuyển gạch cho mấy
người xây. Khi nào hết vữa thì ngay lập tức,
không để phí thời gian, cặp khác lại khênh lên,
còn cặp kia xuống dưới nhà. Ở đó, cạnh
lò họ gỡ chỗ vữa đã đông bám chặt vào
máng, còn mình thì tranh thủ sưởi lấy một chút.
Họ
khênh liền một lúc hai máng vữa cho Sukhov, hai máng cho
Kildigs. Vữa bốc hơi nghi ngút, song nó cũng chẳng
cho được một chút hơi ấm nào trong cái
lạnh ghê người này. Lúc ném vữa lên tường
phải lấy bay miết cho thật nhanh kẻo nó đông
lại ngay. Nếu mà để cho nó đông lại, thì lúc
đó có mà lấy bay hay vồ nậy cũng chẳng
được. Và nếu đặt trật một viên
gạch, thì vữa đông lại bám chịt lấy
chỗ đó. Lúc ấy chỉ có cách lấy cuốc chim mà
nậy ra, hay lấy rìu mà chặt cho vữa rụng ra.
Nhưng
Sukhov không mắc lỗi trong khi xây. Gạch thì chả viên
nào giống viên nào. Viên thì vỡ góc, viên thì sứt mép, viên
bị vữa bám vào. Sukhov ngay lập tức tia ngay
được những khuyết tật đó và tìm
được chỗ trên tường cho từng viên. Anh
lấy bay xúc ít vữa bốc hơi, rải nó xuống
hàng gạch và nhớ rãnh gạch chạy thế nào
để đặt viên sau lên chính giữa. Bao giờ anh
cũng trát vừa đủ vữa cho mỗi viên gạch.
Rồi anh nhặt một viên từ đống gạch
(sao cho găng tay khỏi bị rách, giống gạch
sứt này là sắc lắm), lấy bay san đều
lại hàng vữa và đặt gạch lên đó. Và ngay
lập tức anh lấy cạnh bay gõ gõ viên gạch sao cho
mé tường ngoài thẳng theo giây dọi, và hàng dọc
cũng như hàng ngang những viên gạch nằm đều
chằn chặn như những con xúc xắc. Và viên
gạch đóng cứng ngay tức thì.
Sau
đó, nếu vữa thừa lòi dưới viên gạch
sang hai bên, thì phải bấy bay hất nó đi tức thì
(mùa hè còn dùng cho viên gạch khác, chứ bây giờ
đừng có mà tiếc) và lại phải nhìn những rãnh
nối phía dưới, ở chỗ có những viên
gạch sứt ở đầu, phải trát vữa
dầy thêm một chút, và khi đẩy sát những viên
gạch vào nhau, y như rằng vữa bị lòi ra. Sukhov
càng làm, càng hăng tiết. Công việc đã cuốn hút
anh. Vữa đâu, cho tiếp!
Công
việc đã vào guồng. Ta đã xây được thêm
hai hàng, những chỗ lồi lõm, xiên xẹo trước
đó đã được chỉnh sửa, nhìn chung là trôi
chảy. Nhưng bây giờ lại càng phải tinh mắt
hơn!
Anh
phải nhanh tay bắt kịp Senka ở hàng gạch ngoài.
Còn Senka từ chỗ của đội trưởng
cũng đang tiến lại phía anh.
Sukhov
giục giã mấy người khênh vữa - nhẩu lên,
mấy bố, mang vữa tới ngay cho con nhờ! - Anh làm
như điên, nước mũi chảy ròng ròng cũng
chẳng kịp vắt.
Khi
anh gặp Senka thì hai người phải dùng chung một
máng vữa. Chẳng còn mấy tí.
-
Vữa! - Sukhov gào lên sau bức tường.
-
Có ngay đây! - Pavlo ở dưới cũng hét
tướng lên.
Một
máng nữa được khiêng tới nơi. Hai
người vét nốt chỗ vữa đang còn mềm, còn
vữa xung quanh máng đã đông cứng - kìa cạo ngay
đi chứ mấy bố, định khuân cả
xuống dưới hay sao. Đổ xuống đất!
Đưa máng mới vào!
Sukhov
và mấy người thợ xây khác đã không còn thấy
lạnh nữa. Công việc khẩn trương và cuốn
hút khiến cơ thể họ bắt đầu nóng lên.
Cái nóng đầu tiên làm cho mồ hồi toát ra dưới
các lớp sống áo. Song họ không nghỉ, cứ thế
tiếp tục xây lên cao mãi. Một giờ trôi qua, tiếp
đến cái nóng thứ hai - cái nóng này làm mồ hôi khô ráo.
Băng giá không bò được vào chân họ, đó là
điều chủ yếu, những cái còn lại chẳng
đáng gì, cả ngọn gió nhẹ buốt - đều
không thể làm cho họ sao nhãng việc đang làm. Chỉ
có Klevsin cứ đập chân nọ vào chân kia - hắn mang
cỡ giầy số 46, nhưng kiếm đâu ra ủng
cỡ đó cơ chứ, thành thử con nhà giời
phải đi hai chiếc ủng đã không cùng kích cỡ,
lại chật ních.
Đội
trưởng chốc chốc lại gọi tướng
lên: ‘V- ư-ã!”. Sukhov cũng : “V- ư-ã!”. Người nào
làm việc bền bỉ, năng xuất hơn, thì
người đó trở thành đội trưởng
chốc lát trong con mắt của những người bên
cạnh. Sukhov cố không để tụt hậu, giá có
thằng em ruột ở đây, anh cũng bắt nó khiêng
vữa trên cái thang làm tạm, trơn tuột kia.
Sau
bữa trưa, Buinovski cùng khiêng vữa với Fechiukov.
Nhưng thang dốc và trơn, nên trung tá lúc đầu ì
ạch lắm. Sukhov khẽ giục ông:
-
Trung tá, nhanh lên! Trung tá, cho vữa đây!
Khi
quen việc, mỗi lúc trung tá một nhanh nhẹn hơn
lên, nhưng Fechiukov thì càng lười hơn: lúc khiêng
vữa hắn làm cho cái máng nghiêng đi, cố tình làm
đổ vữa cho nhẹ bớt.
Có
lúc Sukhov phải huých vào lưng hắn:
-
Đồ chó đẻ! Khi làm giám đốc chắc mày
hành công nhân lắm thì phải?
-
Đội trưởng! - trung tá gọi toáng lên, - cho tôi làm
với người khác, tôi không khiêng với thằng
đụt này!
Đội
trưởng sắp xếp lại công việc: Fechiukov
chuyển gạch từ dưới lên bệ, và hắn
phải làm một mình để còn tiện đếm xem
hắn xếp được bao nhiêu viên, còn Aliosa - Tẩy
lễ khiêng vữa với trung tá. Aliosa là người
hiền lành, ai muốn ra lệnh với hắn cũng
được.
-
Nào thuỷ thủ, cho tàu chạy hết tốc lực! -
trung tá đe hắn. - Nhìn xem người ta xây kia kìa!
Aliosa
cười nhường nhịn:
-
Cần nhanh - sẽ có nhanh. Thế nào cũng
được.
Rồi
hai người rậm rịch xuống cầu thang.
Ở
trong đội, người hiền lành dễ bảo
như thế quả là của hiếm.
Đội
trưởng đang la hét ai đó ở phía dưới. Hình
như có một xe chở gạch nữa mới tới.
Chả bù cho nửa năm nay không có lấy một viên, bây
giờ thì ào ào chở đến. Có gạch thì mới làm
được việc. Hôm nay là ngày đầu tiên. Sau mà
bị kẹt, lại không có gạch nữa, thì lúc ấy
có mà lấy lại cái đà này được khối.
Dưới
nhà, đội trưởng vẫn tiếp tục chửi
bới. Hình như về cái máy nâng thì phải. Sukhov
muốn ngó xuống xem chuyện gì, song chẳng còn lúc nào:
phải nắn cái tường cho thẳng. Những
người khiêng vữa tới nơi, họ kể
lại có một phạm làm nghề thợ điện
tới sửa động cơ của cái máy nâng. Đi
cùng anh ta là tay quản công phụ trách về điện.
Tay này là công nhân tự do và hắn chỉ khoanh tay
đứng xem anh thợ điện sửa.
Đời
là vậy: một thằng làm, một thằng đứng
ngó.
Giá
mà họ sửa nhanh nhanh được cái máy nâng thì
đỡ biết bao, vừa chuyển nhanh được
vữa, vừa chuyển được gạch lên cho
họ.
Khi
Sukhov đang xây hàng thứ ba (Kildigs cũng bắt
đầu hàng thứ ba), thì một vị thủ
trưởng nữa leo thang để lên tầng trên.
Đó là quản công phụ trách xây dựng. Tên hắn là
Der, người Moscva, nghe đâu ngày trước từng
làm ở bộ.
Sukhov
đã đứng gần Kildigs, chỉ cho hắn thấy
Der.
-
À-à! - Kildigs phẩy tay. - Tớ chẳng dính dáng tới
thủ trưởng, nhưng nếu ông ta mà ngã cầu thang
thì hãy gọi tớ.
Chắc
lại tới đứng đằng sau nhìn đám thợ
xây làm đây mà. Sukhov khó chịu nhất là hạng chống
nạnh quan sát người khác làm. Cũng kĩ sư
cơ đấy, đồ mặt lợn! Có lần
hắn dạy anh em cách xây gạch làm cho Sukhov cười
muốn vỡ bụng. Theo như lề lối của dân
ta, phải xây cho xong một ngôi nhà bằng chính bàn tay mình,
lúc ấy hãy nói đến chuyện kĩ sư. Ở quê
anh không xây nhà gạch, chỉ có nhà gỗ ghép. Trường
học cũng được làm bằng gỗ
đẽo, người ta thuê chặt gỗ và chở
từ rừng về những cây gỗ dài sáu xa-gien*.
Ở trong trại anh phải làm thợ nề, và thế là
anh trở thành thợ nề. Ai học được hai nghề,
thì cả mười nghề cũng học
được.
Không,
Der không bị ngã, hắn chỉ vấp có một lần,
leo gần hết thang hắn chạy vọt lên.
-
Tu-r-in! - Hắn hét lên, mắt lồi ra. - Tu-rin!
Pavlo
chạy lên thang theo hắn, tay cầm chiếc xẻng.
Áo
bông của Der cũng là áo tù, nhưng còn mới và sạch
sẽ. Đầu hắn đội chiếc mũ da
tốt. Nhưng trên đó cũng có số hiệu, như
tất cả mọi người: B-737.
-
Gì đấy? Turin tay cầm bay bước ra, chiếc
mũ trên đầu lệch sang một bên, che mất
một mắt.
Xẩy
ra chuyện gì rồi đây. Nhưng không thể ngừng
tay được, vữa sẽ bị đông lại
mất. Sukhov vẫn tiếp tục xây. Vừa xây, vừa
dỏng tai nghe.
-
Mày làm gì thế hở?! - Der gầm lên sùi cả bọt
mép.- Đây không phải tội nằm nhà đá nữa, mà
là tội hình sự, Turin. Mày sẽ phải lãnh thêm hạn
tù thứ ba!
Bấy
giờ Sukhov mới thủng chuyện. Anh nhìn Kildigs và
thấy hắn cũng đã hiểu ra. Giấy dầu,
giấy dầu, nó đã nhìn thấy giấy dầu trên
cửa sổ.
Sukhov
không sợ cho bản thân, vì anh biết đội
trưởng chẳng bao giờ bán rẻ anh em. Anh lo cho
đội trưởng. Đối với anh em
đội trưởng là cha, còn đối với họ,
chẳng là cái thá gì. Chắc cũng vì những tội
tương tự như thế này mà đội
trưởng đã được “gia hạn” tù ở miền
Bắc này.
Ôi
cái mặt của đội trưởng lúc này trông
mới khiếp làm sao! hắn vứt đến toạch
cái bay xuống dưới chân, tiến một bước
về phía Der. Der ngoái nhìn lại phía sau - Pavlo đứng
đó, tay giơ cái xẻng lên.
Cái
xẻng! cái xẻng! không dưng nó mang theo cái xẻng...
Và
Senka, tuy nghễnh ngàng, song cũng đã hiểu: hai tay
chống nạnh, hắn lừng lững đi tới. Mà
hắn mới to con làm sao, thằng quỷ hói này. Der
chớp mắt lia lịa, ngó quanh tìm chỗ thoát thân.
Đội trưởng ngó sát mặt Der, nói khẽ
nhưng rõ từng từ một, đủ cho anh em
tầng trên nghe thấy:
-
Thời của chúng mày qua rồi, đồ sâu bọ! Lãnh
thêm án cơ đấy! Nếu mày chỉ cần hở
một lời, là đời mày tàn luôn, sẽ là ngày
cuối cùng của mày đấy, rõ chưa!
Đội
trưởng tức run lên bần bật. Nỗi tức
giận không thể kìm nén.
-
Từ từ thôi các cậu! - Mặt mũi tái mét, Der
đứng nhích xa cái thang.
Đội
trưởng không nói thêm một lời, cúi xuống
nhặt chiếc bay và đi về chỗ tường
của mình.
Còn
Pavlo thì xách xẻng chậm chạp đi xuống
dưới nhà.
Thật
chậm.
Phải.
Máu của ba thằng tù vẫn như đang còn
trước mắt... Ba thằng bị cắt cổ, mà
trong trại chẳng một ai hay biết.
Der
ở cũng dở mà xuống cũng dở. Hắn
đứng nấp sau lưng Kildigs. Còn Kildigs thì vẫn
cứ xây - bản mặt hắn giống như
người bán thuốc đang đếm thuốc trong
hiệu: tiếng tăm của ông bác sĩ cũng
chẳng làm cho hắn phải vội vàng. Hắn
đứng quay lưng lại Der, làm ra vẻ không thấy
hắn.
Der
rón rén lại gần đội trưởng. Bây giờ
hắn giở giọng khác:
-
Tôi phải nói thế nào với ông giám đốc đây,
Turin?
Đội
trưởng tay vẫn xây, đầu không ngoái lại.
-
Cứ nói là nó đã có ở đấy từ trước,
trước khi bọn này tới.
Der
đứng thêm một lát. Hắn hiểu mọi
người sẽ không giết hắn. Hắn khẽ
đi đi lại lại, tay đút túi.
-
Ê, S-854, - Hắn nói với Sukhov, giọng gầm gừ, -
sao vữa lại trát mỏng thế hở?
Cũng
phải xả cái tức lên đầu ai chứ. Không
bắt được lỗi Sukhov về điểm gì,
hắn bèn vặc đến chuyện vữa mỏng
vậy.
-
Bẩm, xin được báo cáo ạ, - Sukhov lào thào qua mấy
cái lỗ răng hổng, anh nói kháy Đê. - Nếu trát
dầy thì cái nhà máy điện này đến mùa xuân chỗ
nào cũng sẽ chảy nước ạ.
-
Anh là thợ, anh phải nghe theo lời quản công, - Der cau
có, hai má phồng lên, hắn có cái thói quen như vậy.
Ừ
thì trên tường cũng có chỗ dầy hơn, chỗ
mỏng hơn thật, nhưng đó là họ không bắt
xây vào mùa đông lạnh đến như thế này.
Đáng ra phải có chút tình người, đằng này lúc
nào cũng chỉ nghĩ tới công việc.
Nhưng
nói với hạng này, thà vạch đầu gối mà nói.
Der
lặng lẽ đi xuống dưới thang.
-
Ông sửa hộ cái máy nâng cho tôi! - Đội trưởng
nói với theo hắn. - Ông tưởng chúng tôi là lừa
cả hay sao mà kéo gạch lên đây bằng tay như
thế này.
-
Kéo thì hưởng thêm xuất kéo, - Der trả lời ở
dưới thang, giọng dịu hẳn.
-
Ý ông muốn nói mấy thứ vớ vẩn trả cho
việc chuyên chở bằng xe cút kít? Ông thử đẩy
một xe lên cái cầu thang đó cho tôi coi. Ông hãy trả
phần “khiêng bằng cáng” đi hãng!
-
Tôi tiếc anh làm gì. Bên kế toán người ta không
duyệt khoản “khiêng bằng cáng”.
-
Kế mới lại chả toán! Cả đội của
tôi phục vụ cho bốn người thợ xây đây
này. Vậy tôi nhận được bao nhiêu?
Đội
trưởng miệng thì kêu, nhưng hai tay vẫn xây
thoăn thoắt.
-
Vữa! - anh hét xuống phía dưới.
-
Vữa! - Sukhov cũng hô liền ngay sau đội
trưởng.
Họ
đã xong hàng thứ ba, bắt đầu xây hàng thứ
tư. Anh định căng giây dọi, song lại
tiếc thời giờ. Thôi, hàng sau xây chả cần
dọi.
Der
băng qua khoảng đất trống trở về
văn phòng của mình, người co rúm lại. Phải
về ngay để sưởi. Đứng trên cao hắn
rét run cầm cập. Lẽ ra hắn phải nghĩ
một chút trước khi đụng với loại
cứng đầu cứng cổ như Turin. Lẽ ra
hắn phải giữ quan hệ hoà hảo với mấy
cha đội trưởng như thế, bởi hắn
đâu có phải lo lắng điều gì: chẳng phải
làm lụng vất vả, lại được khẩu
phần hơn, lại còn một cái buồng riêng nữa -
còn muốn gì hơn? Chỉ thích ra vẻ ông tướng!
Mọi
người từ dưới nhà lên nói rằng cha thợ
điện cùng thằng quản công đã tếch rồi
và vẫn chưa sửa được cái động
cơ.
Nghĩa
là anh em vẫn phải tiếp tục làm công việc
của bầy lừa!
Sukhov
đã làm nhiều công việc khác nhau và bao giờ cũng thấy
cùng một chuyện: hoặc máy móc tự dưng hỏng,
hoặc do phạm phá hoại. Anh nhớ lần trong
trại đốn gỗ, phạm làm đứt giây
chuyền. Muốn nghỉ, họ bèn đút luôn cái đòn
vào máy và đè lên nó. Nhưng nào người ta có cho
nghỉ, máy hỏng, họ phải chất gỗ bằng
tay.
-
Gạch đâu! gạch đâu! - đội trưởng
gào lên như hoá dại. Hắn chửi tiên sư nhà chúng nó,
cả lò mấy thằng bê gạch, lẫn mấy
thằng khiêng vữa.
-
Pavlo hỏi trên ấy vữa ra sao, còn đủ không? -
Mấy người ở dưới quát vọng lên.
-
Trộn thêm ít nữa!
-
Dưới này còn nửa thùng!
-
Thế thì trộn thêm thùng nữa!
Bây
giờ mới thật sự máu! Họ đã xây
đến hàng gạch thứ năm! Mới đầu còn
phải gập người xuống để xây hàng
thứ nhất, bây giờ tường đã cao đến
ngực, nhìn mà xem! Gì mà chả nhanh, không cửa sổ, không
cửa ra vào, chỉ trần có hai bức tường
nối với nhau và thoải mái gạch. Đáng lí phải
căng thêm dọi, nhưng đã muộn rồi.
-
Đội 82 hai đã đi trả dụng cụ - Gopchik
thông báo.
Đội
trưởng quắc mắt lên với nó:
-
Hãng lo lấy việc của mình, thằng ôn con. Đi khuân
gạch!
Sukhov
ngoái lại nhìn. Ờ đúng thật, mặt trời
đang lặn. Bị sương mù che phủ, màu
đỏ mặt trời chuyển dần sang màu xám.
Tốt nhất không nên xây tiếp nữa. Đã bắt
đầu hàng thứ năm thì cũng nên kết thúc ở
hàng này. Còn phải chỉnh sửa nữa chứ.
Mấy
cha khiêng vữa thở phì phò như ngựa. Ông trung tá
thậm chí tái xanh tái xám. Dù sao thì ông ta cũng đã trên
dưới bốn mươi rồi.
Trời
lạnh mỗi lúc một dữ dội. Tay vẫn làm
việc mà mấy ngón tay đã tê cóng trong đôi bao tay cà
tàng. Và cái lạnh đã luồn được vào bốt
bên trái rồi. Thịch-thịch - Sukhov dậm nó xuống
sàn, thịch - thịch.
Anh
không phải cúi xuống để xây nữa, song vẫn
cứ phải cúi sụn cả lưng để nhặt
từng viên gạch và xúc từng bay vữa.
-
Các cậu ơi, các cậu ơi,- anh gọi mấy
người khiêng vữa. - Các cậu đặt giúp
gạch lên tường hộ tôi với
Ông
trung tá sẵn lòng làm việc đó, song không còn sức. Ông
chưa quen với loại công việc này. Aliosa đồng
ý:
-
Được rồi, Ivan Denisovich, đặt ở
đâu, chỉ cho tôi.
Aliosa
không biết từ chối bất cứ lời yêu cầu
giúp đỡ nào. Giá mọi người trên đời này
đều như thế nhỉ, và cả Sukhov nữa,
cũng như thế. Nếu có ai cầu xin giúp đỡ,
tại sao lại không giúp anh ta? Mấy anh chàng Tẩy
lễ này nói cũng phải.
Khắp
công trường, cho tới tận nhà máy điện,
tiếng còi báo nghỉ vọng tới rõ mồn một.
Trộn nhiều vữa mất rồi. Đấy, cố
lắm vào!...
-
Chuyển vữa lên đây, chuyển nhanh lên! - Đội
trưởng la lên.
Ở
dưới lại vừa mới trộn thêm một thùng
vữa mới! bây giờ thì chỉ còn nước xây thôi,
chả còn cách nào khác. Nếu không vét cho sạch thì ngày mai
vữa sẽ đóng lại trong thùng cứng như
sắt, có lấy cuốc chim bổ cũng chẳng ra.
-
Nào anh em, làm tiếp đi, cố lên! - Sukhov hò hét.
Kildigs
bắt đầu bực mình. Hắn không thích kiểu làm
ồ ạt. Ở Litva, nghe nói, người ta làm việc
từ tốn lắm, nhưng mà ai cũng giàu. Bây giờ
anh cũng phải rán sức, còn biết làm sao
được.
Pavlo
từ dưới chạy lên, bắt tay khiêng vữa và
cầm theo bay. Hắn lên giúp mọi người xây cho
nhanh. Thế là có năm tay bay.
Bây
giờ vấn đề là phải xây cho kịp những
chỗ tiếp giáp! Sukhov trước đó đã tia
những viên gạch vừa với những chỗ nối
đó. Anh quẳng cái búa cho Aliosa:
-
Này, đập hộ tôi! Đập đi!
Làm
vội thì chẳng bao giờ có thể tốt
được. Bây giờ, khi mọi người xây
vội xây vàng, thì Sukhov làm chậm lại và ngắm kĩ
bức tường. Anh đẩy Senka sang bên trái, bản
thân đứng vào chỗ góc chính. Lúc này, nếu như
bỏ qua, hay làm hỏng cái góc tường, thì ngày mai
sẽ mất cả buổi để mà sửa.
-
Hượm đã! - Anh giật vội viên gạch từ
tay Pavlo, tự mình sửa lại cho nó ngay ngắn. Từ
chỗ góc tường anh nhìn thấy chỗ Senka xây bị
võng xuống. Anh chạy vội tới sửa lại hai
viên gạch.
Ông
trung tá ì ạch khiêng vữa như một con ngựa
thồ già chăm chỉ.
-
Còn hai máng nữa! - ông hô lên.
Trung
tá hầu như không còn đứng vững, song vẫn
gắng sức. Sukhov đã từng có một con ngựa già
như thế trước khi gia nhập nông trang. Anh
chăm sóc nó kĩ lắm, nhưng khi rơi vào tay những
người khác nó đã chết rất nhanh và người
ta lột lấy da nó.
Mặt
trời đã lặn xuống mặt đất chỉ còn
chút đỉnh phía trên. Bây giờ thì không cần Gopchik thông
báo mọi người đều đã nhìn thấy,
chẳng những tất cả các đội đã trả
dụng cụ, mà phạm còn đang xô đẩy nhau
đến chỗ trạm gác. (Sau kẻng báo nghỉ
chẳng có ma nào ra bên ngoài ngay, hoạ có điên mà
đứng lởn vởn chết rét ở đó. Họ
ngồi lại trong nhà cho ấm. Các đội
trưởng đã thoả thuận với nhau vào đúng
một lúc tất cả các đội cùng ùa ra. Nếu không
thoả thuận như vậy, thì tù nhân là loại
người chây lì, chúng ngồi đợi nhau trong nhà có mà
đến đêm).
Lúc
ấy Turin mới tỉnh ra. Hắn thấy đội
mình bị chậm mất rồi. Thằng cha giữ kho
dụng cụ chắc lúc này đang réo ông bà ông vải
hắn ra mà chửi.
-
Ê! - hắn hô to, - không tiếc đống cứt nhão đó
nữa - đem đến chỗ cái hố kia kìa,
đổ xuống đó rồi lấp tuyết lên trên
để không ai nhìn thấy! Còn Pavlo thu tất cả
dụng cụ lại đem trả nhà kho. Tôi sẽ
bảo Gopchik đem ba cái bay tới sau, bây giờ còn
phải xây nốt hai máng vữa này đã.
Mấy
người nhẩy xổ tới giật lấy cái búa
ở tay Sukhov, tháo giây dọi. Đám khiêng vữa, đám
khuân gạch chạy sạch xuống chỗ nhào vữa
ở phía dưới, ở trên này chẳng còn việc gì
cho họ làm. Chỉ còn lại có ba tay thợ nề -
Kildigs, Klevsin và Sukhov. Đội trưởng đi quanh
ngắm nghía chỗ tường đã xây. Hắn hài lòng ra
mặt.
-
Làm tốt đấy chứ, hả? Có mỗi một
buổi chiều. Mà không có trục kéo với máy nâng
đấy nhá.
Sukhov
nhìn thấy trong máng của Kildigs còn ít vữa. Anh lo Turin
sẽ bị lôi thôi to ở kho trả dụng cụ
nếu không trả kịp mấy cái bay này.
-
Nghe này, mấy cậu, - Sukhov nói, - các cậu đưa bay
cho Gopchik để nó mang trả, còn cái của tớ
thuổng được không cần phải trả,
tớ sẽ xây nốt cho.
Đội
trưởng cười phá lên:
-
Làm sao có thể thả cậu ra được đây?
Không có cậu nhà tù phát khóc lên mất!
Sukhov
cũng cười và tiếp tục xây.
Kildigs
đi trả bay. Senka thì đưa gạch cho Sukhov,
những người khác trút nốt chỗ vữa trong máng
của Kildigs vào máng của anh.
Gopchik
chạy băng qua công trường tới kho dụng
cụ, bắt kịp Pavlo. Đội 104 cũng tự mình
băng qua công trường, tiến tới trạm gác
cổng không cần đội trưởng đi cùng.
Đội trưởng to thật đấy, song lính áp
tải còn to hơn. Chúng mà ghi anh tới trễ thì dám
được vào nhà đá lắm. Phạm đứng
đông đặc ở cạnh trạm gác. Tất cả
đã tập hợp. Chắc lính áp tải bắt
đầu đếm tù rồi.
Khi
tù ra về họ đếm hai lần. Lần đầu
đếm khi các cổng còn đóng để xem đã có
thể mở cổng được chưa. Lần
thứ hai đếm khi tù đi qua cổng. Nếu có
vấn đề gì thì họ lại đếm lại
ở bên ngoài cổng.
-
Thôi vứt mẹ chỗ vữa ấy đi! - Đội
trưởng phẩy tay, - hất qua tường ấy!
-
Đi đi, đội trưởng, đi đi, ở
đó cần cậu hơn! (Lúc bình thường Sukhov luôn
gọi đội trưởng một cách kính trọng,
bằng họ tên cẩn thận - Andrei Prokofievich, nhưng
bây giờ, trong công việc, anh cảm thấy mình bình
đẳng với đội trưởng. Anh không nghĩ
cụ thể: “Xem đấy, tớ đâu có thua kém gì
cậu”, mà chỉ cảm nhận vậy thôi). Và anh nói
với theo người đội trưởng đang
sải những bước chân vội vã xuống cầu
thang, giọng đùa cợt: - Chó má thế chứ, ngày làm
việc sao lại ngắn tun tủn vậy? Vừa
mới vác mặt đến đã bị lôi ngay về!
Chỉ
còn lại anh với gã điếc. Với thằng cha này
chẳng thể nói nhiều được. Vả lại,
cần gì phải nói, hắn tinh hơn tất cả
mọi người, chả cần nói cũng hiểu.
Vỗ
vữa vào! Ấn gạch xuống! Áp mạnh vào! Kiểm
tra lại đi. Vữa. Gạch. Vữa. Gạch...
Hình
như đội trưởng ra lệnh không cần
tiếc, hất vữa qua tường rồi phắn cho
nhanh. Nhưng con người Sukhov, về mặt này, có
hơi bị lẩn thẩn. Không thể nào bắt anh
chừa được cái thói tiếc công, tiếc của,
nhìn thấy sự phí phạm là anh chịu không
được.
Vữa!
Gạch! Vữa! Gạch!
-
Xong! Mẹ cha nó, chân với chả cẳng! - Senka reo lên. -
Chuồn thôi!
Hắn
vớ lấy cái máng vữa rồi chạy thẳng
xuống cầu thang.
Còn
Sukhov, dù bây giờ lính canh có suỵt chó cắn, cũng
mặc. Anh chạy lùi ra xa ngắm nghía bức
tường. Đâu có dở. Lại chạy tới
gần nhìn suốt bức tường từ trái sang
phải. Ê, mắt mình như cái ống thuỷ chuẩn! Rõ
phẳng lì! Tay mình còn xài được!
Rồi
anh chạy xuống thang.
Senka
đã nhào ra khỏi chỗ trộn vữa. Ra đến
ngoài còn ngoái lại cổ lại gọi:
-
Nhanh lên! Nhanh lên!
-
Đi trước đi, tớ ra ngay bây giờ đây. -
Sukhov giơ tay xua hắn.
Rồi
anh đi vào trong chỗ trộn vữa. Đâu có thể
vứt bừa cái bay như thế được. Có
thể ngày mai anh không làm việc này nữa. Hoặc cũng
có thể người ta sẽ phân đội 104 sẽ
đến Khu Dịch Xã trong sáu tháng tới. Chả nhẽ
để mất chiếc bay? Muộn thì cũng đã
muộn mẹ nó rồi!
Trong
khoang trộn tất cả các lò đều đã tắt.
Tối om. Sợ thật. Sợ không phải vì tối, mà
vì tất cả đều đã đi hết, chỉ còn
thiếu mỗi mình anh, lính canh sẽ tẩn cho mà xem.
Nhưng
gì thì gì anh vẫn cứ sờ soạng cho tới khi
bắt gặp một tảng đá to ở một góc, anh
liền lật nó lên, để cái bay xuống dưới
và đậy nó lại. Thế là xong!
Bây
giờ thì phải đuổi cho kịp Senka. Nhưng Senka
mới đi được trăm bước. Hắn
đã đứng lại đợi anh. Không bao giờ
Klevsin bỏ anh em trong cơn hoạn nạn. Có tội thì
cùng chịu.
Cả
hai cùng chạy, một to, một nhỏ. Senka cao hơn
Sukhov nửa cái đầu, mà cái đầu thằng cha này
mới to kì quặc làm sao.
Có
những hạng người vô công rồi nghề thế
chứ, chả ai bắt cũng lôi nhau ra sân vận
động huỳnh huỵch chạy đua với nhau.
Cứ thử cho mấy thằng quỷ đó chạy
như thế này sau một ngày làm việc tối mắt
tối mũi, không có lúc nào mà vặn cái lưng, găng thì
ướt sũng, ủng thì tã nát - lại còn cái lạnh
chó má này nữa.
Họ
chạy như điên, thở hồng hộc.
Không
sao, đội trưởng đang ở trạm gác,
chắc hắn đang tìm cách giải thích.
Hai
người chạy thẳng tới chỗ đám đông,
hoảng hốt. Cả trăm giọng đồng thanh
nhao nhao, thôi thì đủ cả: đ... con mẹ mày,
thằng bố mày, đ... vào mồm, vào mũi, vào mép.
Thật khủng khiếp khi cả năm trăm con
người cùng hét vào mặt anh. Song còn khủng khiếp
hơn khi không biết bọn lính canh sẽ làm gì anh đây.
Nhưng
bọn lính chẳng làm gì cả. Đội trưởng
ở đây, đứng ở hàng cuối, có nghĩa
hắn đã giải thích với bọn lính và đã
nhận lỗi về mình.
Còn
anh em thì vẫn la hét, anh em vẫn cứ nhao nhao! Họ la
hét đến nỗi điếc như Senka cũng nghe
thấy. Và hắn nổi sùng, nhảy dựng lên, chửi
bới lại. Cả đời im lặng, bây giờ
nổi đoá lên, giơ nắm đấm, nhảy bổ
vào tay bo. Đám đông im bặt. Có vài người
cười.
-
Ê, một lẻ bốn! Cánh tớ lại tưởng cha
này của các cậu điếc chứ lại. - Họ la
lên, - cánh tớ kiểm tra thử hắn đấy.
Tất
cả cười hô hố. Cả bọn lính canh cũng
cười.
-
Xếp thành hàng năm!
Họ
chưa mở cổng vội. Còn chưa được
tự tin. Họ xô đám đông lùi lại. (Tất cả
cùng bám vào cổng, ngu thế chứ, cứ tưởng làm
thế sẽ được ra sớm hơn)
-
Xế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai! Ba!...
Khi
nhận được lệnh, tù nhân rục rịch
xếp hàng năm, mỗi lượt nhích lên
được vài mét.
Sukhov
đã lấy lại hơi, ngửng mặt nhìn trời.
Cha mẹ ơi, trăng kìa, trăng đã lên cao, cái mặt
đỏ bầm cau có. Hình như đã vào hạ tuần.
Hôm qua, bằng tầm này, nó còn ở cao hơn.
Sukhov
mừng húm vì mọi chuyện đã chót lọt, anh huých vào
mạng sườn ông trung tá, trêu chọc:
-
Nghe này, trung tá, theo khoa học nhà các anh, trăng già rồi
nó sẽ đi đâu?
-
Đi đâu là thế nào? Rõ đồ ngu! Đơn
giản là nó không hiện rõ nữa!
Sukhov
lắc đầu, cười:
-
Nếu không rõ thì tại sao anh lại biết nó đang có?
-
Thế theo anh, - trung tá ngạc nhiên, - cứ mỗi tháng
lại có một trăng mới?
-
Ơ kìa, có gì là lạ nào? Ngày nào cũng có người sinh
ra, thì tại sao bốn tuần lại không có một ông
trăng mới?
-
Phù! - trung tá nhổ toẹt một cái. - Tôi chưa từng
gặp một thằng lính thuỷ nào ngu như thế này.
Thế theo anh, mấy ông trăng già đi đâu?
-
Thì đó là cái tôi muốn hỏi anh đấy - trăng
biến đi đâu? - Sukhov cười hở mấy
chiếc răng, - nào, biến đi đâu, hả?
Sukhov
thở dài và thều thào bằng cái giọng tức
cười của anh:
-
Chỗ chúng tôi người ta thường bảo: Chúa
trời đập vỡ trăng già thành nhiều ngôi sao.
-
Rõ đồ mông muội! - trung tá bật cười. - Tôi
chưa nghe ai nói thế bao giờ. Thế anh tin có Chúa
trời chứ, Sukhov?
-
Sao lại không? - Sukhov ngạc nhiên. - Một khi sấm
nổ đùng đùng, có mà không tin được khối!
-
Thế Chúa trời làm thế để làm gì?
-
Làm cái gì?
-
Thì đập vỡ trăng để làm những ngôi sao
ấy - để làm gì?
-
Có gì mà không hiểu nhỉ, - Sukhov nhún vai. - Các ngôi sao cứ
rụng luôn luôn, phải có sao mới để mà bổ
sung chứ.
-
Quay lại, mẹ chúng mày... - Lính canh gào lên. - Sắp hàng
lại!
Chúng
đã đếm đến họ. Trước đấy
toán năm người thứ mười hai vừa
mới đi qua, cuối hàng còn lại có hai mống, Sukhov
và trung tá.
Đám
lính canh lo lắng ngó vào tấm bảng ghi danh sách tù. Không
đủ! Lại thiếu mất rồi! Đến
đếm chúng còn không biết nữa, lũ chó!
Chúng
đếm được bốn trăm sáu mươi hai,
phải là bốn trăm sáu mươi ba mới đúng.
Lại
một lần nữa đoàn người bị
đẩy ngược trở lại (họ lại bám vào
cổng) - Và lại bắt đầu từ đầu:
-
X-ế -p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai!
Cái
khốn nạn nhất của việc đếm lại
như thế này là thời giờ của anh em, chứ
không phải của chúng, bị mất.
Đây
vẫn là thảo nguyên, từ đây lần
được về đến trại lại còn bị
chúng bắt xếp hàng để lục soát trước
khi cho vào nữa chứ. Từ tất cả các công
trường anh em thi nhau chạy, cố gắng
vượt lên trước để cho chúng khám xét sớm
mà vào trại. Đội nào vào được trước
tiên, thì đội ấy là bố tướng: nhà ăn
đợi anh, anh sẽ là người đầu tiên
được lĩnh đồ tiếp tế, là
người đầu tiên ở chỗ gửi đồ,
vào nhà bếp trước để lấy đồ
ăn đã nhờ nấu từ sáng, lên Ban Văn Hoá Giáo
Dục để lấy thư nhà hay đến chỗ
mấy ông kiểm duyệt thư từ để nộp
thư gửi về nhà, tạt vào trạm xá hay đến
chỗ hớt tóc, đi nhà tắm, có nghĩa ở đâu
anh cũng là người đến trước tiên.
Cũng
có khi bọn lính áp tải muốn nộp tù cho nhanh
để còn về trại của mình. Lính tráng đâu có
được chơi bời gì, công việc thì nhiều mà
thời giờ lại ít.
Chúng
lại đếm nhầm rồi.
Nhóm
năm người cuối cùng vừa đi qua, theo như
Sukhov tính thì hàng còn lại phải có ba người,
đằng này không, vẫn chỉ có hai. Mấy tên
đếm vội cầm bảng danh sách chạy tới
chỗ viên trưởng toán áp tải.
Viên
trưởng toán hô:
-
Đội trưởng đội 104!
Turin
bước ra khỏi hàng:
-
Có.
-
Đội của anh có còn ai ở lại nhà máy
điện không? Nghĩ đi.
-
Không.
-
Nghĩ kĩ xem, không tôi bửa đầu ra đấy.
-
Không còn ai, thưa chính xác ạ.
Nói
thế nhưng hắn vẫn đưa mắt nhìn Pavlo -
liệu có thằng cha nào ngủ quên ở chỗ trộn
vữa không nhỉ?
-
X-ế-p h-à-n-g theo đội! - Viên trưởng toán hô.
Nếu
xếp hàng theo nhóm năm thì bạ với ai xếp cùng
cũng được. Bây giờ, thôi thì xô đẩy, chen
lấn và la hét. Chỗ thì : “Đội 76 đâu, theo tôi’,
chỗ thì: “Đội 13! lại đây!”, chỗ thì: “32
đâu, ra đằng này!”.
Đội
104 đến sau cùng phải tập hợp ở
đằng sau. Và Sukhov nhìn thấy anh em trong đội mình
đều tay không. Mải làm quá họ chẳng nhặt
nhạnh được tí củi nào. Chỉ có hai
người được vài bó nhỏ.
Ngày
nào cũng vẫn trò đó: trước khi có hiệu còi
nghỉ, anh em phạm tranh thủ nhặt các mẩu gỗ
vụn, que hoặc nẹp gẫy, lấy giẻ rách
hoặc thừng cũ buộc lại mang về trại.
Mất mát đầu tiên ở chỗ trạm gác, nếu
có viên giám công hay tên quản công nào đó đứng
đấy, chúng bắt anh em ném hết xuống đất
(hàng triệu rúp đã bị tiêu tan trong các ống khói và bây
giờ chúng cho rằng có thể tịch thu những
mẩu gỗ vụn này để bù vào đó). Còn anh em thì
lại có cách tính toán của mình: mỗi người trong
đội mang về được dù chỉ một cái
que nhỏ thì phòng của mình sẽ được ấm
hơn một chút. Chứ không bọn cần vụ chỉ
cho lĩnh có năm ki lô than cám cho mỗi một lò sưởi,
ấm thế chó nào được. Chính vì thế anh em
mới nghĩ ra cách bẻ ngắn, cưa vụn gỗ
ra, đút vào túi và qua mặt được giám công.
Ở
đây lính áp tải không bao giờ bắt anh em ném củi
xuống đất, là vì họ cũng cần củi, song
lại không được mang theo. Phần vì mặc quân
phục không được phép vác củi, phần tay còn
bận ôm tiểu liên bắn tù nhân nếu cần. Nhưng
khi đưa tù về tới trại, lập tức
họ ra lệnh: “từ hàng này đến hàng này vứt
củi ra chỗ này!”. Nhưng họ vặt của tù
một cách cao thượng: cũng còn phải chừa
lại một ít cho giám thị, một ít cho tù nhân, chứ
không sẽ chẳng còn mống nào kiếm củi mang
về nữa.
Cho
nên mới xảy ra cái tình huống: ngày nào người tù
cũng lượm củi, nhưng chẳng ai biết khi
nào thì mang được về trót lọt, khi nào bị
trấn.
Trong
khi Sukhov ngó nghiêng xem có gì để nhặt nhạnh hay
không, thì đội trưởng đã kiểm xong quân
số đội mình và hô lớn:
-
Một trăm linh bốn, đủ!
Cả
Sezar cũng đã tách khỏi đám người văn
phòng có mặt ở đội. Đốm lửa trên
tẩu thuốc của hắn lập loè cháy đỏ, còn
bộ ria hắn trắng xoá sương chiều. Hắn
hỏi:
-
Công việc thế nào, ông trung tá?
Kẻ
được sưởi ấm hiểu sao
được người đang chết rét. Một câu
hỏi đãi bôi - công việc thế nào?
-
Thế nào á? - Trung tá nhún vai. - Thì đấy, tôi làm sụm
cả lưng, đến đứng thẳng lên còn khó
đây này.
Nói
thế, song ý ông muốn bảo: mày cũng phải đoán
ra là bố mày đang thèm thuốc mà cho bố mày một
điếu chứ.
Sezar
biếu ông một điếu. Trong đội chỉ ông
trung tá là người mà Sezar muốn kết thân, còn thì
chả có người nào để hắn có thể
dốc bầu tâm sự.
-
Đội 32 thiếu một người! Đội 32! -
Tất cả ầm ầm lên.
Đội
phó đội 32 cùng một thanh niên nữa phóng tới
xưởng sửa chữa ô tô để tìm. Còn trong các
hàng tù những câu hỏi vang lên: ai thế nhỉ? Xẩy
ra chuyện gì vậy? Và rồi đến tai Sukhov:
thiếu mất một thằng cha người Mondavi
nhỏ con, đen đúa. Thằng Mondavi nào nhỉ?
Chẳng lẽ là cái thằng mà người ta bảo là
gián điệp cho bọn Rumani, gián điệp thật?
Gián
điệp thì đội nào chả có năm sáu mống,
song toàn gián điệp đểu. Hồ sơ thì ghi là gián
điệp, nhưng trên thực tế đó chỉ là
những tù binh bình thường. Sukhov cũng thuộc
loại gián điệp này.
Nhưng
tên Mondavi nghe nói gián điệp thật.
Viên
trường toán nhìn vào bảng danh sách, mặt xám xịt.
Nếu một tên gián điệp mà trốn thoát, thì hắn
- trưởng toán, sẽ ra sao đây?
Còn
đám đông và cả Sukhov thì nổi điên lên. Nó là cái
thá gì cơ chứ, đồ chó đẻ, quân sâu bọ,
đồ mạt hạng, nó rúc vào cái mả mẹ nào
để cho các bố nó phải chờ thế này?
Trời tối rồi, trăng lên rồi, sao mọc
rồi, còn thằng chó này vẫn không có mặt. Mẹ nó
chứ, chắc nó thấy làm chưa đã? Ngày làm việc
quá ngắn, có mỗi mười một tiếng
đồng hồ, từ lúc nhá nhem sáng tới lúc xâm
xẩm tối? Cứ đợi đấy, ông toà án ông
ấy lại bồi thêm một hạn nữa để
được làm khổ sai cho sướng.
Cả
Sukhov cũng thấy lạ, chẳng hiểu sao lại có
giống người cứ cắm đầu mà làm không
biết gì đến kẻng đến còi nghỉ
nhỉ. Anh quên mất rằng chỉ vừa mới
rồi anh cũng làm việc như thế, và còn thấy
bực mình vì người ta tập hợp ở trạm
gác để ra về sớm quá. Bây giờ anh đứng
chết cóng ở ngoài trời cùng mọi người, cùng
chửi bới với họ và có cảm giác, nếu
thằng Mondavi bắt họ chờ thêm một tiếng
nữa, và nếu lính áp tải trả nó cho họ, thì
lập tức họ sẽ xé xác thằng này, như chó sói
xé xác cừu non cho coi!
Mọi
người đã thấm lạnh, không một ai có thể
đứng yên, người thì dậm chân tại chỗ,
kẻ thì bước lên hai bước rồi lại lùi
xuống hai bước.
Mọi
người bàn tán - liệu thằng Mondavi ấy có
chạy trốn không nhỉ? Nếu ban ngày mà trốn may còn
không sao, chứ mà đợi cho bọn lính rời tháp canh
thì còn lâu con ạ. Họ sẽ tìm, không thấy vết chân
để lại ở chỗ rào kẽm gai chứng
tỏ có người trốn ở đó, thì họ sẽ
sới tung toàn khu lên trong ba ngày và ba ngày lính canh không
được rời chỗ. Thậm chí cả tuần.
Lệnh ấy đã ban bố, ai tù lâu, kẻ ấy
biết. Mà nói chung, tù chạy thoát thì lính áp tải cũng
rồi đời, cho nên họ sẽ truy lùng đến
cùng, bỏ ăn, bỏ ngủ. Đôi khi việc tìm
kiếm kéo dài làm họ cáu tiết, và kẻ mà họ tóm
được cũng chẳng thể sống sót mà
trở về. Họ bắn bỏ ngay tại chỗ.
Sezar
đang thuyết phục ông trung tá:
-
Chẳng hạn, anh còn nhớ cảnh những cặp
mắt kính treo trên cột buồm chứ?*
-
Ờ... - ông trung tá đang hút điếu thuốc của
Sezar cho.
-
Hay cảnh cái xe nôi trẻ con lăn trên bậc thang, lăn
từ từ, từ từ.
-
Ờ... nhưng đời sống hải quân trong phim
cứ như thể trên sân khấu rối ấy.
-
Ông cũng thấy đấy, chúng ta hư hỏng vì các
kĩ xảo quay hiện đại...
-
Đám sỹ quan mười người như một,
rặt tuồng hư hỏng...
-
Thì hoàn cảnh lịch sử nó thế mà!
-
Thế thì ai là người dẫn dắt họ tới
cuộc chiến đấu?... Với lại cảnh
những con giòi trong những miếng thịt nom kinh
chết đi được. Giòi gì mà to như giun
đất lúc trời mưa. Chẳng nhẽ tất
cả những cái đó đều có thật?
-
Nhưng các phương tiện điện ảnh làm sao quay
được những vật nhỏ hơn thế
được.
-
Tôi lại nghĩ, giá mang cái thứ thịt ấy vào trong
trại, bỏ vào nồi thay cho món cá thối nhỉ, có khi
chúng mình...
-
A a a! - đoàn tù gầm lên. - U u u!
Họ
nhìn thấy từ trong xưởng sửa chữa ô tô có ba
người bước ra, có nghĩa đã tìm
được tên Mondavi.
-
Ê ê ê! - đám đông đứng gần cổng la ó,
chửi bới.
Khi
ba người này chạy tới gần, thì:
-
Đồ mắc dịch! Đồ súc vật! Đồ
chó đẻ! Đồ cứt đái, đồ ăn
hại, đái nát!
Sukhov
cũng hùa vào, hét tướng lên:
-
Đồ thổ tả!
Lấy
mất hơn nửa giờ đồng hồ của
năm trăm con người, đâu phải chuyện
đùa!
Tên
Modavi chạy tới, mặt cúi gằm, người trông
như con chuột nhắt.
-
Đứng lại! - tên lính áp tải hô to. Và hắn ghi
lại: - K-460. Anh đi đâu nãy giờ?
Và
hắn tiến lại gần, quay báng súng về phía tên
Mondavi.
Từ
đám đông một số người vẫn chửi
tiếp:
-
Đồ vô lại, thằng con hoang, quân khốn kiếp!
Những
người khác trông thấy tên trung sĩ quay báng súng, thì
vội im bặt.
Thằng
Mondavi cúi gằm mặt, không nói năng gì và bước lùi
lại trước mặt tên trung sĩ. Đội phó
đội 32 tiến lên trước nó, nói:
-
Thằng khốn nạn leo lên cái giá trát trần nhà
để trốn tôi, thấy ấm quá lăn ra ngủ!
Nói
rồi táng luôn một quả vào gáy thằng Mondavi.
Bằng
quả đấm ấy hắn ẩy được tên
Mondavi ra khỏi viên trung sĩ.
Tên
Mondavi đang lảo đảo thì một phạm
người Hung xông lên cũng từ đội 32, lấy
chân đá vào đít hắn (người Hung không khoái dân
Rumani lắm).
Việc
này còn khổ nhục hơn làm gián điệp nhiều con
ạ. Gián điệp thì thằng óc bã đậu nào
chẳng làm được. Đời gián điệp
sạch sẽ, vui vẻ, chứ cứ thử mươi
năm trong trại tù khổ sai này xem!
Tên
lính áp tải hạ súng xuống, viên trưởng toán gào
lên:
-
Lùi khỏi cổng! X-ế-p h-à-ng năm!
Bọn
chó, lại đếm! Còn đếm gì nữa nhỉ? Không
đếm cũng đã rõ rồi còn gì. Đoàn tù làm ầm
lên. Bây giờ họ đã quên hẳn tên Mondavi, mọi
tức giận trút hết lên đầu lính áp tải.
Họ cũng chẳng thèm lùi ra khỏi cổng nữa.
-
Thế là thế nào?! - Trưởng toán áp tải gào lên. -
Muốn ngồi xuống tuyết hả? Tôi sẽ cho các
anh ngồi và ngồi đến sáng.
Thằng
cha này nói là làm. Đã bao lần chúng bắt anh em ngồi
rồi. Thậm chí chúng còn bắt nằm xuống và
chĩa súng vào mặt. Tất cả những chuyện
đó anh em đều biết cả. Bởi thế họ
bước nhích ra khỏi cổng một chút.
-
Lùi xa ra! Lùi ra! - Tên lính áp tải giục giã.
-
Ừ mà bám vào cổng để làm chó gì nhỉ, mấy
thằng đầu đất? - Phạm ở các hàng
cuối bắt đầu cáu phạm ở phía trên.
Bị
lính canh và đám tù phía dưới làm găng, cuối cùng
những người này đành phải giạt ra khỏi
cổng.
-
X-ế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! hai! ba!
Trăng
bây giờ mới thật tỏ. Nó toả sáng và không còn tím
đỏ. Nó đang ở chót vót trên cao. Thế là mất
mẹ nó buổi tối!... thằng Mondavi khốn nạn.
Lính áp tải khốn nạn. Cuộc đời khốn
nạn...
Những
người ở phía trên sau khi đã được
đếm, kiễng chân nhìn xuống hàng chót xem có ba
người cuối cùng không. Cả cuộc đời
của họ lúc này phụ thuộc vào điều đó.
Và
Sukhov nhìn thấy, ở hàng chót không phải ba, mà là bốn
người! Anh kinh hãi bủn rủn chân tay: dư ra
một thằng! bây giờ chúng nó lại bắt xếp
hàng đếm lại từ đầu! Hoá ra là thằng
mót rác Fechiukov bỏ hàng của mình chạy tới chỗ ông
trung tá để mót mẩu thuốc lá. Hắn không kịp
chạy về chỗ, nên đành đứng đại vào
hàng chót, cho nên mới có một người thừa ra.
Viên
trưởng toán áp tải tức giận cho hắn
một cái bạt tai.
Thế
mới đúng!
Hàng
chót có ba người. Mọi chuyện đã ổn
thoả, lạy Chúa lòng lành!
-
Lùi khỏi cổng! - Lính áp tải lại ra lệnh.
Song
lần này đám tù nhân không làm ầm lên nữa, họ
đã trông thấy lính ra khỏi trạm gác và đang
bọc lấy khu vực ngoài cổng.
Như
vậy là chúng sắp cho ra.
Chả
thấy bóng dáng bọn lãnh công đâu, cả viên giám công
nữa, chỉ thấy mấy đứa trẻ đang
khuân củi.
Cổng
bật mở, ở phía ngoài, cạnh các rào gỗ chắn
ngang, viên trưởng toán áp tải cùng với tên kiểm
soát viên làm nhiệm vụ đếm lại một lần
nữa. Hắn gào to:
-
Hàng một! hàng hai! hàng ba!
Lần
này mà đếm đủ thì hắn sẽ cho bọn lính
ở trên các tháp canh xuống.
Từ
mấy cái tháp canh này lần về đến trại xa
thấy mẹ! Ấy thế mà chúng cứ chờ cho tên tù
cuối cùng ra khỏi cổng mới gọi dây nói cho
bọn lính canh xuống. Gặp tên trưởng toán sáng
dạ một tí thì hắn giải anh em về ngay, vì
biết rằng họ có trốn đằng trời, còn
bọn lính canh thể nào chẳng đuổi kịp.
Nhưng nếu gặp phải thẳng đầu
đất, thì hắn bắt cả đoàn phải chờ
đến cùng, vì hắn sợ có ít lính để
đối phó với tù. Hôm nay gặp phải một
thằng như vậy. Thế là phải chờ.
Suốt
ngày ở ngoài trời băng giá, những người tù
chỉ còn nước chết vì lạnh. Chờ cho mọi
chuyện được giải quyết, họ đã
phải đứng chịu trận cả một tiếng
đồng hồ. Song điều làm họ bực mình
chẳng phải vì cái lạnh, mà vì buổi tối với
bao nhiêu việc định làm, đã bị mất mất
rồi.
-
Trung tá, sao ông biết nhiều thế về đời
sống của hải quân Anh? - Những người
đứng trong nhóm năm người bên cạnh hỏi
Buinovski.
-
À, chả là tôi tôi đã sống gần cả tháng trời
trên một tuần dương hạm của Anh quốc,
có riêng một phòng ở đó. Khi ấy tôi là sĩ quan liên
lạc trong đoàn hộ tống.
-
Ra thế! Thế cũng đủ để họ táng cho
anh hai mươi nhăm năm tù.
-
Không phải, các anh không biết đấy thôi, tôi đâu có
theo thuyết tự do phê phán tư tưởng của
họ. Đấy là do tôi đưa ra những ý kiến
xác đáng về luật pháp nước ta.
(Rõ
đồ ngu, Sukhov nghĩ bụng, nhưng không nói ra
lời. Thằng Senka Klevsin kia sống với người
Mỹ có hai ngày mà họ còn ấn cho những bốn
năm, lão sống cả tháng trời trên tầu của
họ, thì không biết sẽ phải ở trong trại bao
nhiêu năm đây?).
-
Thế rồi sau chiến tranh có một ông đô
đốc hải quân Anh ma xui quỷ khiến thế nào
lại gửi cho tôi một món quà nhỏ làm kỉ
niệm, đề dòng chữ “Để tỏ lòng
biết ơn”. Tôi hoảng hồn, chửi um lên...
Thật
lạ lùng, thật lạ lùng khi ngắm nhìn cảnh
tượng: một vùng thảo nguyên mênh mông trần
trụi, cả một khu vực bị bỏ hoang,
tuyết lấp lánh dưới ánh trăng. Đám lính áp
tải đã đứng vào vị trí - mỗi tên cách nhau
mười bước. Đứng kia là một bầy tù
đen ngòm, và cũng mặc áo bông đen như những tù
nhân khác là S - 311, cái con người trước đây
đã từng mặc lễ phục trắng có gù vai kim
tuyến và từng giao du với một ông đô
đốc hải quân Ăng lê. Thế mà bây giờ ông ta
phải khiêng vữa với Fechiukov.
Mới
biết, con người ta, lúc lên voi, lúc xuống chó...
Đoàn
áp tải đã sẵn sàng. Không cần giáo đầu,
trưởng toán lính áp tải cứ thế hô luôn:
-
Bước đều, bước! Rảo chân lên!
Bây
giờ thì kệ mẹ chúng mày - rảo chân! Đứng bét
tĩ thế này các bố đây đếch cần
phải vội nữa. Đám tù, chẳng cần nói
cũng hiểu nhau: tụi bay bắt chúng tao chờ, bây
giờ đến lượt bọn tao bắt chúng bay
phải chờ. Bọn bay chắc cũng cần
sưởi ấm lắm chứ.
-
Dồn bước lên! - Viên trưởng toán quát to. -
Dồn bước, hàng đầu dồn bước lên!
Mẹ
mày, đợi đấy mà “dồn bước”! Đoàn tù
đi chậm chạp, đầu gục xuống như
đi đưa đám. Bọn ta bây giờ chẳng còn gì
để mà mất, đằng nào thì cũng về
trại sau cùng. Chúng bay đã không chơi đẹp với
tụi tao, thì bây giờ tha hồ rát cổ bỏng
họng.
Viên
trưởng toán tiếp tục hò hét, nhưng hắn
cũng biết là vô ích: bọn tù không chịu đi nhanh. Mà
bắn chúng cũng không được, là vì chúng vẫn
giữ đúng luật, đi theo hàng. Lại chẳng có cái
luật nào bắt tù phải đi nhanh cả. (Buổi sáng
điều giúp tù nhân sống được, ấy là trên đường
tới chỗ làm họ đi rất chậm. Tên nào đi
nhanh thì khó mà sống nổi cho tới lúc mãn hạn. Đi
nhanh người sẽ nóng lên quá mức và như thế
sẽ chẳng thọ được bao lâu).
Và
thế là họ cứ chậm rãi bước đều.
Tiếng ủng dẵm tuyết nghe rào rạo.
Người thì khẽ nói chuyện, kẻ im lặng. Sukhov
cố nghĩ xem buổi sáng mình còn chưa kịp làm
việc gì ở trại. Cuối cùng anh nghĩ ra - trạm
xá. Thật buồn cười, trong khi làm việc anh hoàn
toàn chẳng còn nhớ tới nó nữa. Giờ này trạm
xá bắt đầu khám bệnh. Mình sẽ kịp, nếu
bỏ bữa tối. Nhưng bây giờ có vẻ như
không còn nhức mỏi nữa. Và nhiệt độ xem ra
cũng không cao... đến trạm xá chỉ tổ phí
thời gian. Chả cần tới lũ lang băm ấy
bệnh cũng tự khỏi. Loại ấy mà chữa
chỉ tổ mặc áo sáu tấm sớm.
Trạm
xá bây giờ không lôi cuốn anh nữa. Điều anh quan
tâm là kiếm thêm cái gì cho bữa tối. Toàn bộ hi
vọng của anh đặt vào gói đồ tiếp
tế mà Sezar nhận tối nay. Đã lâu hắn chưa
nhận được gói nào.
Hàng
lối của đoàn tù bất thình lình thay đổi.
Như một đợt sóng ập tới làm loạn
hết nhịp bước, đoàn người chồm
về phía trước và tất cả cùng la hét, kêu gào
ầm ĩ. Cái đuôi của nó - hàng chót năm
người, trong đó có Sukhov, không đi bình thường
được nữa, mà phải chạy gằn mới
kịp những người đi trước. Đi
được vài bước, lại chạy. Mãi tới khi
đoàn người vượt qua khỏi quả
đồi Sukhov mới vỡ lẽ: bên trái họ, ở
mãi tít trong thảo nguyên, một đoàn người làm thành
một dòng đen sẫm đang tiến tới cắt
ngang đoàn của anh. Nghe chừng họ cũng nhìn
thấy đoàn anh nên cũng rảo cẳng chạy.
Chắc
là bọn bên xưởng cơ khí. Ở đó có khoảng
ba trăm phạm. Hoá ra chúng cũng bị giữ lại.
Nhưng bị giữ lại vì chuyện gì nhỉ? Đôi
khi vì phải làm cho xong cái máy này, máy nọ. Nhưng cánh bên
ấy vẫn còn xôm chán, chúng làm việc trong nhà nên
được ấm cả ngày.
Nào,
bây giờ thì ai thắng ai đây! Anh em bắt đầu
chạy, cố gắng guồng cho nhanh. Bọn lính áp
tải cũng chạy theo. Viên trưởng toán gào lên:
-
Đừng có bỏ hàng ! Đằng sau chạy lên cho
kịp! Nhập vào đoàn đi!
Ơ
cái thằng này, không thấy người ta đang chạy
hộc tiết ra đây à. Có im cái mồm đi không,
chẳng lại cho một nhát vào mặt bây giờ, cạc
cạc gì thế không biết? Tất cả mọi
người lúc này đều đã quên mình nói gì, nghĩ gì,
họ chỉ chú tâm tới mỗi một việc: phải
vượt được bọn kia và về đến
trại trước!
Mọi
cái lộn tùng phèo hết cả lên, lúc này lính áp tải cùng
về phe với phạm. Còn phe kia là cái đoàn tù đang
rắp tâm vượt trước họ.
Mọi
người lập tức trở nên vui vẻ, chan hoà.
Những nỗi bực dọc, uất ức nguôi dần.
-
Guồng lên, guồng lên! - cuối hàng giục đầu
hàng.
Đoàn
của ta đã tới được đầu phố,
còn đoàn xưởng cơ khí khuất sau dãy nhà ở. Tuy
không nhìn thấy nhau, song hai đối thủ vẫn
tiếp tục cuộc đua. Chạy giữa phố
đoàn ta có lợi thế hơn đối thủ.
Đường bằng phẳng lính áp tải ở hai bên
cũng đỡ bị vấp. Nhất định ta
phải tới trước chúng!
Một
lí do nữa khiến quân ta phải về trại sớm
hơn bọn cơ khí, bởi vì bọn này bị khám
đặc biệt kĩ. Kể từ cái vụ cắt
đầu nhau trong trại, trại trưởng cho rằng
chính bọn ở xưởng cơ khí đánh dao rồi
tuồn vào trại. Bởi vậy lính canh khám rất kĩ
rồi mới cho chúng vào trại. Cuối thu vừa
rồi lạnh như thế, đất cứng cả
lại, vậy mà họ vẫn quát chúng:
-
Toán cơ khí, cởi ủng ra! Cầm ủng vào tay!
Thế
là đám tù phải đứng chân trần cho họ khám
xét. Bây giờ thời tiết băng giá, tụi lính khám
theo xác suất:
-
Nào, cởi chân phải ra! Còn anh kia - chân trái!
Tên
tù cởi một bên ủng và cứ thế nhẩy lò cò
một chân, dốc ngược chiếc ủng kia lên, tháo
tung cả giẻ quấn chân cho bọn lính thấy là không
có dao.
Sukhov
nghe đồn, không biết có đúng hay không, rằng tù
nhân bên xưởng cơ khí đã giấu dao trong cái hai
cột bóng chuyền mà chúng khuân vào trại từ dạo
hè - mỗi cột mười con. Cho đến giờ
thỉnh thoảng người ta vẫn tìm thấy dao
ở chỗ này chỗ nọ trong trại.
Họ
rảo bước qua câu lạc bộ mới xây, dãy nhà
ở, xưởng thợ mộc và xưởng chế
biến gỗ, rẽ sang đường dẫn thẳng
tới trạm gác của trại giam.
-
Hu- gu -u! - cả đoàn tù nhất loạt hô vang.
Quân
ta đã tới đích trước - đó là chỗ
cắt nhau của hai con đường. Đám cơ khí
bị tụt hậu mất khoảng trăm rưởi
mét trên con đường mé phải.
Bây
giờ anh em có thể đi thong thả. Ai cũng phấn
khởi, hể hả. Sự hể hả của bầy
thỏ: hoá ra vẫn còn có những con vật khác sợ ta.
Đến
trại rồi. Buổi sáng như thế nào thì bây giờ
vẫn như thế, vẫn trời tối đen,
những ngọn đèn xung quanh hàng rào trại, đặc
biệt ở chỗ trạm gác thì dầy đặc.
Chỗ lục soát tù sáng trưng như ban ngày.
Nhưng
anh em còn chưa đến được chỗ đó...
-
Đứng lại! - Viên trưởng toán áp tải hô lên.
Và sau khi đưa tiểu liên cho một tên lính, hắn
chạy lại gần đoàn tù (có lệnh cấm không
được mang súng lại gần tù). - Những ai mang
củi đứng bên phải, vất ra đây!
Những
người đứng phía ngoài chả muốn giấu làm
gì, một bó, hai bó rồi ba bó bay trên không. Có vài
người muốn tuồn bó của mình vào phía trong, song
những người bên cạnh ngăn lại:
-
Làm như thế nó lại lấy hết củi của
mọi người bây giờ! Vất cho lẹ đi!
Kẻ
thù chính của phạm là ai? Là phạm khác. Nếu các
phạm không cạnh cựa lẫn nhau, thì các sếp trên
khó có thể làm gì được họ.
-
Đằng trước bước! - Viên trưởng toán
hô to.
Đoàn
tù bước về phía trạm gác.
Trạm
gác nằm ở chỗ cắt nhau của năm con
đường. Một tiếng trước ở đây
đông nghẹt người của các đội tù khác
từ chỗ làm việc trở về. Nếu những con
đường này xây xong và trở thành phố, thì chỗ
trạm gác và nơi khám xét tù sẽ trở thành quảng
trường chính của thành phố. Bây giờ các đoàn
tù đổ về giống khi ấy các đoàn diễu
hành tiến tới quảng trường trong những ngày
lễ hội.
Bọn
giám thị đã có mặt ở trạm gác và đang
sưởi. Họ bước ra và dừng lại, dàn hàng
ngang trên đường.
-
Mở áo bông ra! Mở áo trấn thủ ra!
Và
những đôi tay bắt đầu làm việc. Trong khi
lục soát, trông như giám thị đang ôm lấy tù,
vỗ vỗ hai bên sườn họ. Giống y như
cuộc khám xét ban sáng.
Bây
giờ có cởi áo ra cũng cóc sợ, sắp về
tới nhà rồi!
Tất
cả mọi tù nhân đều nói như vậy - “về
nhà”.
Cả
ngày làm việc ngoài công trường làm gì có thời gian
để mà nghĩ tới nhà khác.
Họ
đang khám những người ở hàng đầu, Sukhov
vội đi tới chỗ Sezar và nói với hắn:
-
Sezar Markovich, khi nào khám xong tôi sẽ chạy ngay tới phòng
nhận đồ để giữ chỗ cho anh nhé?
Sezar
quay lại. Bộ ria đen rậm được cắt
tỉa gọn của hắn trắng xoá phía dưới:
-
Giữ chỗ làm gì hở Ivan Denisovich? Sợ hôm nay tôi không
nhận được đồ.
-
Không sao, cũng chẳng mất gì. Tôi sẽ đợi
mười phút, nếu anh không tới thì tôi sẽ về
phòng.
(Thực
ra thì Sukhov nghĩ, cho dù Sezar không nhận được
đồ, anh vẫn có thể bán chỗ cho người
khác).
Rõ
ràng Sezar cũng mệt mỏi vì ngóng đồ tiếp
tế, hắn nói:
-
Thôi được, Ivan Denisovich, anh chạy đi giữ
chỗ. Anh cứ đợi mười phút, đừng
lâu hơn.
Họ
sắp soát tới nơi rồi. Hôm nay Sukhov không giấu gì
trong người, nên anh chả có gì phải lo lắng. Anh
ung dung cởi cúc áo bông, rồi áo trấn thủ, tháo
chiếc thắt lưng bằng vải bạt. Mặc dù
anh không giấu cái gì bị cấm trong người, song tám
năm tù đã cho anh một thói quen cẩn trọng. Anh
thọc tay vào cái túi ở đầu gối quần
để biết chắc chắn là không có gì trong đó.
Song
trong đó lại có mảnh dao anh nhặt được
ở công trường. Cũng là tiếc của thì
nhặt vậy thôi, chứ cũng chẳng có ý định
mang về trại.
Anh
không định mang nó về. Song bây giờ đã trót mang
về, vất đi thì tiếc. Là vì có thể mài nó thành
một con dao nhỏ dùng vào việc vá giầy hay cắt
quần áo đều được.
Gía
như anh chủ định mang nó về trại, thì anh
đã cất giấu cẩn thận. Bây giờ, chỉ còn
có hai hàng nữa, và hàng năm người đầu đã
tách ra, bước tới chỗ khám xét.
Cần
phải quyết định chớp nhoáng: hoặc là
nấp sau toàn năm người đằng trước,
ném mẹ mảnh dao xuống tuyết (tất nhiên chúng
sẽ tìm thấy vì dấu vết in rõ trên tuyết, song
sẽ không biết là của ai), hoặc là cứ liều
mang theo người! Vì miếng sắt mẻ này có thể
bị mười ngày trong nhà đá, nếu như chúng cứ
nhất định bảo đó là dao.
Nhưng
có một con dao nhỏ cắt quần áo anh có thể làm
thuê, kiếm cho mình thêm chút bánh mì.
Vứt
đi tiếc đứt ruột, Sukhov bèn nhét nó vào một
chiếc bao tay bông.
Đúng
lúc đó hàng năm người đứng trước anh
được lệnh bước lên để khám xét.
Dưới ánh đèn sáng trưng chỉ còn lại ba
người: Senka, Sukhov và chàng trai ở đội 32 lúc nãy
đi lùng tên Mondavi.
Chỉ
còn ba người mà những năm tên giám thị, nên có
thể giở trò láu cá: chọn một trong hai tên
đứng ở bên phải. Sukhov không chọn thằng cha
còn trẻ, mặt mũi hồng hào, mà chọn lão già có
bộ ria muối tiêu. Tất nhiên lão già có kinh nghiệm
hơn và dễ dàng tìm ra miếng thép, nếu lão muốn.
Nhưng cũng chính vì già, làm cái nghề khám xét lâu năm,
nên có thể lão đã chán ngấy.
Lúc
đó Sukhov cởi cả hai bao tay, một bao giấu
miếng thép, một bao không, nắm cả vào một tay
(anh cố tình để chiếc bao không thò ra hơn một
chút), tay kia anh cởi sợi giây thừng buộc áo, phanh
rộng áo trấn thủ, vén vạt áo bông và áo trấn
thủ lên cao (anh chưa bao giờ làm cái việc hạ mình
như thế ở chỗ lục soát, song bây giờ anh
muốn cho chúng thấy là anh chả có giấu cái gì trong
người cả - này, nhìn đi!). Theo lệnh, anh
bước tới chỗ lão già có bộ ria muối tiêu.
Lão
giám thị ria muối tiêu vỗ khắp hai bên và lưng,
nắn cái túi nơi đầu gối - không có gì, lần
hai vạt áo bông và áo trấn thủ - cũng không có gì. Cho
chắc hơn lão nắn cái bao tay mà Sukhov cố tình
để chìa ra hơn - bao tay không. Trong khi lão giám thị
nắn bao tay, thì Sukhov sợ thắt cả ruột cả
gan. Chỉ cần lão nắn nốt cái bao thứ hai thì chỉ
còn nước nằm nhà đá với ba trăm gam bánh mì
một ngày và chỉ được ăn một bữa
nóng vào ngày thứ ba. Ngay lập tức anh hình dung mình
sẽ mình sẽ bị đói lả, bị kiệt
sức như thế nào ở đó, sẽ khó khăn
như thế nào để có thể trở về với
cái trạng thái không đói, không no như hiện tại.
Anh thầm cầu nguyện dồn dập, lộn xộn:
“Lạy chúa, hãy cứu lấy con! Đừng để con
phải vào nhà đá!”.
Tất
cả những ý nghĩ vụt qua đầu Sukhov, trong khi
lão giám thị đã nắn xong chiếc bao thứ nhất,
đổi tay để nắn cái thứ hai (nếu Sukhov
giữ mỗi bên tay một chiếc bao, thì chắc
chắn lão sẽ nắn cả hai chiếc cùng lúc rồi).
Nhưng ngay lúc đó viên trưởng giám thị - vì
muốn cho chóng xong việc, hướng về phía bọn
lính áp tải, hô to:
-
Nào, cho bọn xưởng cơ khí lên!
Và
thế là, thay vì nắn chiếc bao tay thứ hai, lão giám
thị ria muối tiêu phẩy tay cho Sukhov đi qua.
Sukhov
chạy vội để bắt kịp người trong
đội. Họ đã đứng thành hàng năm giữa
hai hàng tay vịn bằng gỗ dài trông như chỗ
buộc ngựa ở ngoài chợ, được dựng
lên để lùa đoàn tù vào trại. Sukhov chạy nhẹ
bâng, không cảm thấy đất dưới chân mình
nữa. Anh chẳng kịp khấn tạ ơn, chả còn
lúc nào, bây giờ thì không phải lúc nữa rồi.
Toán
lính canh áp tải đoàn của anh lúc này đứng
dạt về một phía, nhường chỗ cho bọn
lính áp tải đoàn tù của xưởng cơ khí, và
chờ viên trưởng toán. Những bó củi mà họ
vất xuống trước lúc khám xét được lính
áp tải thu về cho mình, còn những bó bị bọn giám
thị tước ngay trong lúc khám thì làm thành một
đống ngay cạnh trạm gác.
Trăng
mỗi lúc một lên cao, trong những đêm trăng sáng
như thế này, băng giá càng dữ dằn hơn.
Viên
trưởng toán áp tải đi vào trong trạm gác
để kí bàn giao bốn trăm sáu mươi ba phạm,
hắn nói gì đó với Priakha - phụ tá của Volkovyi.
Tên này quát tướng lên:
-
K - 460!
Anh
chàng Mondavi nãy giờ đứng lủi vào giữa đoàn,
thở dài đánh sượt và bước ra khỏi hàng
gỗ chắn phía bên phái. Đầu hắn vẫn cúi
gằm, hai vai so lại.
-
Lại đây! - Priakha chỉ cho hắn vòng qua chỗ
buộc ngựa.
Tên
Modavi đi vòng trở lại. Priakha ra lệnh cho hắn
để hai tay sau lưng và đứng chờ đó. Có
nghĩa hắn đã bị buộc tội toan đào
tẩu. Họ sẽ cho hắn vào nhà đá. Trước
cổng trại, bên trái và bên phải, có hai tên lính gác.
Cổng cao gấp ba lần chiều cao của
người thường mở ra một cách chậm
chạp và có tiếng hô:
-
Xếp hàng năm! (ở đây không cần phải hò hét
“lùi khỏi cổng”, bởi vì cổng vào trại bao
giờ cũng mở vào trong, như thế để tù
khỏi xô đổ). Một! Hai! Ba!...
Vào
lúc điểm danh buổi chiều này, lúc phải chờ
để qua cổng trại, lúc trở về sau cả
một ngày trời hứng gió, lạnh cóng và đói khát, thì
cái món cháo rau loãng hoét, nhưng còn nóng, đối với
phạm chẳng khác nào đất hạn gặp mưa
rào. Chỉ húp đánh xoạt một cái là sạch nhẵn.
Cái thứ nước lõng bõng ấy giờ đây
đối với họ còn quý hơn tự do, quý hơn
cả cuộc đời đã qua và sắp tới của
họ. Sau khi đã qua được hết các lần
cửa, họ sải những bước dài, ồn ào,
phách lối - như những người lính từ mặt
trận trở về - tốt nhất nên tránh xa họ!
Tên
cần vụ trên trại chỉ huy nhìn thấy làn sóng tù
đổ vào trại cũng phải phát khiếp. Từ
sáu rưỡi sáng, lúc điểm danh lần đầu,
cho tới lúc này - sau khi đã điểm danh lại,
phạm mới được trở về với
bản thân, anh ta thành người tự do. Họ đi qua
cái cổng lớn bên ngoài, cổng nhỏ bên trong, băng
qua sân, qua hai hàng tay vịn bằng gỗ, rồi ùa vào
những nơi mà họ cần.
Tất
cả mọi người đi tới chỗ họ
cần, trừ các đội trưởng. Họ bị
tay trực ban giữ lại:
-
Các đội trưởng lên Ban Kế hoạch Sản
xuất!
Tức
là họ phải lên để nhận phần việc cho
ngày hôm sau.
Sukhov
chạy qua khu nhà đá, giữa các dãy phòng giam, đến
bộ phận phát đồ tiếp tế. Còn Sezar
đủng đỉnh đi về phía khác, nơi có
rất nhiều người bu quanh một cái cột, trên
đó có đóng một tấm bảng bằng ván ép. Tên
tất cả những người có đồ tiếp
tế được ghi bằng bút chì trên tấm bảng
này.
Trong
trại giấy ít khi được dùng đến.
Người ta hay dùng ván ép hơn. Phần vì viết trên
đó chữ nghĩa nom cứng cáp và đúng hơn.
Những tên kiểm công và cai ngục kiểm đầu tù
cũng viết trên ván ép. Phần làm như vậy tiết
kiệm hơn, ngày hôm sau bảng được lau
sạch và người ta lại tiếp tục viết lên
đó.
Những
phạm nào không phải làm việc ở bên ngoài có thể
kiếm chác chút đỉnh xung quanh cái cột này. Họ
đọc danh sách xem ai có đồ tiếp tế, rồi
chạy ra sân trại đón và thông báo ngay cho anh ta số
của gói đồ. Kiếm được cũng
chẳng nhiều nhặn gì, mỗi lần cũng
được đôi ba điếu thuốc.
Sukhov
tới phòng nhận đồ. Đó là chái nhà một mái xây
gắn vào trại, hành lang có vách ngăn. Hành lang phía ngoài
không có cửa, gió lạnh cứ thế thốc thẳng
vào, song đứng ở đây cũng không đến
nỗi nào, vì có mái che ở trên. Mọi người đã
đứng xếp hàng và ai cũng nép vào tường. Sukhov
đứng vào hàng. Có mười lăm người
đứng trước anh, như vậy đến
được lượt mình cũng phải mất
hơn một tiếng, vừa vặn tới giờ
nghỉ. Nếu ai trong đoàn của Sukhov mà có đồ,
thì chắc chắn họ phải đi xem danh sách
trước đã, như vậy họ phải
đứng sau anh. Còn đám xưởng cơ khí
đứng sau anh là đương nhiên rồi. Hội này
có thể phải xếp hàng tới lần thứ hai vào
sáng sớm mai thì mới nhận được đồ.
Những
người đứng xếp hàng tay cầm nào bao, nào túi.
Phía trong, đằng sau cửa (bản thân Sukhov ở trong
trại này chưa một lần nhận được
đồ tiếp tế, nhưng anh nghe thấy
người ta nói lại) có một tên giám thị nậy
hòm đựng đồ tiếp tế bằng một cái
rìu nhỏ, rồi lấy hết đồ ra xem xét
từng món một. Thứ thì hắn cắt, thứ thì
bẻ, thứ nắn, thứ đổ ra. Nếu là
đồ nước đựng trong chai lọ thuỷ
tinh hay hộp sắt tây thì hắn cứ thế
đổ, mặc anh lúc ấy vội khum hai tay hay giơ
túi ra mà hứng. Họ không đưa chai lọ nguyên cho
người nhận, chẳng biết sợ cái gì. Nếu
có bánh kẹo, giò, hay cá khô, thì thể nào bọn giám thị
cũng cấu véo (cứ thử kêu ca, phàn nàn xem, chúng
sẽ bảo đồ của anh bị cấm, không
được phép nhận và không đưa cho anh nữa).
Người nào nhận được đồ tiếp
tế cũng phải biếu xén từ trên xuống
dưới, bắt đầu từ bọn giám thị.
Sau khi lục soát kĩ gói đồ, nào chúng có đưa
cái thùng gỗ cho ta đâu, mà ta phải chất các thức
vào trong bao, hay đựng bằng vạt áo khoác bông rồi
phắn ngay để người tiếp theo còn vào
nhận. Lắm lúc vì họ giục ghê quá có người
còn bỏ sót thứ gì đó trên quầy, lúc ấy thì
đừng có mất công trở lại mà tìm. Làm gì còn
ở đấy nữa.
Hồi
còn ở Ust - Izima, Sukhov có nhận được
đồ tiếp tế đôi ba lần. Sau anh phải
biên thư nói vợ đừng gửi nữa, vì
đến được tay anh còn lại cũng chẳng
là bao, thà để ở nhà cho con nó ăn còn hơn.
Mặc dù hồi còn ở nhà anh nuôi cả gia đình dễ
hơn là bây giờ ở đây anh tự nuôi thân một
mình, song anh cũng hiểu là những gói đồ đó
đáng giá như thế nào, không thể suốt
mười năm ăn bớt phần của vợ con
như thế. Thà anh chịu nhịn còn hơn.
Nghĩ
là thế, nhưng cứ mỗi lần trong đội hay
trong trại giam của anh có ai nhận được
đồ tiếp tế - mà hầu như ngày nào cũng có
- anh vẫn cảm thấy tủi tủi vì người
ấy không phải là anh. Mặc dù nghiêm cấm vợ
gửi đồ cho mình, thậm chí cả vào dịp
lễ Giáng sinh, và không bao giờ bén mảng tới cây
cột có treo cái bảng danh sách đó, trừ phi đi xem
hộ cho những phạm khá giả hơn, - không hiểu
sao anh vẫn cứ ngóng chờ ai đó chạy tới
bảo anh:
-
Sukhov! Sao không đi nhận? Anh có một gói đồ
đấy!
Song
chẳng có ai chạy tìm anh cả...
Chính
vì thế anh càng ít lí do hơn mà nghĩ về cái làng
Temgenyvo và cái nhà gỗ của mình. Sống trong trại
đầu tắt mặt tối suốt từ lúc kẻng
báo thức cho tới lúc tắt đèn đi ngủ, anh làm
gì còn thời gian, sức lực để mà nhớ
tới những kỉ niệm ngọt ngào. Lúc này anh
đang đứng giữa những người đang
trấn an cái bụng của mình bằng niềm hi vọng
họ sắp được ngoạm những miếng
mỡ lợn muối, phết bơ lên những lát bánh mì
hay uống cốc trà tướng pha đường. Còn
Sukhov thì chỉ có một mong muốn duy nhất: kịp
về nhà ăn với đội của mình để
kịp húp bát súp loãng còn nóng, chứ để nó nguội
thì thật uổng. Súp mà nguội thì chỉ còn phân nửa
so với súp nóng.
Anh
tính toán, nếu Sezar không tìm thấy tên mình trong bảng danh
sách những người có đồ, thì anh ta đã về
trại từ lâu rồi và đang rửa ráy. Còn tìm
thấy, thì chắc anh ta đang nhặt nhạnh bao, túi, ca
nhựa, chậu nhựa. Sukhov hứa đợi anh ta
mười phút, đủ thời gian để anh ta làm
những việc đó.
Đứng
ở trong hàng, Sukhov nghe được một tin mới
rằng chủ nhật này toàn trại không được
nghỉ. Thế là họ lại chiếm dụng một
ngày chủ nhật nữa của phạm. Việc này
chả có gì lạ, ai cũng biết tháng nào có năm
chủ nhật thì họ chỉ cho nghỉ ba, còn hai ngày xua
tù nhân đi làm. Vẫn biết là như vậy, nhưng
nghe được tin này anh vẫn thấy nôn nao, choáng
váng: mất mất ngày chủ nhật của mình ai mà
chẳng thấy tiếc? Dù rằng, như mấy
người trong hàng nói đúng, dù rằng có
được nghỉ, thì họ vẫn cứ nghĩ
được ra việc cho phạm làm ngay ở trong
trại, như cất một cái nhà tắm mới, hay xây
một bức tường để chắn không cho
phạm đi qua chỗ nào đó, hoặc quét dọn sân
trại. Không thì lột đệm đem ra ngoài trời mà
rũ cho lũ rận chết rét. Hoặc để cho
người ta kiểm tra, nhận diện mình xem có
khớp với hồ sơ tài liệu hay không. Hoặc
họ bày ra cái trò kiểm điểm đồ dùng của
phạm. Thôi thì chổi cùn rế rách phải lôi ra sân
tuốt tuột mất đến cả nửa ngày
trời.
Có
lẽ điều làm các ông cấp trên khó chịu nhất,
đó là việc tù nhân ăn sáng xong lại tiếp tục
ngủ vùi.
Hàng
người dù chậm chạp, song vẫn di chuyển. Có
ba tên vừa tới, chả hỏi han ai, chen ngay lên hàng
đầu. Một tên là thợ cắt tóc trong trại,
một tên là kế toán, còn tên thứ ba làm ở Ban Văn
hoá Giáo dục của trại. Đó không phải là loại
phạm khố rách áo ôm, mà là loại phạm có máu mặt,
và cũng là những kẻ khốn nạn nhất hạng
có mặt trong trại. Anh em coi bọn này còn bẩn hơn
cứt (chúng cũng coi anh em như vậy). Song cãi cọ
với bọn này chỉ vô ích: chúng cấu kết với
nhau và ăn cánh với đám giám thị.
Đằng
trước Sukhov còn mười người nữa, sau anh
có bẩy người. Bây giờ Sezar mới tới, cúi
người bước vào, đầu đội chiếc
mũ lông mới của nhà gửi cho. (Lại nói chuyện
mũ. Sezar đã đút lót cho kẻ nào đó nên
được đội chiếc mũ kiểu thành
phố sạch sẽ, mới toanh của mình. Chứ còn
những tù nhân khác, thậm chí những người bị
đưa thẳng từ mặt trận tới, cũng
bị lột mất mũ, thay vào là loại mũ da
lợn bẩn thỉu, tồi tàn).
Sezar
mỉm cười với Sukhov và ngay lập tức
bắt chuyện với một gã gàn dở đứng
trong hàng và đọc báo suốt:
-
A, a! Petr Mikhailych!
Tay
bắt mặt mừng, họ cười tươi
như hoa. Gã gàn dở khoe:
-
Xem đi, tôi có Tin tức buổi chiều mới
đây! Vừa nhận được bưu phẩm xong.
-
Thế á!? - Lập tức Sezar chúi mũi ngay vào tờ báo.
Đèn trần thì lờ mà lờ mờ, họ đọc
thế quái nào được những chữ nhỏ li ti
như thế kia nhỉ?
-
Ở đây có một bài nhận xét hết sức thú
vị về buổi công diễn của Zavadski*...
Mấy
cha người Moscva này, từ đằng xa đã đánh
hơi thấy nhau, giống in bọn chó. Và khi tới
gần thì cứ xán vào nhau mà ngửi lấy ngửi
để theo kiểu của mình. Rồi anh nào anh ấy
liến thoắng như thể thi xem ai nói được
nhiều hơn. Suốt cả câu chuyện chỉ có
được vài từ tiếng Nga, nghe họ cứ
như dân Letoni hay dân Rumani nói chuyện vậy.
Tuy
nhiên, Sezar không quên mang theo bao và túi.
-
Sezar Marcovich... thế tôi đi nhé - Sukhov nói giọng
đơn đớt. - Tôi đã đi được
chưa, hở anh?
-
Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi, - Sezar vểnh
bộ ria đen khỏi tờ báo. - Có điều tôi
đứng sau ai? Ai đằng sau tôi?
Sukhov
chỉ cho hắn đứng sau ai và trước ai,
rồi không đợi Sezar nhớ tới bữa tối, anh
hỏi luôn:
-
Có mang bữa tối về cho anh không?
(Tức
là bữa tối đựng trong một cái hộp
được mang thẳng từ nhà ăn về trại
xá. Thực ra việc làm này bị nghiêm cấm và xung quanh nó
hết luật nọ đến luật kia
được ban ra. Nếu họ bắt được
anh mang thức ăn về phòng, lập tức họ
sẽ đổ xuống đất, còn anh sẽ bị
phạt nhốt nhà đá. Cấm như vậy song anh em
vẫn cứ lén mang bữa tối về, bởi nhiều
khi có ai đó bị kẹt công chuyện sẽ chả có
cách nào kịp về ăn với đội của mình).
Sukhov
hỏi Sezar, song trong bụng lại nghĩ: “chả nhẽ
ông lại bần tiện tới mức không biếu
lại cho tôi xuất tối được sao? Bữa
tối nào có cái gì, cháo không, chỉ rặt canh rau loãng
hoét!...”.
-
Không, không, - Sezar mỉm cười, - anh cứ giữ
lấy xuất của tôi mà ăn, Ivan Denisych!
Sukhov
chỉ chờ có thế! Bây giờ anh như con chim tự
do lao vụt khỏi mái hiên nhà - và bay khắp khu trại.
Anh
em phạm tản mát khắp mọi nơi trong trại. Có
một dạo trại trưởng ra một cái lệnh
nghiêm cấm phạm đi lại một mình trong trại,
đi đâu cả đội phải xếp hàng cùng
đi, trừ nhà xí và trạm xá là những nơi toàn
đội không thể vào cùng lúc được, thì có
thể đi thành từng tốp bốn năm
người một. Mỗi tốp phải cử ra một
toán trưởng, người này có trách nhiệm đưa
anh em đến nơi nào cần đến, đợi
họ và lúc về cũng phải xếp hàng mà về.
Lão
trại trưởng bắt mọi người tuân theo cái
luật kì cục này rất nghiêm nghặt, không một ai
dám làm trái ý lão. Anh nào lớ ngớ đi một mình
để giám thị vồ được, thì nhà đá
chờ anh ta là cái chắc. Nhưng rồi lệnh đó
bị cũng bị bãi bỏ. Không bị bỏ ngay
lập tức, mà dần dần, như tất cả
những cái lệnh đao to búa lớn và thậm vô lí khác.
Chẳng hạn, khi chúng gọi một ai đó lên,
chẳng nhẽ lại phải lôi cả đội lên theo,
hay ai đó đi lĩnh đồ tiếp tế cũng
lại bắt cả đội đi cùng với mình.
Hoặc người này muốn tới Ban Văn hoá Giáo
dục để đọc báo, song ai là người đi
theo anh ta tới đó? Còn người kia lại muốn
đi chữa đôi ủng hay phơi quần áo. Rồi
lại còn có những tay chỉ muốn sang các trại khác
để tán gẫu (việc này nghiêm cấm hơn
cả), ai mà quản cho được.
Bằng
cái lệnh ấy viên trại trưởng muốn
cướp đi cái tự do cuối cùng, song hắn, cái
lão bụng phệ ấy, đã không đạt
được.
Trên
đường về, Sukhov chạm trán một tên giám
thị, anh vội bỏ mũ chào hắn rồi chuồn
lẹ vào trại mình. Trong trại hệt như đang
họp chợ: kẻ kêu trong khi đi làm bị mất
mất phần bánh mì và chửi bới bọn cần
vụ om sòm. Bọn này cũng chửi trả lại ác
liệt. Cái góc của đội 104 không có ai.
Đối
với Sukhov buổi tối nào đi làm về mà cái nệm
giường của mình không bị lật tung lên, ấy là
một buổi tối may mắn - chỗ của mình đã
không bị lục soát.
Sukhov
chạy về giường, vừa chạy vừa cởi
áo bông. Anh ném chiếc áo và bao tay có giấu miếng sắt
rồi lần tay vào bên trong nệm. Miếng bánh vẫn
còn. May mà buổi sáng anh đã kịp khâu lại.
Bây
giờ thì yên trí mà chạy ra ngoài, tới nhà ăn ngay!
Anh
chạy ngang qua sân trại, không đụng một tên giám
thị nào. Chỉ gặp anh em phạm đi ngược
chiều đang cãi vã nhau về khẩu phần.
Trên
trời, trăng mỗi lúc một tỏ. Những ngọn
đèn mờ đi và bóng các trại đổ dài xuống
sân. Lối dẫn vào nhà ăn dưới một mái che
lớn, có bốn bậc thềm cũng nằm trong bóng
tối. Nhưng phía trên có một chiếc đèn chiếu
sáng đung đưa trong giá lạnh. Xung quanh bóng đèn có
những quầng sáng trông như tán cầu vồng, không
hiểu do khí trời lạnh hay do bóng đèn bẩn.
Viên
trại trưởng còn ban bố một cái lệnh khắc
nghiệt nữa: tất cả các đội phải
xếp hàng hai để đến nhà ăn, và khi tới
bậc thềm, trước cửa nhà ăn, các
đội chuyển thành hàng năm đứng đó
đợi cho tới khi tên cần vụ nhà ăn cho vào bên
trong. Bám chặt lấy công việc này là tên Thọt.
Cũng chẳng biết hắn chạy chọt như
thế nào để được xếp vào loại
phạm tàn tật, chứ thực ra hắn đâu có
đến nỗi nào. Hắn có một cái roi làm bằng cành
bạch dương và đứng trên bậc thềm nhà
ăn vụt vào những ai không nghe lời hắn. Song không
phải ai hắn cũng đánh. Mắt tên Thọt này
rất tinh, hắn có thể nhận ra trong bóng tối,
đằng sau lưng, những ai cần phải tránh.
Đó là những người sẵn sàng cho hắn một
quả vào mõm. Hắn chỉ đánh những kẻ hèn
yếu. Sukhov cũng đã bị hắn phang cho một
lần rồi.
Gọi
là “cần vụ”, song xét cho cùng hắn là bố tướng!
- hắn bắt thân với bọn đầu bếp!
Bữa
tối nay có nhiều đội đến cùng lúc, mãi mà
bọn chúng không ổn định được trật
tự. Phạm đứng đầy chật ở ngoài
hiên. Không có giám thị, chỉ có bọn đầu cứt
là tên Thọt, tên tù giúp việc cho hắn và tên quản lí
nhà ăn đang hò hét hướng dẫn anh em.
Tên
quản lí nhà ăn là một thằng khốn, to như
hộ pháp. Đầu hắn như quả bí ngô, vai ngang
một thước. Hắn nhiều sức lực tới
mức không đi như người bình thường mà
cứ nhún nhẩy như thể chân tay hắn
được gắn lò so. Hắn đội một
chiếc mũ lông trắng không đánh số. Dân “bên ngoài”
cũng chằng có mấy người có được cái
mũ như thế. Hắn còn mặc một chiếc áo
khoác lông cừu, số tù đính ở trên ngực nhỏ
bằng con tem, - đây là sự nhượng bộ
đối với Volkov, - đằng sau lưng áo hoàn toàn
không số. Tên quản lí nhà ăn chẳng bao giờ chào
hỏi một ai và tất cả các phạm đều
sợ hắn. Cả ngàn sinh mạng nằm trong một tay
hắn. Có lần anh em tính cho hắn ăn trận đòn
hội chợ, nhưng cả bọn đầu bếp ùa
ra cứu hắn, cái bọn mặt thịt nung núc ấy.
Bây
giờ mà đội 104 đã vào nhà ăn rồi thì gay to.
Thằng Thọt này thuộc mặt cả trại, và
chừng nào có mặt tên quản lí nhà ăn, thì dù có trà
trộn vào đội khác cũng đừng hòng lọt
khỏi mắt hắn. Hắn loại anh ra ngay. Cũng có
người trèo qua hàng tay gỗ vịn đằng sau
lưng tên Thọt để lọt vào nhà ăn, song có tên
quản lí ở đấy thì đừng có hòng thoát,
hắn còn tống cho anh một quả bắn sang tận
trạm xá trại như chơi.
Phải
chạy cho thật nhanh, thật nhanh tới cái hiên kia, chen
vào đám đông đen ngòm áo khoác bông, người nào
cũng giống như người nào, để xem xem
đội 104 có còn đó không. Nhưng người các
đội đang đứng chật cứng (không chen vào
đâu được, thì sắp hết giờ rồi còn
gì!), thật chẳng khác gì một trận công đồn,
tiến lên được một bậc, hai bậc, ba
bậc, rồi bốn bậc, lên tới hàng hiên rồi!
-
Dừng lại, mấy thằng chó! - Thằng Thọt gào
lên, tay vung roi trên đầu những người
đứng ở phía trên. - Có lùi lại không, tao cho một
nhát nát đầu bây giờ!
-
Chúng tôi làm gì nào? - Những người phía trên cũng gào
lên. - Đằng sau họ chen lên đấy chứ!
Thì
ai chẳng biết là đằng sau chen lên, nhưng mấy
cha ở trên nào có chống trả gì đâu, cũng muốn
được chen bật vào bên trong chết cha đi. Khi
đó thằng Thọt cầm ngang cây gậy đưa lên
ngực như một thứ rào cản và dùng hết
sức đẩy những người phía trên lùi lại.
Tên giúp việc cũng nắm lấy cây gậy đẩy
giúp hắn, và tên quản lí nhà ăn không ngại bẩn tay
cũng nắm lấy cây gậy và không ngại bẩn
mồm, chửi bới loạn xị ngậu.
Ba
tên ra sức đẩy, sức lực chúng có thừa, thì
có bao nhiêu thịt chúng đớp hết cả, làm gì
chẳng thừa sức. Những người phía trên
bị xô vào những người đằng sau, cả
bọn cũng ngã xuống như những con quay.
-
Mẹ cha thằng Thọt! - Một vài người trong
đám đông chửi hắn, nhưng không dám chường
mặt ra. Những người khác im lặng ngã, im
lặng đứng dậy, cố gắng cho thật nhanh
để khỏi bị giẫm lên.
Các
bậc thềm quang hẳn. Viên quản lí quay vào bên trong nhà
ăn, còn thằng Thọt thì đứng trên thềm gào
thét:
-
Xếp hàng năm, đồ con lừa, đã bao nhiêu
lần nói với chúng mày rồi hả!? Khi nào
được thì người ta khắc cho vào!
Sukhov
nhìn thấy ở tận trên cùng hình như là cái đầu
của Senka Klevsin. Anh mừng quá, vội vàng chen vai, huých
cánh, cố len lên trên, nhưng chỉ thấy toàn những
lưng là lưng đang chuyển động phía
trước. Chẳng còn hơi sức đâu mà chen lên
được.
-
Đội hai mươi bẩy! - Thằng Thọt hét, -
đi vào!
Đội
27 chạy vọt qua các bậc thềm, xô nhau tiến
gần tới cửa nhà ăn. Những người
đằng sau lại tiếp tục xô lên, những
người ở đằng sau nữa ra sức
đẩy. Sukhov cũng lấy hết sức mà
đẩy. Bậc thềm rung chuyển, bóng đèn mắc
trên mái hiên đung đưa.
-
Lại đẩy nhau, bọn khốn kiếp này!
Thằng
Thọt nổi cơn điên, thế là cây gậy cứ
thế phang xuống, kẻ trúng vai, người trúng
lưng, lại ngã rạp xuống.
Lại
quang quẻ.
Từ
phía dưới Sukhov nhìn thấy Pavlo đã tiến tới
bên tên Thọt. Pavlo đảm nhiệm việc đưa
đội vào nhà ăn. Turin không thích dây vào những chỗ
lộn xộn như thế này.
-
Đội một lẻ bốn, xếp thành hàng năm!-
Pavlo đứng trên hét xuống. - Các bạn, tránh ra một
chút để anh em đi qua!
Bạn
bè cái củ chuối, đợi đấy!
-
Ê, tránh cái lưng ra, cho qua nào! Đội của tôi
đấy! - Sukhov giật người đằng
trước. Người này sẵn lòng cho anh đi qua, song
anh ta cũng bị kẹt cứng tứ phía.
Đám
đông nghiêng ngả, bóp cổ nhau để giành cho
được bát súp rau loãng. Bát súp hợp pháp.
Khi
đó Sukhov bèn xoay cách khác: anh bám chặt lấy cầu tay vịn
mé trái bậc thềm, đu người lên rồi
chuyền bổng sang phía bên kia. Chân anh đập phải
đầu gối ai đó, họ đạp lại anh cùng
với những tiếng chửi rủa, nhưng anh đã
lên được phía trên, đứng một chân trên cái
bậc trên cùng và đợi. Anh em trong đội nhìn
thấy anh liền chìa tay ra đón.
Tên
quản lí ngó ra ngoài cửa:
-
Ê, Thọt, cho thêm hai đội vào!
-
Đội một lẻ bốn! - Tên Thọt hô to. - Còn mày,
thằng khốn nạn kia, định lẻn đi
đâu thế hả?! Và ngọn roi lại vút trên cổ
một người đội khác.
-
Một lẻ bốn! - Pavlo gào lên và cho những
người đội mình đi qua cửa.
-
Ph-ù! - Sukhov đã lọt được vào nhà ăn. Và không
đợi Pavlo bảo, anh vội đi kiếm những
chiếc khay không. Bên trong nhà ăn, như mọi khi, khói
bốc từng đám ở phía cửa ra vào, xung quanh bàn
ăn phạm ngồi chật cứng, như thể
hạt hướng dương xếp trên đài hoa, còn
ở lối đi giữa các bàn người đi
lại, tay bê những khay đầy chặt bát, chen
lấn, xô đẩy lẫn nhau.. Nhưng Sukhov, với
ngần ấy năm tù đày, đã quen với cảnh
đó. Mắt tinh như mắt cú, ngay lập tức anh
nhìn thấy S-208 bưng cái khay trên đó chỉ có năm
bát, có nghĩa đó là khay cuối cùng của đội
hắn, nếu không thì tại sao khay lại không
đầy?
Sukhov
chạy lại phía hắn và ghé vào tai hắn nói:
-
Anh bạn! Xong cho tớ cái khay nhé, tớ xếp hàng sau
cậu đấy!
-
Nhưng có người đứng ở cạnh cửa tò
vò xí phần rồi, tôi đã hứa...
-
Tọng giầy vào mồm nó thì có. Cho nó chờ,
đứng đấy mà ngáp!
Sukhov
đã dàn xếp xong.
Tay
này bê khay tới bàn của đội mình, bày bát lên, Sukhov
giật vội lấy chiếc khay không. Nhưng ngay lúc
ấy tên xí trước chiếc khay chạy tới,
chộp lấy đầu kia của chiếc khay, giằng
lại. Song hắn nhỏ con và ốm yếu hơn Sukhov.
Sukhov dùng chiếc khay đẩy mạnh về phía hắn
khiến hắn bắn văng vào cột nhà, tay rời
khỏi chiếc khay. Sukhov cắp khay vào nách chạy vù ra
phía cửa sổ phát đồ ăn.
Pavlo
đã đứng xếp hàng và đang bực mình vì chưa
kiếm được khay. Hắn mừng rơn khi nhìn
thấy Sukhov mang khay tới:
-
Ivan Denisovich! - Hắn gọi và đẩy đội phó
đội 27. - Cho lên cái nào! Không có khay thì đứng ở
đây làm gì? Tôi có khay đây này!
Thằng
lỏi con Gopchik cũng vác về thêm một khay nữa,
miệng cười toét:
-
Các chú ấy không để ý, thế là cháu chớp luôn!
Thằng
Gopchik này sẽ trở thành một phạm chân chính đây.
Chỉ cần ba năm nữa thôi, đợi lớn thêm
một chút, học đủ được các mánh khoé,
xảo thuật trong tù, thì bét nhất hắn cũng giành
được cái chân chia bánh mì, có khi còn hơn thế.
Chiếc
khay thứ hai Pavlo bảo đưa cho Ermolaiev - một
phạm người Siberi to lớn (cũng bị tù vì
tội bị quân Đức bắt làm tù binh). Còn Gopchik
được phái đi kiếm lấy cái bàn nào đã
“dùng bữa” xong. Sukhov đẩy chiếc khay qua lỗ
cửa tò vò và đứng đơi.
-
Một lẻ bốn! - Pavlo nói chõ vào phía trong cửa.
Có
tất cả năm lỗ cửa tò vò: ba cửa phát
đồ ăn chung, một cửa giành phát thức ăn
cho những người ốm (có mười tên đau
dạ dày thực sự được phát đồ
ăn đặc biệt, bọn trên bộ phận tài
vụ thì do chạy chọt mà lọt được vào
danh sách này), còn một cửa để trả lại bát
đĩa đã dùng (ở cửa này chen chúc những
kẻ mót thức ăn thừa, bọn liếm
đĩa). Những lỗ cửa tò vò không cao lắm,
chỉ nhỉnh hơn thắt lưng một chút, nên
mặt bọn đầu bếp không nhìn rõ, chỉ
thấy những cái tay cầm môi.
Một
tên đầu bếp có bàn tay trắng muốt, mềm
mại, nhưng đầy lông và to tướng. Một võ
sĩ quyền anh đúng hơn là một đầu
bếp. Hắn cầm lấy bút chì đánh dấu danh sách
treo trên tường:
-
Một lẻ bốn - hai mươi tư bát!
Thằng
Panteliev cũng có mặt ở trong nhà ăn. Hắn có
đau ốm gì đâu, đồ chó đẻ.
Tên
bếp cầm một cái môi to tướng áng chừng múc
được ba lít, khuấy đi khuấy lại
vạc súp (chiếc vạc trước mặt hắn còn
mới, súp vừa đổ vào đầy gần tới
miệng, hơi bốc nghi ngút). Sau khi đổi sang
chiếc môi múc được 750 gram, hắn bắt
đầu múc súp, nhưng không ấn môi sâu xuống
dưới.
-
Một, hai, ba, bốn...
Sukhov
để ý ngó xem tô nào múc trước khi cái kịp
lắng xuống đáy vạc, tô nào lèo tèo tí cái, còn lại
toàn nước. Anh đặt mười bát lên khay và bê
đi. Gopchik vẫy anh từ chiếc bàn cạnh dãy
cột thứ hai:
-
Lại đây, chú Ivan Denisovich! Lại đằng này!
Bê
mấy bát súp tay không được run. Sukhov tay bưng
khay, bước như lướt, cố không va vào ai và
cố không để súp sánh ra ngoài:
-
Ê, K- 902! Cẩn thận tí ông bác!... Nhường
đường nào, chàng trai!
Trong
đám đông bưng một bát không làm sánh, làm đổ
đã là khó, đằng này những mười bát. Cuối
cùng khay súp cũng hạ cánh an toàn xuống cuối
chiếc bàn đã được Gopchik dọn sẵn, không
rớt ra ngoài lấy một giọt. Thêm nữa, Sukhov
cũng đã chọn được cái góc để
đặt khay, sao cho hai bát súp có nhiều cái nhất ở
ngay chỗ anh sẽ ngồi.
Và
Ermolaev cũng mang tới mười bát nữa. Gopchik
chạy tới lỗ cửa tò vò, cùng Pavlo mỗi
người bưng nốt hai bát. Còn Kildigs bê một khay
bánh mì tới. Hôm nay bánh được phát theo năng
xuất - người được hai trăm gram,
người ba trăm, còn Sukhov được bốn
trăm. Anh nhận lấy phần của mình, chỗ bánh
có nhiều cùi ngon, còn hai trăm gram của Sezar anh chọn
phần giữa bánh.
Bây
giờ anh em trong đội từ khắp các bàn chạy
tới lĩnh xuất tối của mình, rồi ai
kiếm được chỗ ở đâu thì ngồi
đấy mà ăn. Sukhov chia súp cho anh em, để ý xem ai
đã nhận phần rồi và canh chừng cái bát đã
chọn sẵn cho mình. Anh cắm chiếc thìa vào một bát
có nhiều cái, coi như đã xí phần. Fechiukov là một
trong những người đầu tiên tới nhận
phần rồi đi luôn: hắn biết chẳng hòng mong
được thêm miếng thừa nào ở cái đội
này cả, tốt nhất lượn khắp nhà ăn, may
ra còn kiếm được của bỏ mứa của
ai đó - của này lắm lúc bị vài người
chạy tới giành giật chẳng khác gì lũ diều
hâu.
Sukhov
tính toán các xuất chia với Pavlo. Nghe chừng ổn
thoả cả. Anh chọn một bát có nhiều cái cho
đội trưởng Turin. Pavlo đổ bát súp vào
một cái cà mèn dẹt của quân đội Đức -
thứ này nhét vào phía trong áo khoác, sát chỗ ngực, dễ
mang đi hơn.
Khay
đựng đồ ăn được chuyển cho
đội khác. Pavlo ngồi xuống ăn khẩu phần
đúp của mình. Sukhov cũng có hai xuất. Họ không nói
thêm một lời nào với nhau nữa. Giây phút thiêng liêng
đã tới.
Sukhov
cởi mũ, kẹp vào giữa hai đầu gối. Anh
lấy thìa ngoáy thử một bát, rồi bát kia. Không
đến nỗi nào, còn nhìn thấy thấp thoáng vài
mẩu cá. Nhìn chung súp bữa tối bao giờ cũng loãng
hơn bữa sáng: bữa sáng phải cho phạm ăn no
để mà làm việc, chứ bữa tối thì làm cái quái
gì, chỉ có việc lăn ra mà ngủ như chết,
ăn thế nào chẳng được.
Sukhov
bắt đầu ăn. Thoạt đầu anh húp thứ
nước lõng bõng ở trên, húp cho cạn. Hơi ấm
lan khắp cơ thể anh - toàn thể lục phủ
ngũ tạng của anh run rẩy đón chờ cái
thứ nước súp này. Ôi chà, mới ngon làm sao! Nó đấy,
cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đấy, tù
nhân chỉ vì nó mà sống thôi đấy! Lúc này Sukhov không
còn thấy oán hận gì cả: cả cái thời hạn lê
thê, cả cái ngày dài đằng đẵng, cả cái
chủ nhật không được nghỉ. Lúc này trong
đầu anh chỉ một ý nghĩ: sẽ qua
được! Rồi ta sẽ qua được hết,
Chúa trời mà thương rồi cũng sẽ tới ngày
mãn hạn!
Sau
khi húp hết nước ở bát thứ nhất, anh húp
luôn bát thứ hai, sau đó trút hết chỗ cái của bát
này sang bát kia, dùng thìa vét cho sạch nhẵn. Như thế
yên tâm hơn, khỏi phải canh chừng cái bát thứ hai,
khỏi phải giữ nó bằng tay, bằng mắt.
Rảnh
mắt Sukhov ngó sang bát súp của những người bên
cạnh. Người ngồi bên trái anh nhận
được một bát tinh những nước là
nước. Bọn khốn kiếp, chúng đối đãi
với anh em cùng cảnh tù với mình như thế
đấy!
Sukhov
bắt đầu ăn những miếng bắp cải
cùng những thứ còn lại trong bát. Anh còn
được cả một củ khoai tây trong cái bát mà
Sezar cho anh. Một củ khoai tây không to lắm, loại
khoai chết rét, sường sượng, đã mất
vị ngọt. Và chả có miếng cá nào, chỉ loáng thoáng
vài cái xương không dính thịt. Nhưng dù là một cái
xương nhỏ, cái vây nhỏ, cũng cố mà nhai, mà
hít lấy chút nước ngọt - bổ lắm
đấy. Tất nhiên, làm tất cả những thứ
đó mất thời gian thật, nhưng bây giờ Sukhov
đâu có vội. Hôm nay là một ngày lễ đối
với anh: bữa trưa anh xoay được thêm một
xuất, bữa tối anh cũng lại kiếm
được thêm một xuất nữa. Làm
được việc này thì các việc còn lại
đều có thể dẹp đi được. Có
điều phải tới chỗ thằng cha Latvi
để mua lấy ít thuốc lá. Đến sáng chắc
sẽ chẳng còn sợi nào.
Sukhov
ăn bữa tối không đụng đến khẩu
phần bánh mì: đã được hai xuất súp, lại
còn ăn thêm bánh mì thì bổ quá. Bánh mì để dành cho sáng
mai. Cái bụng là một kẻ vô ơn, rất mau quên
việc thiện ta làm cho nó, sáng mai lại nheo nhéo đòi
ăn ngay cho mà xem.
Sukhov
ăn sắp hết hai xuất súp của mình và chẳng
buồn nhìn những người xung quanh, bởi chẳng
còn cần thiết nữa: anh không kiếm cách để
săn lùng xuất mới, chỉ ăn cái phần mình
được hưởng.
Nhưng
anh vẫn nhìn thấy ngay trước mặt mình, cách
một bàn, có một chỗ trống và ông già đeo
biển số U-81 ngồi xuống đó. Sukhov biết ông
già này ở đội 64, và khi đứng xếp hàng cho
Sezar ở chỗ nhận đồ tiếp tế, anh được
biết đội 64 hôm nay phải làm ở Khu Dịch Xá
thay cho đội 104 và suốt cả ngày họ phải làm
ngoài trời không có chỗ sưởi, để chăng
giây thép gai giam giữ chính mình.
Người
ta nói với Sukhov rằng ông già này đã ngồi ở các
trại giam, nhà tù không biết bao lâu rồi, chính quyền
Xô Viết đã có bao nhiêu năm nay, song chưa bao giờ
ông được xét ân xá, cứ hết mười
năm, người ta lại bồi cho ông thêm mười
năm nữa.
Bây
giờ thì anh ngắm ông già kĩ hơn. Khác với tất
cả những ông già lưng gù trong trại, lưng của
ông già này rất thẳng, và khi ngồi ở bàn ăn trông
ông như thể ngồi trên một cái ghế
được lót thêm cái gì đó cho cao thêm. Đã lâu rồi,
trên cái đầu trọc của ông chả còn gì để
mà cạo - tóc tai rụng sạch vì cuộc sống quá sung
sướng. Cặp mắt ông già không đảo quanh nhà
ăn để xem những việc đang xảy ra, mà
nhìn đăm đăm vào một cái gì đó ở phía trên
đầu Sukhov, cái mà không một ai nhìn thấy. Ông từ
tốn ăn tô súp loãng bằng chiếc thìa gỗ đã mòn
vẹt, song không gục mặt xuống bát như những
người khác, mà đưa thìa súp lên miệng mình. Răng
của ông không còn lấy một chiếc, cả hàm trên,
lẫn hàm dưới, ông dùng hai hàm lợi cứng như
xương để nhai bánh mì thay cho răng. Khuôn mặt
ông mòn mỏi, song không đến nỗi yếu ớt,
thiểu não như bọn người tàn tật mất
hết sức sống, mà đen xạm, trông như tạc
bằng đá. Và nhìn đôi tay to tướng, méo mó sần
sùi, cũng có thể thấy được rằng
ngần ấy năm rất hiếm khi ông được
làm công việc nhẹ. Song trong ông hằn rõ ý chí không
chịu khuất phục: ba trăm gram bánh mì ông không
để xuống mặt bàn nhơ nhớp như mọi
người, mà đặt lên một miếng giẻ
nhỏ được giặt sạch sẽ.
Nhưng
Sukhov không có thời gian để ngắm nghía ông già. Ăn
xong anh liếm sạch thìa rồi nhét lại nó vào ống
giầy ủng, chụp mũ lên đầu, đứng
dậy, cầm lấy khẩu phần bánh mì của mình và
của Sezar. Anh đi khỏi nhà ăn bằng một
cửa khác. Ở đây cũng có hai tên cần vụ, chúng
đứng đó chỉ để làm mỗi một
việc, mở chốt cửa cho anh em ra, rồi lại
đóng chốt cửa lại.
Sukhov
ra khỏi nhà ăn với cái bụng no và tự hài lòng
về bản thân. Anh quyết định, dù sắp
sửa tới giờ tắt đèn, vẫn cứ phải
tới chỗ thằng cha Latvi. Anh chạy thẳng tới
trại số bảy, không rẽ qua trại mình để
cất bánh mì.
Trăng
đã lên cao, trắng ngần, trong trẻo như thể
được cắt ra từ bầu trời. Và bầu
trời cũng trong veo. Những ngôi sao đó đây lấp
lánh, sáng rỡ. Nhưng Sukhov lại càng ít thời gian
để nhìn lên trời mà ngắm trăng sao. Anh chỉ
cảm thấy rõ một điều: băng giá không hề
giảm bớt. Có ai đó nghe được từ
những người ở bên ngoài nói rằng ban đêm
sẽ xuống tới âm ba mươi độ, còn
đến sáng - âm bốn mươi.
Từ
rất xa trong thôn vẳng lại tiếng máy cày, còn mé bên
đường chiếc máy xúc rít lên. Từng bước
chân người đi trên sân trại đều để
lại tiếng ủng nghiến tuyết răng rắc.
Trời
lặng gió.
Thuốc
lá sợi mà Sukhov mua, cũng như mọi lần
trước đây, - một rúp một cốc, mặc dù
một cốc như vậy ở bên ngoài phải tới
ba rúp, có khi đắt hơn, nếu là thuốc ngon. Ở
trong trại khổ sai mọi thứ đều có giá riêng,
không giống bất cứ ở đâu, là vì tiền không
được phép giữ ở trong trại, ít
người có, nên chúng rất có giá. Anh em làm việc trong
trại nhưng không được trả lấy một
xu (hồi ở trại Ust-Izma Sukhov cũng còn
được lĩnh ba mươi rúp một tháng). Còn anh
nào được gia đình gửi tiền qua bưu
điện, thì người ta cũng không cho nhận mà
giữ lại cho vào trương mục cá nhân. Tiền
đó có thể rút tháng một lần để mua xà phòng
giặt, bánh mốc, thuốc lá “Prima” trong kho của
trại. Nhưng mỗi lần mua đều phải làm
đơn lên trại trưởng và chỉ
được mua đúng số hàng đã ghi trong
đơn. Hàng mua rồi, thích hay không thích vẫn cứ
phải dùng, vì nếu không mua thì đằng nào tiền cũng
mất, họ sẽ lấy ra khỏi trương
mục.
Sukhov
kiếm được tiền bằng những công
việc vặt vãnh: khâu một đôi dép từ giẻ rách
giá hai rúp, vá áo trấn thủ giá cả thoả thuận.
Trại
7 không giống trại 9 của anh, không ngăn thành hai phòng
lớn. Ở trại này có một hành lang dài, dọc theo
đó trổ ra mười cái cửa của mười
phòng riêng. Mỗi đội ở trong một phòng và
mỗi phòng kê bẩy cái giường tầng, có cầu
tiêu riêng. Đội trưởng được một
phòng nhỏ. Đám mấy ông hoạ sĩ ở đây,
sống trong một cái phòng như thế.
Sukhov
bước vào phòng nơi có anh chàng người Latvi. Anh
chàng này nằm ở giường tầng dưới, hai
chân ghếch lên thành giường, đang thao thao nói
chuyện bằng tiếng Latvi với tay đồng
hương bên cạnh.
Sukhov
tiến tới cạnh hắn. Xin chào. Chào - tên Latvi đáp
lại, nhưng không bỏ chân xuống. Gian phòng nhỏ, vì
thế, hễ có ai vào là lập tức thiên hạ vểnh
tai lên nghe ngóng: ai tới, tới để làm gì. Cả hai
người đều biết như vậy, nên Sukhov thong
thả ngồi xuống giường, bắt đầu
con cà, con kê: sống ra sao, khoẻ chứ? Vẫn thường.
Hôm nay lạnh gớm nhỉ. Ừ.
Sukhov
chờ cho mọi người tiếp tục câu chuyện
bỏ dở của mình (họ đang nói về chiến
tranh ở Triều Tiên và cãi nhau: không biết Trung Quốc
nhẩy vào rồi, liệu chiến tranh thế giới có
nổ ra hay không).
Sukhov
cúi xuống ghé vào tai tên Latvi, hỏi:
-
Có thuốc không?
-
Có.
-
Cho xem nào.
Tên
Latvi nhấc chân khỏi thành giường, hạ xuống
sàn nhà và ngồi dậy. Tên này chúa keo kiệt. Hắn lúc nào
cũng sợ đổ thuốc vào cốc quá tay, dù số
thuốc ấy chỉ cuộn được một
điếu.
Hắn
cho Sukhov xem cái túi thuốc, rồi mở ra.
Sukhov
bốc ra một ít sợi thuốc, bỏ vào lòng bàn tay và
thấy vẫn là thứ thuốc như lần
trước, cũng mầu nâu vàng và sợi cũng tơi
như vậy. Anh đưa lên mũi ngửi - đúng là
thứ thuốc ấy, nhưng anh vẫn nói với tên
Latvi:
-
Có vẻ như không phải thuốc lần trước.
-
Vẫn thuốc ấy! Vẫn thuốc ấy! - Tên Latvi
cáu, - tôi chẳng có loại nào khác, lúc nào cũng chỉ
một loại ấy thôi.
-
Thôi, được rồi, được rồi, - Sukhov
chấp nhận, - cậu nhồi cho tớ một cốc,
tớ hút thử, có thể sẽ lấy thêm cốc
nữa.
Anh
nói “nhồi”, là vì tên này chuyên có cái lối đổ sợi
thuốc vào cốc, không chịu ấn xuống, cứ
để lồng phồng như vậy. Tên Latvi lôi từ
dưới gối một túi thuốc khác to hơn gói ban
đầu và mở cái tủ nhỏ đầu
giường, rút ra cái cốc nhựa. Cốc là cốc
nhựa, nhưng Sukhov đã đọ rồi, đựng
đúng bằng cốc thuỷ tinh. Tên Latvi rũ thuốc
bỏ vào cốc.
-
Ấn xuống, cậu phải ấn nó xuống chứ! -
Sukhov nói với hắn và tự lấy tay ấn thuốc
trong cốc xuống.
-
Biết rồi! - Tên Latvi đổ quạu, giằng
lấy chiếc cốc, tự ấn thuốc xuống,
nhưng nhẹ tay hơn, và lại đổ thuốc vào.
Trong
khi đó Sukhov mở khuy áo trấn thủ, lần tay vào bên
trong lần lót chỗ để tờ giấy bạc. Anh
lấy ngón tay khẽ đẩy tờ giấy bạc qua
lần bông, tới cái lỗ nhỏ mà anh đã khoét và khâu
lược lại vài mũi. Khi tờ giấy bạc
chạm vào cái lỗ nhỏ, anh lấy móng tay khẽ kéo
chỉ, nới rộng ra, gấp tờ giấy bạc
nhỏ lại theo chiều dài, rồi rút nó ra khỏi
lỗ. Hai rúp. Tờ giấy bạc đã cũ, không còn kêu
sột soạt.
Trong
phòng lúc đó có tiếng người kêu lên:
-
Anh tưởng thằng già râu khốn nạn thương
anh lắm hả! Đến em ruột nó mà nó còn không tin,
nữa là cái đồ quê mùa dốt nát như anh!
Ở
trong trại khổ sai được cái sướng là tha
hồ tự do phát ngôn. Chứ ở trại Uct-Izma,
chỉ cần thầm thì với nhau rằng ở bên ngài
đến diêm cũng không có bán, lập tức sẽ
được nghỉ trong nhà đá và lĩnh thêm một
hạn mười năm nữa. Còn đây, có gào toáng lên
về bất cứ điều gì cũng chẳng có ma
“ăng ten” nào đi bẩm báo, bọn an ninh cũng
phẩy tay.
Có
điều, làm quái gì có thời gian mà nói về điều
nọ, điều kia.
-
Ê, sao đong lỏng thế hả, - Sukhov càu nhàu.
-
Được rồi, được rồi, thêm cho
đây này! - Tên Latvi bỏ thêm mấy sợi lên phía trên.
Sukhov
rút cái túi đựng thuốc để bên trong cái túi
nhỏ anh khâu thêm vào bên trong áo khoác, đổ thuốc vào.
-
Thôi được, cho một cốc nữa - Sukhov
quyết định, anh không hút thử nữa, vì không
muốn hút điếu thuốc đậm đà
đầu tiên trong khi chạy hộc tốc về
đội mình.
Anh
tiếp tục cò kè với tên Latvi, rồi đổ
nốt cốc thứ hai vào túi, trả hai rúp, gật
đầu chào hắn rồi đi ra. Vừa bước
ra tới sân anh co cẳng chạy về trại của
mình để bắt kịp lúc Sezar mang gói đồ
tiếp tế về.
Nhưng
lúc đó Sezar đã ngồi trên giường tầng
một của mình và ngó chăm chăm vào đống
đồ. Hắn bầy tất cả các thứ vừa
nhận được ra giường và trên nóc cái tủ
con đầu giường. Chỉ có điều chỗ
đó hơi bị tối vì ánh sáng đèn trần đã
bị giường của Sukhov cản lại. Sukhov khom
mình lách vào giữa giường của Sezar và giường
của ông trung tá. Anh chìa xuất bánh mì bữa tối cho
Sezar:
-
Bánh của anh đây, Sezar Markovich.
Anh
không nói: “Sao, nhận được rồi à?”, là bởi vì
câu đó ngụ ý rằng anh đã xếp hàng hộ và bây
giờ anh có quyền nhận phần của mình. Anh
hiểu mình có quyền, song anh không phải hạng bòn mót,
dù đã ở tù tới tám năm - và càng ở trong tù lâu anh
càng cố giữ bằng được nguyên tắc
của mình.
Tuy
nhiên, anh chẳng thể nào ra lệnh cho đôi mắt
của mình. Mắt anh, mắt người tù khổ sai,
nhanh như mắt diều, loáng một cái đã nhìn
thấy hết những thứ mà Sezar bầy la liệt
trên giường, trên nóc tủ. Và mặc dù có những gói
giấy mới mở nửa chừng, những cái bao
chưa rạch, nhưng thoáng nhìn và đánh hơi, Sukhov
biết liền Sezar đã nhận được giò,
sữa hộp, cá xông khói, mỡ lợn muối, bánh mì
sấy để dành được, bích quy có mùi vị
khác, hai kilô đường viên, có gói gì đó trông giống
như gói bơ tươi, rồi thuốc lá và ống
tẩu, còn nữa, còn nữa.
Anh
đã trông thấy tất cả ngần ấy thứ
chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi khi anh
nói câu: “Bánh mì của anh đây, Sezar Markovich”.
Sezar
thì cứ mê mẩn, mụ mẫm cả người,
hệt như kẻ say (ai nhận được thực
phẩm tiếp tế cũng đều rơi vào tâm
trạng tương tự). Hắn phẩy tay về phía
mấy miếng bánh mà Sukhov chìa ra:
-
Cứ giữ lấy, Ivan Denhisych!
Một
bát súp với hai trăm gram bánh - cả một bữa
tối đầy đủ. Đối với Sukhov đó
là phần thưởng lớn cho cái công xếp hàng của
anh rồi. Ngay lập tức Sukhov gạt phăng cái ý nghĩ
rằng anh có thể được một chút gì đó
trong cái đống đồ của Sezar. Không gì tệ
hơn là hành hạ cái dạ dầy vì những chuyện
chả ra đâu vào đâu.
Mình
còn có bốn trăm gram bánh, cộng với hai trăm gram
của Sezar, lại còn gần hai trăm gram nữa
giấu trong đệm - thế đủ rồi. Hai
trăm gram mình sẽ gặm bây giờ, sáng mai
được nhận năm trăm năm mươi gram
nữa, bốn trăm gram này mình mang đi làm - sống
thế mới là sống chứ! Còn chỗ giấu ở
trong đệm hãng cứ để đấy. Cũng may
mà mình kịp khâu nó vào, chứ như thằng cha ở
đội 75 đấy, để ở trong tủ, khoá
hẳn hoi, bây giờ có mà kiện lên Xô Viết Tối Cao!
Có
nhiều người tưởng rằng người
nhận được đồ tiếp tế như
một cái túi thắt miệng, cứ việc mở ra là
xin được. Nhưng xét cho cùng, thì đồ
đến rồi đồ lại đi. Đôi khi,
trước khi nhận được đồ tiếp
tế, một số người đã chẳng mừng
húm khi mót được chút cháo thừa, hoặc có bị
bắn bỏ cũng cố mà hút cho bằng hết mẩu
thuốc nhặt được. Vậy mà khi nhận
được đồ chẳng lẽ lại không
biếu ông giám thị, anh đội trưởng, cả
tay làm trực tiếp ở chỗ cấp phát? Mà tên này,
nếu không được gì, thì lần sau cứ
đợi đấy, đồ gửi đến
nhưng cả tuần sau cũng không có tên trong danh sách. Khi
mang đồ đến nhà kho để gửi (phần
khỏi mất cắp, phần khỏi bị trấn và
phần vì thủ trưởng đã ra lệnh) - sáng mai,
trước giờ điểm danh, Sezar cũng phải
mang tới đó để gửi - cũng lại phải
cúng cho thằng cha phụ trách ở đấy một
phần khá, bằng không hắn gậm dần gậm mòn
của mình cũng chết. Cả ngày hắn ngồi ở
đó, giống như con chuột gặm nhấm thực
phẩm của người khác, có mà tin hắn
được khối! Rồi còn phải thưởng
công cho những người, như Sukhov chẳng hạn,
và nếu muốn nhận được mấy thứ
quần áo mà ta giặt ở nhà tắm công cộng
được sạch sẽ, tinh tươm, xếp
gọn gàng, thì cũng phải dúi cho bọn người
ở đó chút đỉnh. Cũng còn phải biếu
mấy cha hớt tóc nữa chứ, bằng không hắn
sẽ không chùi con dao cạo lên miếng vải giấy
của hắn, mà chùi thẳng vào đầu gối
để trần của ta, nhiều thì không có, nhưng
cũng phải vài ba điếu thuốc. Rồi còn Ban
Văn hoá Giáo dục, cũng phải tính đến
để thư của ta chúng để riêng ra, không làm
mất. Còn nếu muốn được một ngày
nằm khểnh trên giường mà nghỉ ngơi thì
phải mang biếu ông đốc tờ thứ gì đó.
Rồi còn cả tay hàng xóm dùng chung với ta cái tủ
nhỏ đầu giường, như ông trung tá với
Sezar chẳng hạn, làm sao lại không cho được,
là vì hắn sẽ đếm từng miếng ta bỏ vào
miệng, cho nên, đến một kẻ bần tiện
nhất cũng không thoát được, vẫn phải
bấm bụng mà cho hắn.
Vì
thế cứ kệ cho mọi người ghen ghét, tị
nạnh, những kẻ đứng núi này trông núi nọ,
chứ Sukhov thì trải đời quá rồi, anh hiểu
rằng tuyệt không được ăn không của ai
cái gì.
Anh
tháo ủng và leo lên giường của mình, rút từ trong
bao tay miếng sắt, ngắm nghía nó. Anh tính ngày mai sẽ
cố kiếm một hòn đá mài thật tốt và sẽ
mài miếng sắt này thành một con dao nhỏ dùng cho
việc sửa chữa giầy dép. Mất khoảng ba bốn
ngày gì đó, chịu khó mài vào sáng sớm và buổi tối,
anh sẽ có một con dao nhỏ có lưỡi sắc và
cong. Nhưng từ giờ cho đến mai anh phải
giấu miếng sắt mẻ này đi đã. Anh sẽ
nhét nó vào giữa thanh đòn ngang và tấm gỗ
giường. Và trong lúc ông trung tá chưa đi nằm (anh
không muốn bụi rơi xuống mặt ông), anh kéo
tấm nệm nhồi không phải phoi bào, mà là mùn cưa
nặng chình chịch lên và giấu miếng sắt.
Những
người hàng xóm của anh nằm phía trên: anh chàng
Tẩy lễ Aliosa và cặp Estoni nằm trên giường
kế bên. Song Sukhov không ngại họ.
Fechiukov
đi ngang qua phòng, khóc rưng rức. Vai hắn so lại,
môi chảy máu. Chắc hắn lại bị tẩn ở
trong nhà ăn vì tội giành nhau bát để liếm. Không
nhìn ai và cũng chẳng cần giấu những giọt
nước mắt, hắn đi ngang qua đội, leo lên
giường của mình, vùi mặt xuống đệm. Xét
cho cùng, hắn cũng thật đáng thương. Chắc
hắn không sống nổi cho tới khi mãn hạn. Hắn
không biết cách sống.
Vừa
lúc ông trung tá xuất hiện, phấn khởi, tay xách
một cà mèn trà hãm đặc biệt. Trong trại có
đặt hai thùng gỗ đựng nước trà, song
đó là thứ trà gì vậy? Nó âm ấm và cũng có màu
của nước trà, song nhạt thếch, lại bốc
mùi gỗ mục do cái thùng đã tã thôi ra. Chứ thứ trà
mà Buinovski vừa pha, là trà xin được của Sezar,
trà thứ thiệt, ông bỏ vào cà mèn và chạy đi
đổ nước sôi. Ông trung tá phởn ra mặt, thu
xếp mặt tủ và đặt cà mèn trà quý giá lên đó.
-
Tí nữa thì bỏng tay vì cái vòi nước sôi! - ông khoái trá
khoe khoang.
Ở
phía dưới Sezar bày các thức ăn của hắn lên
những tờ giấy trải ra trên giường. Sukhov
đặt tấm nệm xuống để khỏi
phải nhìn thấy những thứ đó mà thêm não
ruột.
Song
một lần nữa không có Sukhov là không xong việc. Sezar
đứng dậy giữa hai bên giường, nhìn chằm
chằm Sukhov, mắt nháy nháy:
-
Ivan Denhisych! cho tôi mượn Cái mười ngày
của anh với!
Cái mười ngày đây là con
dao díp nhỏ của Sukhov. Anh cũng lại giấu nó
ở khe ván giường dưới tấm nệm. Trông
chả nhỉnh hơn ngón tay út mấy tí, nhưng cắt
được cả miếng ba dọi dầy cỡ
năm đốt ngón tay. Chính Sukhov làm con dao này và luôn mài nó
sắc bén.
Anh
lại mò tay xuống phía dưới đệm, rút con dao
ra rồi đưa cho Sezar. Sezar gật đầu và
ngồi khuất xuống phía dưới.
Có
một con dao như thế cũng kiếm chác
được chút đỉnh. Nhưng nó cũng có giá
của mình. Chỉ cần lộ ra là mười ngày
nằm nhà đá như bỡn. Chính vì vậy phải là
kẻ không còn tính người mới có thể: cho bọn
này mượn con dao để bọn này cắt giò, còn
đẳng ấy hả, đút phân vào mồm đằng
ấy nhé.
Thế
là bây giờ Sezar lại nợ anh nữa rồi.
Xong
xuôi các khoản bánh biếc, dao diếc, lúc này Sukhov mới
lôi cái túi đựng thuốc lá ra. Việc đầu tiên
anh nhón lấy ít sợi thuốc vừa đủ một
điếu mà anh đã vay buổi sáng, đưa trả cho
tên Etoni phía giường bên, nói: “Cám ơn”.
Tên
Estoni nhành môi ra, trông như cười. Hắn lẩm
bẩm cái gì đó với tay đồng hương thân tín
và hai người quấn một điếu hút thử xem
thuốc của Sukhov ra làm sao.
Cứ
thử thoải mái, thuốc của mỗ đây chất
lượng đâu kém thuốc các người. Sukhov
cũng tính hút thử một điếu, song cái
đồng hồ bên trong anh nó báo với anh rằng
chỉ tí nữa thôi là tới giờ điểm danh ban
đêm. Đây chính là thời điểm bọn giám thị
đi rình mò khắp các trại xá. Nếu muốn hút
thuốc, thì ra ngoài hành lang mà hút, nhưng Sukhov lại không
muốn ra, ở trên giường tầng trên của mình
anh cảm thấy ấm hơn. Trong trại xá vẫn
chẳng hề ấm hơn chút nào, vẫn những đám
băng trông như màng nhện bám trên trần. Nhưng lúc
này xem ra vẫn còn chịu được, chứ
đến đêm cứ gọi là run bần bật vì
lạnh.
Sukhov
lấy khoanh bánh mì hai trăm gram bắt đầu bẻ
từng miếng nhỏ bỏ vào miệng và lắng nghe
cuộc trà đàm ở phía dưới giữa ông trung tá và
Sezar.
-
Ăn đi, trung tá, ăn đi, cứ tự nhiên! Cầm
lấy miếng cá hun khói này, cả giò nữa này.
-
Cám ơn, tôi đang ăn đây.
-
Lấy bơ mà phết bánh mì. Bánh mì gối Moscva chính
hiệu đấy!
-
Ái chà chà, không thể tin được ở một nơi
nào đó người ta vẫn làm bánh mì gối. Anh biết
không, bữa tiệc ê hề bất ngờ này làm tôi
nhớ tới một chuyện. Lần ấy tôi tới
Arkhanghelsk...
Tiếng
ồn ở nửa bên kia trại xá có tới cả
trăm giọng, nhưng Sukhov Sukhov vẫn nghe
được tiếng kẻng ở bên ngoài. Chưa
một ai nghe thấy cả. Và Sukhov còn nhìn thấy Kurnosenski,
một tay giám thị trẻ măng, người nhỏ
thó, có bộ mặt hồng hào. Hắn nắm trong tay
một tờ giấy, và cứ nhìn cái cách hắn đi vào
rõ ràng hắn tới trại không phải để bắt
những người hút thuốc trộm trong phòng hay
đuổi phạm ra ngoài để kiểm tra, mà là tìm ai
đó.
Kurnosenski
rà soát lại trên tờ giấy và hỏi:
-
Một lẻ bốn ở đâu?
-
Ở đây, - mọi người đáp lại.
Cặp
Estoni vội dụi điếu thuốc, giấu đi và
lấy tay xua khói.
-
Còn đội trưởng đâu?
-
Anh cần gì? - Turin nằm trên giường, chỉ
đặt một chân xuống sàn.
-
Mấy người trong đội anh đã viết
tường trình chưa?
-
Họ đang viết! - Turin khẳng định một
cách chắc chắn.
-
Đáng ra phải nộp rồi chứ.
-
Khốn nhưng họ ít học, nên viết cũng khó
khăn lắm. (Đó là đội trưởng nói về
Sezar và ông trung tá. Đội trưởng cừ ra phết,
bất cứ lúc nào cũng đối đáp đâu ra
đấy). Với lại làm gì có bút, mực cũng
chả có.
-
Phải có chứ.
-
Nhưng bị tước mất rồi!
-
Liệu cái mồm, đội trưởng, ông mà nói
lắm, tôi cho ông ngồi nhà đá đấy! - Kurnosenki
doạ nạt, song không tỏ ra tức giận. - Làm
thế nào thì làm, sao cho sáng mai, trước giờ
điểm danh, mấy tờ trình phải nằm trên phòng
giám thị rồi! Và phải viết rằng mấy cái
đồ không được phép dùng ấy đã đem
nộp vào kho đồ cá nhân rồi, rõ chưa?
-
Rõ.
(“Lão
trung tá thoát rồi” - Sukhov nghĩ bụng. Còn bản thân
trung tá thì chẳng nghe thấy gì, còn mải ăn giò và
đấu hót).
-
Còn một việc nữa, - tên giám thị nói tiếp, -
Đội anh có ai là S-311 không?
-
Còn phải xem danh sách đã, - đội trưởng
đáp, cố ý lần chần. - Ai mà nhớ hết
nổi mấy cái con số chó đẻ ấy (đội
trưởng vờ vịt cốt cứu Buinovski không
phải vào nhà đá đêm nay, kéo dài thời gian cho tới
sáng mai, trước giờ điểm danh).
-
Buinovski có đây không?
-
Gì vậy? Tôi đây! - trung tá lên tiếng từ phía
dưới giường của Sukhov. Có những loại
người nhanh nhẩu đoảng như thế
đấy!
-
Anh phải không? Ờ, đúng rồi, S-311. Đi!
-
Đi đâu?
-
Tự anh biết.
Ông
trung ta thở dài đánh thượt, miệng làu bàu. Lúc
này, đối với ông dong một chiến hạm
chạy trên biển vào đêm giông bão chắc còn dễ
hơn là dứt ra khỏi cuộc chuyện trò với bè
bạn để vào nằm một mình trong cái xà lim
lạnh buốt đó.
-
Bao nhiêu ngày vậy? - Ông trung tá hỏi, giọng đã
hạ.
-
Mười. Nhanh lên nào!
Cùng
lúc đó bọn cần vụ réo lên:
-
Kiểm tra! kiểm tra! tất cả ra ngoài!
Như
thế có nghĩa viên giám thị được cử
xuống để kiểm tra phạm đã có mặt
ở trại rồi.
Ông
trung tá ngoái lại - mang áo bông đi chăng? Nhưng
chắc chúng sẽ lột ngay, chỉ để lại áo
trấn thủ thôi. Đành mặc như thế này mà
đi vậy. Ông trung tá những tưởng Volkovoi đã
quên (Volkovoi chẳng quên ai và cái gì bao giờ) và tha cho mình,
nên ông cũng chẳng chuẩn bị giấu thuốc lá
cho mình nữa. Bây giờ mà cầm ở tay sẽ bị
tịch thu tức khắc lúc họ khám xét trước khi
quẳng ông vào nhà đá.
Tuy
nhiên, trong lúc ông đội mũ, Sezar đã kịp dúi cho
ông vài điếu.
-
Thôi, tạm biệt anh em, - trung tá buồn rầu gật
đầu chào anh em trong đội và đi theo viên giám
thị.
Mấy
người gọi với theo ông, người thì bảo
hãy giữ vững tinh thần, kẻ bảo đừng
thối chí, - thì còn biết nói gì hơn nữa? Chính anh em
đội 104 đã xây khu xà lim đó, nên họ thông
thuộc lắm: bốn bức tường đá, sàn xi
măng, không có lấy một lỗ cửa sổ, có lò
sưởi đấy, song cũng chỉ đủ làm tan
lớp băng đóng trên trần nhà khiến cho
nước chảy thành vũng đọng ở sàn.
Ngủ trên tấm phản trần, không chăn mềm,
đệm gối, răng đánh cầm cập suốt
đêm. Bánh mì một trăm bẩy mươi lăm gram
mỗi ngày và súp nóng chỉ ngày thứ ba, ngày thứ sáu và
ngày thứ chín mới được húp.
Mười
ngày đêm! Mười ngày đêm ngồi từ đầu
đến cuối trong xà lim đá cũng có nghĩa cả
cuộc đời còn lại sẽ phải lê lết với
bệnh tật. Mà nếu sống sót, thì bệnh ho lao
cũng vĩnh viễn cột chặt ta vào giường
bệnh viện.
Còn
người nào bị cầm cố trong xà lim mười lăm
ngày thì coi như rồi đời - chỉ còn biết
ngậm cười dưới ba thước đất.
Khi
còn sống trong trại hãy mau mắn cầu nguyện sao
cho không rơi vào cái địa ngục trần gian ấy.
-
Có định ra không thì bảo, tôi đếm đến
ba! - Tên trưởng trại xá gầm lên. - Sau ba tiếng
ai không ra, tôi sẽ ghi tên báo cáo lên công dân giám thị!
Trưởng
trại là kẻ khốn nạn nhất hạng. Cùng
bị giam giữ với anh em tù mà lúc nào hắn cũng lên
mặt thủ trưởng, chẳng kiêng nể một ai.
Ngược lại, ai cũng sợ hắn. Nếu không
mách với giám thị, thì hắn cũng thụi ta vào
mặt. Hắn được coi là tàn phế vì mất
một ngón tay trong cuộc ẩu đả, còn nhìn bản
mặt hắn - rõ là giống côn đồ. Mà hắn
đúng là côn đồ thứ thiệt, mang án hình sự,
nhưng không hiểu sao người ta lại xử
hắn theo luật 58/14, chính vì thế mà hắn rơi vào
trại khổ sai này.
Hắn
không nói rỡn, bây giờ hắn sẽ ghi tên ta vào
giấy, báo cáo lên giám thị, ta sẽ lĩnh đủ hai
ngày theo chế độ: ban ngày làm việc khổ sai,
đêm vào nằm nhà đá.
Chỉ
tới lúc này anh em mới lục tục chậm chạp lê
bước ra cửa, chỗ đứng túm tụm
lại, chỗ nhảy từ các giường tầng
xuống trông như bầy gấu và ai cũng nhao ra phía
cửa hẹp.
Sukhov
tay cầm điếu thuốc đã cuộn từ lâu,
điếu thuốc anh thèm muốn chết, khéo léo nhảy
xuống đất, xỏ hai chân vào ủng và định
đi ra, song lại thấy tội nghiệp cho Sezar. Anh
đâu muốn kiếm chác gì ở hắn, mà lúc này chỉ
thấy thương hắn thực sự: thằng cha này
quá chăm lo cho bản thân. Hắn chả hiểu
đời gì cả - nhận được đồ
tiếp tế thì chớ nên bầy hết cả ra
đấy mà ngắm. Tốt nhất nên gửi vào kho
trước giờ kiểm soát ban đêm. Ăn thì lúc nào
chả được. Bây giờ hắn làm thế nào
với đống đồ bầy la liệt ra như
thế? Cho tất cả vào một chiếc bao rồi mang
ra chỗ xếp hàng - chỉ tổ làm trò cười cho
năm trăm con người trong trại. Nhưng nếu
để lại, thì chưa đầy một giờ
đồng hồ kiểm tra con số, kẻ nào chạy
về chỗ trước, kẻ ấy sẽ nẫng cái
bao ngay. (Ở trại Ust-Izma còn tệ hại hơn.
Bọn lưu manh bao giờ cũng đi làm về
trước và khi anh em mò được tới phòng thì
đồ đạc đã bị chúng dọn sạch
sẽ rồi).
Sukhov
nhìn thấy Sezar lúng ta lúng túng với các gói thức ăn,
song đã muộn mất rồi. Hắn đang nhét giò và
mỡ muối vào trong áo, cố cứu vãn được
cái gì hay cái ấy.
Sukhov
thấy thương hại, bèn bày cách cho hắn:
-
Cứ ngồi tại chỗ, Sezar Markovich, chờ cho
tới người cuối cùng, ngồi vào chỗ tối
ấy và chờ cho người sau cùng đi ra. Khi bọn
giám thị sục sạo các giường thì hãy đi ra.
Nếu chúng nhìn thấy, nhớ bảo là bị ốm. Còn
tôi sẽ chạy ra trước tiên và quay trở vào
trước tiên. Cứ thế...
Nói
rồi anh co cẳng chạy ra ngoài.
Thoạt
đầu Sukhov phải khó nhọc lắm mới chen qua
được đám đông (tay lại còn phải giữ
cho điếu thuốc không bị bẹp). Trong hành lang
chung cho cả hai khối của trại xá và trước cửa
ra vào, không ai muốn là người đầu tiên
bước ra cả, một lũ ma lanh, mà cứ bám
riết lấy hai bên tường, chỉ chừa lại
một lối nhỏ vừa một người đi:
muốn thì cứ việc ra ngoài trời lạnh, các
bố cứ đứng ở đây cho ấm cái đã.
Cả ngày phơi mặt ra băng giá, bây giờ lại
đứng thêm mười phút nữa cho chết rét
chắc? Chả dại. Thằng nào muốn chết, cho
chết. Cánh tớ chờ thêm ít lâu nữa!
Giá
phải lần khác thì Sukhov cũng cố bám lấy
tường đấy, nhưng lần này anh vọt ngay ra
ngoài cửa, lại còn réo lên ầm ĩ:
-
Sợ gì chứ lũ ngốc? Chả lẽ chưa
thấy cái lạnh Siberi bao giờ chắc. Ra ngoài này mà
sưởi mặt trời của sói! Ông anh, cho xin tí
lửa!
Anh
châm thuốc ở trước cửa ra vào rồi
bước xuống bậc thềm trại. “Mặt
trời của sói” - ở quê Sukhov người ta gọi
đùa như vậy để ám chỉ mặt trăng.
Trăng
đã lên thật cao! chỉ chút nữa thôi là tới
đỉnh điểm, bầu trời bàng bạc phớt
màu lá cây, những ngôi sao thật tỏ, nhưng thưa
thớt. Tuyết lấp lánh, những bức tường
của trại xá cũng trắng xoá, vì thế nên ánh sáng
của những ngọn đèn chiếu trong trại không
còn chói gắt nữa.
Ở
trại đằng kia, phía trước cửa, đem
sậm một dòng người đang xếp hàng. Cả
trại khác nữa, cũng thế. Từ trại này
tới trại kia tiếng chuyện trò thưa thớt,
chỉ thấy tiếng những bước chân dẫm
tuyết lạo xạo.
Trước
cửa bậc thềm, mặt hướng vào cửa
trại xá, đã có năm người xếp thành hàng. Phía
sau có ba người, Sukhov nhập vào đội năm
người thứ hai này. Đã có mấy lát bánh mì vào
bụng, miệng lại phì phèo điếu thuốc,
đứng ở ngoài này cũng không đến nỗi nào.
Thuốc hút được. Tên Latvi không bịp mình, vừa
đậm lại vừa thơm.
Mọi
người bước dần ra ngoài, bây giờ đã có
hai, ba hàng năm người rồi. Những ai ra xếp
hàng trước, lúc này nổi cáu: bọn khốn còn
đứng bám tường làm cái gì chứ, định cho
bố chúng nó chết rét ngoài này chắc.
Không
một ai trong đám phạm nhìn thấy đồng hồ
trong thời gian ở tù. Mà họ cần quái gì đồng
hồ. Phạm chỉ cần biết đã sắp tới
hiệu lệnh báo thức chưa? Còn bao lâu nữa thì
tới giờ điểm danh? Sắp ăn trưa, ăn
tối chưa? Sắp tới giờ tắt đèn
chưa?
Họ
bảo giờ điểm danh ban đêm vào lúc chín giờ.
Ấy là nói thế, chứ không bao giờ nó kết thúc vào
lúc chín giờ, thường chúng kiểm tra tới lần
thứ hai, thứ ba và trước mười giờ
đừng hòng mà được ngủ. Còn kẻng báo
thức họ bảo vào năm giờ sáng, thì cũng
chỉ biết thế. Chả trách cái tên người
Monđavi đã lăn ra ngủ quên trước giờ
nghỉ. Nơi nào có chỗ sưởi ấm là phạm ta
lăn ra mà ngủ ngay được. Trong tuần
được ngủ quá ít, thế cho nên vào ngày chủ
nhật không phải đi làm toàn trại xá lăn ra
ngủ như chết cả lượt.
Mọi
người đang đổ xuống bậc thềm.
Bọn giám thị cùng thằng trưởng trại,
rặt một lũ súc vật, đang đá đít họ.
-
Sao nào? - Những người xếp hàng đầu la ó
chửi bới. - Chúng bay tưởng chúng bay khôn lắm
hả, lũ khốn nạn? Tưởng lấy cứt mà
đánh thành bơ được đấy hả? Ra ngoài
này ngay từ đầu, thì có phải xong rồi không.
Toàn
trại đã ra hết bên ngoài. Bốn trăm con
người - tám mươi hàng năm người
đứng nối đuôi nhau. Nhưng cũng chỉ
ở phía trên hàng ngũ còn tề chỉnh, phía dưới
đuôi mọi người đứng túm tụm, chả
ra hàng ra lối.
-
Ở dưới kia, xếp hàng vào! - tên trưởng
trại gào lên từ trên bậc thềm.
Nhưng
còn lâu chúng mới nghe, lũ quỷ sứ, đồ
củ chuối!
Sezar
bước ra khỏi cửa, so vai rụt cổ, cố
làm ra vẻ đau yếu. Đằng sau hắn là hai tên
cần vụ ở nửa bên kia của trại chín, và hai
tên ở nửa trại bên này, cùng với một tên
thọt nữa. Chúng làm thành hàng năm người
đầu tiên, chính vì thế Sukhov thành ra đứng ở
hàng năm người thứ ba. Chúng đuổi Sezar
xuống phía cuối.
Tên
giám thị bước ra ngoài hiên.
-
X ế p h à n g n ă m! - Hắn gào những người
ở dưới đuôi, giọng hắn khoẻ thật.
-
X ế p h à n g n ă m! - Trưởng trại gào theo,
giọng còn khoẻ hơn.
Nhưng
bọn dưới đó vẫn không chịu hiểu,
đồ củ chuối!
Tên
trưởng trại tức điên người, vọt
xuống phía dưới, chửi bới om xòm, đánh
đấm túi bụi.
Nhưng
xem hắn đánh những ai, rặt bọn thỏ
đế.
Cuối
cùng đâu cũng vào đấy. Hắn quay trở lại
bắt đầu đếm cùng bọn giám thị:
-
Một! hai! ba!
Hàng
nào điểm xong, lập tức mọi người ba
chân bốn cẳng chạy vội vào trong trại xá.
Thế là xong một ngày với các sếp!
Xong
có nghĩa là không phải đếm lại lần thứ
hai. Bọn óc bã đậu này, trán thì trông rõ rộng mà còn
ngu hơn bất cứ thằng chăn cừu nào.
Thằng chăn cừu tuy thất học, chỉ biết
chăn cừu thôi, song trên đường về cũng
còn biết thiếu đủ ra sao. Mấy tên khốn này
có mà nhồi vào đầu cũng chỉ đến thế.
Mùa
đông năm ngoái trong trại lại còn không có lấy
nổi một cái lò sấy giầy nào, cho nên phạm
phải để lại ủng của mình trong phòng
cả đêm. Đã thế còn bị đuổi ra ngoài
kiểm tra tới ba bốn bận. Chính vì vậy họ
chả thèm mặc quần áo cho tử tế, cứ
thế quấn chăn vào người rồi ra xếp
hàng. Tới năm nay người ta cho xây vài cái lò. Không
phải cho tất cả các đội một lúc, song
cứ đôi ba ngày các đội lần lượt thay
nhau sấy. Bởi thế, nên hồi này, khi nào phải
đếm lại, chúng để anh em ở bên trong
trại, chỉ xua từ nửa trại này sang nửa
trại kia thôi.
Sukhov
chạy vào bên trong, tuy không phải người đầu
tiên, nhưng mắt anh không rời tên phạm chạy vào
trước. Chạy tới giường của Sezar anh
ngồi xuống, cởi ủng ra, leo lên một chiếc
giường gần lò sưởi, đặt đôi
ủng của mình lên đó. Ở đây ai đến
trước thì hưởng trước. Sau đó anh quay
lại giường Sezar, ngồi xếp chân bằng tròn
trên đó, một mắt để ý không cho tên nào ở
phía dưới thò tay lên thó đồ của hắn,
một mắt canh chừng không cho tên nào đẩy đôi
ủng của anh ra để chiếm chỗ.
-
Này! - Anh buộc phải hét toáng lên, - mày, thằng tóc
đỏ kia! Muốn được nện ủng vào
mặt hả? Cứ việc đặt ủng của mình
vào, nhưng đừng có động đến của
người khác!
Phạm
lũ lượt đổ trở lại trại xá.
Ở đội 20 mọi người hò nhau:
-
Đem ủng đi sấy!
Bây
giờ người ta thả họ ra để đi
sấy ủng, rồi khoá cửa lại. Một lát sau
những người này chạy về, đấm cửa
thình thình:
-
Công dân giám thị ơi, mở cửa cho chúng tôi với!
Nhưng
bọn giám thị đã đi lên trung tâm để
đọ sổ sách với phòng tài vụ xem có thằng tù
nào chạy trốn hay không.
Hôm
nay Sukhov cóc thèm để ý đến mấy việc này.
Kìa Sezar đang đi về giữa hai hàng giường,
miệng suýt xoa:
-
Cám ơn anh, Ivan Denhisych!
Sukhov
gật đầu và nhanh như sóc, anh leo lên giường
của mình ở phía trên. Bây giờ có thể ăn nốt
hai trăm gram bánh, hoặc hút điếu thứ hai,
hoặc lăn ra mà ngủ.
Nhưng
Sukhov đâu muốn ngủ ngay, bởi vì anh đã có
được một ngày thật đẹp, nó khiến
anh thấy vui vẻ quá.
Sắp
giường chiếu - chuyện nhỏ: chỉ việc
kéo cái chăn đen đã bạc màu, rồi nằm lên
đệm (lâu lắm rồi, có lẽ từ năm
bốn mốt, sau khi đi khỏi nhà tới giờ, anh
chưa nằm ngủ trên vải trải giường bao
giờ. Và anh lấy làm lạ tại sao đàn bà lại
cứ phải phiền phức vì khăn trải
giường thế nhỉ. Chỉ tổ mất công
giặt), đặt đầu lên cái cái gói nhồi phoi bào,
hai chân đút vào áo trấn thủ, đắp chăn lên,
phía trên đắp thêm chiếc áo bông nữa, và thế là
cám ơn Chúa, một ngày nữa lại qua rồi!
Cám
ơn Chúa, vì không phải ngủ ở xà lim, nằm ở
đây cũng không đến nỗi nào.
Sukhov
nằm, đầu hướng ra cửa sổ, còn Aliosa
nằm ở giường bên kia, cạnh anh, trở
ngược đầu đuôi để hứng lấy
ánh sáng đèn. Anh ta lại đang đọc Phúc Âm.
Ngọn
đèn điện cách chỗ họ không xa, có thể
đọc sách, thậm chí khâu vá quần áo cũng
được.
Aliosa
nghe thấy Sukhov thầm thì cảm ơn Chúa, bèn quay
lại.
-
Ivan Denhisovich, tâm hồn anh muốn cầu nguyện Chúa,
tại sao anh không để cho nó làm việc đó nhỉ?
Sukhov
liếc nhìn Aliosa, hai mắt anh ta giống như hai ngọn
nến, ấm áp. Anh thở dài:
-
À, bởi vì những lời cầu nguyện cũng
giống như mấy cái đơn khiếu nại,
cũng có thể đến được tay cấp trên,
cũng có thể chả bao giờ tới được,
hoặc quay trở về với một chữ bên
cạnh: “Bác đơn”.
Trước
cửa văn phòng trụ sở trại có đặt
bốn chiếc hộp nhỏ màu đen niêm phong cẩn
thận và hàng tháng có một người được
họ uỷ quyền tới mở các hòm lấy thư ra.
Nhiều đơn từ ở trong mấy cái hòm đó
bị quẳng đi. Còn phạm ta thì cứ đợi,
tính từng ngày, ngóng tin phản hồi. Nhưng nào có
thấy. Hoặc chỉ nhận được mỗi
chữ: “Bác đơn!”.
-
Ivan Denisovich ạ, chính vì anh cầu nguyện ít quá, lại
không thành tâm, nhẫn nại, hoá cho nên những lời
cầu nguyện của anh chả bao giờ thành hiện
thực được cả. Cầu nguyện phải
thường xuyên cơ. Ví như có đức tin, thì anh
bảo núi chuyển, nó cũng phải chuyển.
Sukhov
cười khẩy và cuốn thêm một điếu
thuốc nữa. Anh châm lửa nhờ ở cặp Estoni.
-
Thôi đi Aliosa, đừng huyên thuyên. Tớ chưa
từng thấy núi chuyển, vả cả cả
đời tớ đã nhìn thấy núi bao giờ đâu. Còn
các cậu ở Kavkaz, cả hội Tẩy lễ nhà các
cậu cùng cầu nguyện, thế các cậu đã nhìn
thấy quả núi nào chuyển động chưa?
Mấy
người Tẩy lễ này kể cũng khổ: cầu
nguyện Chúa thì có hại đến ai, ấy thế mà
cả bọn đều bị lãnh hai mươi lăm
năm tù. Thì bây giờ nó là vậy, ai cũng hai mươi
lăm năm tuốt tuột.
-
Nhưng chúng tôi đâu có cầu nguyện điều
đó, Ivan Denhisych, - Aliosa khơi gợi. Hắn cầm
cuốn sổ chép Phúc Âm xán tới gần Sukhov, ngó sát
mặt anh, - Trong tất cả mọi thứ trần
tục, phù du, chúng tôi chỉ cầu xin Thượng
đế có được miếng ăn hàng ngày mà thôi:
“Xin cho chúng con đồ ăn ngày nào đủ ngày
nấy!”
-
Tức là khẩu phần hàng ngày, đúng không? - Sukhov
hỏi.
Nhưng
Aliosa vẫn nói tiếp, ánh mắt hắn thuyết
phục nhiều hơn lời hắn nói, hắn
đặt tay lên tay Sukhov, khẽ vuốt:
-
Ivan Denicych! không nên cầu nguyện vì một gói đồ
tiếp tế hay một xuất cháo thừa. Những gì ta
coi là quý giá lại thấp hèn trước Chúa! Cần
cầu nguyện những gì thuộc tâm linh: sao cho
Đức Chúa Lời lấy hết những cái ác trong tâm
chúng ta...
-
Nghe tớ nói chuyện này còn hay hơn. Ở nhà thờ
Polomensk chỗ chúng tớ có một cha cố...
-
Đừng nói về ông cha đạo của anh nữa! -
Aliosa nài nỉ, thậm chí trán hắn nhăn lại vì
đau đớn.
-
Không, cậu hãng cứ nghe đã. - Sukhov chống khuỷu
tay nhỏm dậy. Cả vùng Polomensk chúng tớ không có ai
giàu bằng lão cha cố. Tiền công sửa cái mái nhà bình
thường ra là ba mươi rúp một ngày, riêng cha
cố người ta phải lấy tới trăm rúp.
Mặc dù người ngợm ục à ục ịch, lão
đi lại với ba mụ đàn bà ở ba thành phố
khác nhau, hàng tháng trợ cấp tiền cho họ, còn
với người thứ tư thì lão sống như
vợ chồng hẳn hoi. Lão nắm thóp ông tổng giám
mục, biếu xén ghê lắm, chẳng thế mà tất
cả các ông cha cố mà người ta cử đến
địa phận đều bị lão đẩy đi
hết, lão chẳng muốn chia chác với ai...
-
Anh nói về cha cố làm gì? Nhà thờ Chính thống đã
xa lìa Phúc Âm. Người ta đâu có bắt giam họ,
tống họ vào tù, ấy là vì người ta biết
rằng họ đâu có đức tin thực sự.
Sukhov
hút thuốc, bình thản nhìn Aliosa đang bị kích
động.
-
Aliosa, - anh đẩy nhẹ tay hắn ra, khói thuốc lá
của anh bay vào mặt hắn. - Tớ đâu có chống
lại Chúa, cậu hiểu chứ. Tớ sẵn lòng tin vào
Chúa. Có điều tớ không tin có thiên đàng và
địa ngục. Các người coi bọn này là lũ
ngốc hay sao mà cứ hứa hiêu hứa vượn mãi
về thiên đường với chả địa
ngục? Đó là cái tớ ghét nhất.
Sukhov
nằm trở lại, cẩn thận vẩy tàn thuốc
sau đầu, chỗ giữa đầu giường anh
và cửa sổ, tránh không làm cháy đồ của ông trung
tá. Mải nghĩ, anh không nghe thấy Aliosa thì thầm gì
nữa.
-
Với lại, dù mình có cầu nguyện bao nhiêu chăng
nữa, cái hạn tù của mình đâu có ngắn bớt
đi. Cứ phải lê cho hết, từng ngày, từng ngày
một, từ kẻng báo thức tới kẻng ngủ.
-
Ấy, anh đừng nên cầu nguyện điều
đó! - Aliosa hoảng sợ. - Anh cần tự do
để làm gì? Có tự do thì đức tin cuối cùng
còn sót lại trong anh, giống như chút hạt giống,
sẽ mắc kẹt trong bụi mận gai! Anh phải
lấy làm mừng vì ở trong trại tù! Ở đây anh
còn có thời gian mà nghĩ đến linh hồn! Sứ
đồ Palo từng nói: “Các người khóc lóc gì vậy,
muốn làm nát lòng ta chăng? Ta chẳng những chịu
trói, mà còn sẵn sàng chịu chết vì danh Chúa Jesu”.
Sukhov
im lặng nhìn trần nhà. Chính anh cũng không còn biết
mình có cần tự do hay không. Lúc mới vào tù anh thèm
được tự do lắm, mỗi tối nằm tính
xem mình đã ở tù được bao nhiêu lâu, thời
hạn còn lại bao lâu. Sau đó phát chán. Sau đó hiểu
ra rằng những người như anh họ không
thả cho về nhà, mà bắt đi đầy. Vậy thì
ở đây hay ở nơi đầy ải, chỗ nào
khá hơn, cũng chẳng rõ nữa.
Anh
chỉ cầu xin Chúa trời có mỗi một điều
- được về nhà.
Nhưng
mà họ không thả...
Aliosa
không nói dối anh. Qua ánh mắt, lời nói của hắn
cũng đủ biết hắn mừng vì được
ở tù.
-
Nghe này, Aliosa, - Sukhov giải thích cho hắn, - với anh thì
được, Đấng Kitô bảo anh vào tù và anh ở
tù là vì Ngài. Chứ còn tôi, tôi ngồi tù vì lẽ gì? Vì
việc năm một chín bốn mốt người ta
không chuẩn bị cho cuộc chiến tranh? Vì lẽ
đó? Nhưng đấy có phải lỗi của tôi
đâu.
-
Xem ra họ không kiểm tra lần thứ hai...- Kildigs
nằm trên giường nói xen vào.
-
Ờ, ờ! - Sukhov hưởng ứng. - Phải ghi lên cái
ống ở đằng góc nhà: ngày này, tháng này trại không
bị kiểm tra lần thứ hai. - Anh ngáp và nói: - ngủ
thôi.
Nhưng
ngay lúc đó, trong trại giam tĩnh mịch, an phận,
bỗng vang lên tiếng động đằng sau cửa
ra vào. Có hai tên vừa nãy mang ủng đi sấy chạy
vào hành lang hô hoán ầm ĩ:
-
Kiểm tra lần hai!
Theo
sát họ là viên giám thị:
-
Tất cả sang phía bên kia!
Nhiều
người đã ngủ. Họ càu nhàu, lồm cồm
ngồi dậy, xỏ chân vào ủng (họ vẫn đánh
cả quần bông đi ngủ. Mặc quần
thường nằm trong chăn không chịu
được, người cứ run cầm cập).
-
Phù! Quân khốn nạn! - Sukhov chửi, song anh cũng không
bực mình cho lắm, vì chưa ngủ.
Sezar
từ giường dưới đưa lên anh hai
chiếc bánh bích quy, hai cục đường và một lát
giò tròn.
-
Cám ơn, Sezar Markovich! - Sukhov cúi xuống dưới,
lối đi giữa hai dãy giường. - Anh đưa tôi
cái bao tôi cất dưới gối tôi cho. Cất trên trên
này cho chắc. (Giường tầng trên không thể
với tay lên mà thuổng nhanh các thứ được,
với lại giường của Sukhov ai mà thèm nhòm ngó).
Sezar
đưa lên phía trên cho Sukhov cái bao màu trắng đan
lưới của hắn. Sukhov nhét nó xuống dưới
đệm và chờ cho gần hết mọi người
ra hành lang, vì như vậy anh đỡ phải dẫm chân
trần lâu dưới đất.
Nhưng
tên giám thị đã gầm lên:
-
Ê, người góc đằng kia!
Sukhov
nhẹ nhàng nhảy chân trần xuống sàn (là vì đôi
ủng của anh cùng với vải quấn chân đang
sấy trên lò sưởi, lấy xuống tiếc lắm).
Anh đã khâu biết bao đôi dép đi trong nhà, song toàn là
cho người khác, bản thân chẳng có lấy một
đôi. Với lại anh cũng đã quen, việc này
cũng chóng thôi mà.
Vả
chúng cũng sẽ bắt tuốt cả dép, nếu ban ngày
chúng mò thấy được.
Những
người trong đội đến phiên được
sấy giầy, người đi dép, người
để nguyên cả vải quấn chân, người
dẫm chân không.
-
Nhanh chân lên! nhanh lên! - tên giám thị quát tháo.
-
Bọn bay muốn ăn gậy lắm hả, đồ
mắc dịch! - tên trưởng trại có mặt tức
thì.
Tất
cả bị dồn sang nửa kia của trại và
những người ra cuối cùng phải đứng
ở ngài hành lang. Sukhov đứng ở ngoài đó, áp
người sát vào tường gần nhà vệ sinh. Sàn nhà
ướt át dưới chân anh, một ngọn gió buốt
lạnh luồn vào từ chỗ cửa ra vào.
Mọi
người đã bị đuổi hết sang nửa bên
kia nhà và tên giám thị cùng với tên trưởng trại
xá lại đi lục soát xem còn ai ở lại nấp
trong bóng tối. Bởi vì đếm không đủ tù -
khốn nạn, đếm thừa tù - cũng khốn
nạn. Thế là lại phải kiểm lại từ
đầu.
Hai
tên sục sạo, sục sạo chán rồi quay trở
lại chỗ cửa.
-
Một, hai, ba, bốn... - Bây giờ thì chúng nhanh chóng cho
từng hàng năm người vào một. Sukhov là
người thứ mười tám qua vòng kiểm soát, anh
phóng vội về giường. Đặt một chân lên
mép giường tầng dưới, anh tung người và
đánh soạt một cái đã ở trên chỗ của
mình.
Tốt
rồi. Hai chân lại đút vào hai tay áo bông, đắp
chăn lên người và trên cùng là áo trấn thủ.
Ngủ thôi! Bây giờ anh em phạm ở nửa nhà bên
sẽ bị lùa sang bên này. Họ cứ việc kiểm,
chả động dạng gì đến mình.
Sezar
trở về giường. Sukhov đưa xuống
trả hắn cái bao đựng đồ ăn.
Aliosa
cũng đã quay về. Hắn chẳng khôn gì cả. Có cái
gì cũng cho mọi người, mà bản thân nào có
kiếm được gì.
-
Cầm lấy, Aliosa! Anh đưa hắn một chiếc
bánh bích quy.
Aliosa
nhoẻn miệng cười:
-
Cám ơn anh. Anh đã chẳng có...
-
Ăn đi!
Tớ
chẳng có, nhưng tớ còn kiếm được.
Và
anh bỏ miếng giò vào miệng. Răng anh nhai miếng
giò! Răng đang nhai. Ôi chao cái vị của thịt.
Nước của thịt. Thịt chính hiệu. Nó đang
trôi xuống bụng.
Nhoằng
một cái, miếng giò đã biến mất.
Những
thứ còn lại, Sukhov nghĩ bụng, mình sẽ ăn
trước giờ điểm danh buổi sáng.
Và
anh kéo tấm chăn mỏng, đã lâu không giặt, trùm
đầu. Lúc này anh đã không còn nghe thấy ở các
lối đi giữa các dãy giường mỗi lúc một
chật cứng tù nhân của nửa trại bên: họ
chờ người ta đang lục soát chỗ của
họ.
Sukhov
nhắm mắt ngủ và anh thấy thật hài lòng. Ngày hôm
nay thật may mắn: không phải vào nhà đá, đội
của anh không bị lùa đi làm ở Khu Dịch Xá,
bữa trưa anh gặt hái được thêm một bát
cháo, đội trưởng nâng được năng
xuất cho anh em, xây tường thật vui vẻ, qua
mặt được bọn kiểm soát miếng sắt
mẻ, kiếm được tí chút của Sezar, lại
còn mua được cả thuốc lá. Và không bị
bệnh. Cơn đau buổi sáng đã qua khỏi.
Một
ngày đã qua gần như không một điều phiền
muộn. Có thể coi là một ngày hạnh phúc.
Trong
hạn tù của anh, từ tiếng kẻng này tới
tiếng kẻng khác, có ba nghìn sáu trăm năm mươi
ba ngày như thế.
Vì
vướng mấy năm nhuận, nên bị dôi thêm ba
ngày...
Đào Tuấn Ảnh dịch từ nguyên bản
tiếng Nga, 7.02.2006
* Bap-tit - mét giáo
phái thuộc C¬ ®èc T©n gi¸o (Tin Lµnh) xuÊt hiÖn
®Çu thÕ kû XVII (hiÖn truyÒn b¸ réng t·i ë Mü). Gi¸o ph¶i nµy gi¶n lîc sù sïng
b¸i vµ tæ chøc nhµ thê; LÔ röa téi tiÕn hµnh cho ngêi lín v× cho r»ng röa téi
cho con trÎ cha cã ý thøc lµ sù lõa dèi vµ nh¹o b¸ng ®øc tin. (ND)
* Barak - nhà ghép
bằng gỗ trong khu trại giam. Tuỳ theo diện tích và
sự phân chia của cấp trên, mỗi nhà có từ
một vài tới nhiều đội tù ở. Ở đây
chúng tôi dùng từ “trại” chỉ nhà giam đó. Trại
số chín, nơi Sukhov ở, chia làm hai ngăn và có tới
hơn 400 người (khoảng 20 đội).
* Điều 58 - một
điều khoản nổi tiếng trong bộ Luật
hình sự Xô Viết, bao trùm một phạm vi rất
rộng những tội danh được gọi là
“chống Xô Viết”: gián điệp, phá hoại, tuyên
truyền chống chế độ... và được
giải thích để bao quát toàn bộ những hành
động của “bất cử phần tử nguy
hiểm nào về mặt xã hội”. Dưới thời
Stalin điều khoản này được áp dụng
rộng rãi và bừa bãi cho cả những ai bị tình nghi
là bất mãn xã hội.
* “Công nhân tự do” - volnye
- chỉ những người ở “bên ngoài” (na vole), mà
hầu hết là cựu tù nhân mãn hạn, nhưng bị
tước quyền trở về quê quán. Họ ở
lại sinh sống trong các vùng gần các khu trại giam và
làm việc trên các công trường xây dựng.
* Cựu giáo - giáo phái li
khai khỏi Giáo hội Chính thống Nga, không chấp
nhận một số cải cách do Giáo trưởng Nikon
đề ra ở thế kỷ XVII. Những tín đồ
cựu giáo bị ngược đãi cả ở thời
kỳ Xô Viết.
*
Tướng Bendera - Stepan Bendera, người lãnh đạo
cuộc nổi dậy của binh lính ở Tây Ukrain.
Thời kì đầu chiến tranh Bendera hợp tác với
quân Đức chống lại Liên Xô, song sau đó ông không
còn ảo tưởng về nước Đức
Quốc xã nữa và tiến hành chiến tranh du kích trên lãnh
thổ Liên Xô. Năm 1959 bị ám sát tại Đức..
* Trên
các công trường xây dựng ở Nga, người ta
không xách vữa bằng sô, mà dùng một cái máng gỗ
(hoặc sắt tây, có tay cầm ở hai đầu
để khiêng, trông giống như một chiếc cáng.
Ở đây chúng tôi dịch là cáng, hoặc máng.
* Sergei Kirov - uỷ viên
Bộ chính trị và là Bí thư Thành Uỷ Leningrad. Ông
bị ám sát năm 1934. Cái chết của ông tạo cớ
cho những vụ bắt bớ, đàn áp tập thể,
mở đầu cho chiến dịch đại thanh
trừng năm 1936-1938 ở Liên Xô.
* Nguyên văn : “Ê, Stakhanovich!” - Stankhnovich là tên một công nhân đạt danh hiệu
anh hùng lao động toàn Liên Bang năm 1935, trở thành
điển hình cho toàn quốc học tập. Phong trào
Stankhanovich được nhân rộng rãi trong nhiều thập
niên tại Liên Xô.
* Hai người đang nói
về phim Chiến hạm Potemkin của đạo
diễn điện ảnh Xô Viết nổi tiếng
Eizenstein thực hiện năm 1925. Phim nói về cuộc
nổi loạn của thuỷ thủ trên chiến hạm
Potemkin trong phong trào nổi dậy chống Nga Hoàng bất
thành tại Nga năm 1905. Tác phẩm điện ảnh này
đã trở thành cổ điển trong làng điện
ảnh thế giới, nó có ảnh hưởng không
nhỏ tới trường phái điện ảnh hiện
thực. Đây cũng là một trong những cuốn phim
đầu tiên sử dụng kĩ xảo montage (cắt
dán).
Comments
Post a Comment