Orwell @ Old Tinvan



*

Liêu Thái – Cuộc thảo luận “lạ” về Trại Súc Vật trên bãi biển Đà Nẵng (1)
Hồi học cấp II, bên cạnh những quyển sách như sách của Hứa Thuần Phỏng, tôi còn đọc một số sách khác, như Sợ lửa của Doãn Quốc Sỹ. Giờ đây không biết cuốn Sợ lửa lưu lạc nơi đâu, tôi không tìm thấy nó. Tôi vừa đọc Sợ lửa, vừa đọc Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hồi đấy đọc thật là tạp, nhưng không có Orwell để đọc. Mãi sau này khi đi du học tôi mới biết Orwell. Sợ lửa được xếp là chuyện cổ tích, giống như Trại súc vật là ngụ ngôn. Khi ở nước ngoài, biết tôi là người Bắc, có người hỏi tôi đã đọc Orwell chưa? Tôi thấy thật tội nghiệp cho người đặt câu hỏi đó. Khung cửa văn chương của họ chỉ gói gọn ở mỗi Orwell.
V/v Sợ Lửa ra, tính sau [để đọc lại, cho chắc ăn, vì Gấu không nghĩ Sợ Lửa liên quan tới 'vấn nạn" VC, hay rộng ra, toàn trị], Gấu sợ rằng, người đáng tội nghiệp ở đây, chính là Đông A!
V/v Orwell, để riêng Trại Loài Vật ra tính sau, chỉ hai cuốn, 1984 của ông, và Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler làm đổi hẳn diện mạo thế giới. Không có hai cuốn đó, là Châu Âu đã bị nhuộm đỏ.
Gấu đọc trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Stranger on the Square, khi cuốn Bóng Đêm ra lò, Sartre bắt đệ tử đi lùng, đốt sạch, nhưng trong số Magazine Littéraire, Dec 2009, đặc biệt về Orwell, cho biết, việc đốt này do ĐCS Pháp chủ trì.
Trên Tin Văn, có hai trang dành cho, 1 Orwell, 1 Koestler.
Orwell

  *

Le Magazine Littéraire, Dec 2009
Nhớ bức hình Cha Lý!
Trại Loài Vật của Orwell, Tôi Chọn Tự Do của Victor Kravchenko, và Đêm giữa Ngọ của Koestler:
Ba nhà văn, ba cuốn sách, ba cứu tinh của nhân loại!
Nhờ chúng mà Âu Châu nói Không với CS
Tuổi trẻ của Gấu được tạo dáng [shape] nhờ hai trong ba cuốn đó!
Hai cuốn sau, hồi 1954 được Phòng Thông Tin Huê  Kỳ cho dịch, biếu không độc giả Miền Nam!
Đêm giữa Ngọ, khi xb tại Pháp, được Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thâu gom, đem đốt bỏ, như trong Kẻ Lạ ở Quảng Trường cho biết
Giả như có người nào hỏi Đông A, đã đọc Orwell chưa, thì người đó có lý đo để hỏi như vậy. Giả như có đọc Orwell thì chắc chắn phải có 1 cái nhìn khác về CS.
 “Khung cửa văn chương” dùng cho Orwell cũng hơi sái. Orwell là nhà văn chính trị. Chính trị mới là điều ông quan tâm:
“POLITICAL WRITER ", un écrivain politique, c'est la formule que Berrnard Crick s'efforce de préciser.
Chính là trong ý nghĩ đó, "nhà văn chính trị", mà Yann Martel, nhà văn Canada, gửi cho thủ tướng nước của ông cuốn "Trại Loài Vật", y chang cái tay hỏi Đông A đã đọc Orwell chưa:
Nhà văn chính trị thì vẫn là nhà văn
[Điều này thì cũng là văn chương: Sự tiêm chủng vắc xin!]
Trại Loài Vật là thí dụ tuyệt hảo về những điều mà văn chương có thể đem đến cho chúng ta: một thứ lịch sử cầm tay. Một độc giả chẳng biết tí gì về thế kỷ thứ 20, Stalin là thằng chó nào, Trốt Kít quái vật hả, Cách Mạng Tháng 10 quái thai ư: Trại Loài Vật sẽ chuyên chở tới cho vị độc giả đó cái cốt yếu, cốt tủy về điều gì đã xẩy tới cho những người láng giềng ở bên kia Bắc Cực của chúng ta [dân Canada]: Cái quái thai, tởm lợm, bại hoại của một lý tưởng [giải phóng, thống nhất đất nước, thí dụ], sự hư ruỗng, thối nát của quyền lực, sự lạm dụng ngôn từ, sự băng hoại của cả một quốc gia – tất cả đều có ở trong đó, chỉ trong một tiếng nấc của trên trăm trang sách. Và khi đọc những trang này, độc giả trở nên minh mẫn hơn, nhờ uống 'lầm' thuốc độc chính trị! Điều này thì cũng là văn chương: Sự tiêm chủng vắc xin!
Ui chao, đúng là trường hợp đã xẩy ra cho GNV: Giả sử những ngày mới lớn không vớ được Đêm giữa Ngọ, thì thể nào cũng nhẩy toán, lên rừng làm VC, phò Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng như một tên đệ tử của Thầy Cuốc 'chúc' Gấu!
Đoạn trên thật là tuyệt cú mèo, nhưng thua… Brodsky khi ông viết về thơ, về Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Và bây giờ cái lý do rất cá nhân tại sao tôi viết ‘mấy lời’ gửi ông, kèm cuốn Trại Loài Vật: người Do Thái Âu Châu, bị Nazi sát hại cũng cần có lịch sử của họ, dạng cầm tay. Và đó là điều tôi cố gắng làm với cuốn sách tới của tôi.
Nhưng căng lắm đấy, tôi tự nhủ tôi, làm sao sàng lọc từ đống rác lịch sử, [lịch sử Mít cùng cuộc chiến đỉnh cao của nó] với bao nhiêu là máu, là lệ, vào một tiếng nấc, của vài trang [Tin Văn], làm sao biến sự ghê rợn, điều tởm lợm, kinh hoàng thành một điều gì nhẹ nhàng ư ảo, [trên không gian net], chẳng ngon cơm một tí nào đâu!


Paul Celan
PAUL CELAN AND LANGUAGE
Paul Celan và ngôn ngữ
JACQUES DERRIDA
Nothing insures a poem against its death, because its archive can always be burned in crematory ovens or in house fires, or because, without being burned, it is simply forgotten, or not interpreted or permitted to slip into lethargy. Forgetting is always a possibility.
Chẳng có gì bảo hiểm cho một bài thơ chống lại cái chết của nó, bởi là vì hồ sơ của nó thì luôn luôn bị cháy rụi tại lò thiêu hay trong những căn nhà cháy, hay là, bởi vì giả như không bị thiêu đốt, thì giản dị bị quên lãng, hay đếch làm sao dẫn giải, hay được phép chìm vào hôn mê.
Quên lãng thì luôn luôn là 1 khả hữu.
Coetzee viết về Paul Celan:
Trong thời gian ở Bucharest sau chiến tranh, Celan trau giồi tiếng Nga và dịch Lermontov và Chekhov sang tiếng Romania. Ở Paris ông tiếp tục dịch thơ Nga, tìm thấy trong tiếng Nga 1 sự đón mừng, a welcome, chống lại căn nhà Đức, counter-Germanic home. Đặc biệt, ông đọc chăm chú, intensively, Osip Mandelstam (1891-1938). Ở Mandelstam, ông gặp, không chỉ 1 con người mà chuyện đời, life-story, ông cảm thấy, kỳ quặc, so với của riêng ông, mà còn là một hồn ma giao tiếp rất hợp với những nhu cầu sâu thẳm của ông [a ghostly interlocutor who responded to his deepest needs], người đem đến cho ông [offer], theo như lời của ông, in Celan’s words, “cái tình anh em – theo 1 nghĩa thật quí, thật trang trọng, của từ này, ‘what is brotherly – in the most reverential sense I can give that word’. Bỏ việc sáng tác ra 1 bên, ông chúi vào dịch Mandelstam qua tiếng Đức, hầu hết thời gian từ 1958 tới 1959. Những bản dịch của ông, tạo ra [constitute] một hành động lạ thường, an extraordinary act, là tạo ra 1 nơi ăn chốn ở cho 1 nhà thơ khác, inhabiting another poet, mặc dù bà vợ góa của nhà thơ, Nadezhda Mandelstam, thật hữu lý, khi phán, một tiếng khóc than quá xa nguyên tác, ‘a very far cry from the original text’.
Cái quan điểm của Mandelstam, bài thơ là đối thoại, đã rất nhiều tái tạo hình dạng của chính lý thuyết thơ của Celan, did much to reshape Celan’s own poetic theory.

Tác phẩm đầu tay

*

*
Trong khi chờ Gogol

Note: Bài này, tháng nào cũng hót, theo server!
Gừng càng già càng cay. Những linh hồn chết của Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới, của nhà Penguin.
Tuồng ảo hoá đã bầy ra đấy: đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực. Nabokov, trong một bài tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh Hồn Chết, một thứ "Văn Đẻ Ra Đời", trong đó, những câu kệ của Gogol, giống như những câu thần chú, kêu gọi ra một thế giới, và thế giới này có thể, hoặc phát triển hoặc huỷ diệt, thì đều theo cùng một cách, là khùng điên ba trợn.
Gogol gọi, đây là một "bài thơ" (1), và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng Anh gần gũi nhất với nó, là The Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không những làm tăng thêm, mà còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết, của người và vật.
Nabokov cũng bị ảnh hưởng Gogol, trong "Nhạt Lửa" ("Feu Pâle", 1962), câu chuyện một gã khùng cứ nghĩ mình là vua. Trong một tiểu luận về Gogol (1944), dành cho những độc giả không chuyên, không rành tiếng Nga, Nabokov đã đưa ra một Gogol với một tầm nhìn lớn, nhưng luôn bám vào chi tiết. Ông nhấn mạnh tới tính mỹ học nội tại của bản văn, theo đó, nghệ phẩm không phải là phát ngôn viên của tác giả: nó muốn là chính nó, sáng tạo ra thực tại cho chính nó. Ông viết:
"Chiếc Áo Khoác" của Gogol là một cơn ác mộng tối tăm và thô kệch đã chọc những lỗ thủng đen ngòm vào dòng đời chẳng có chi là rõ ràng. Một độc giả phiến diện sẽ chỉ coi đây là một câu chuyện của một tên hề quá lố. Một độc giả "nghiêm túc", coi đây là một tố cáo chế độ thư lại ghê tởm của nước Nga. Nhưng đây là một tác phẩm không dành cho bất cứ độc giả nào không biết cười, không thèm đến phát điên, một tác phẩm làm cho mình "đau đầu". Hãy tóm lấy một độc giả có đầu óc sáng tạo: đây là một câu chuyện dành cho anh ta. Và với độc giả này, Gogol chính là một bậc kỳ tài, về phi lý. Ở đây, là nghệ thuật chống lại cái thực, là hiện thực huyền ảo, là thế giới được tái dựng lại…
NQT
(1)
Trong lời tựa, bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn: Puskin đã từng khuyên Gôgôn sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên 'trường ca' - poema - Chữ "poema" đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn cho in lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
*
Why do you think Gogol interested you?
SIMENON:
Maybe because he makes characters who are just like everyday people but at the same time have what I called a few minutes ago the third dimension I am looking for. All of them have this poetic aura. But not the Oscar Wilde kind-a poetry which comes naturally, which is there, the kind Conrad has.
Theo ông, tại sao Gogol lại làm ông quan tâm?
Có thể, bởi vì ông ta tạo ra những nhân vật giống y hệt những con người hàng ngày, nhưng cùng một lúc, họ có cái, lúc nẫy tôi có nói, cái chiều thứ ba mà tôi tìm kiếm. Tất cả họ đều có cái mà tôi gọi là hào quang thơ. Không phải kiểu của Oscar Wilde - một thứ thơ đến một cách tự nhiên, cái thứ mà Conrad có.
The Paris Review Interviews, vol. 3
*

Bản tiếng Tây lại đưa ra 1 lời giải thích khác về từ “Poem”, đã từng gây xì căng đan, hay, chế nhạo, ở nơi những địch thủ của Gogol. Theo anh Tẩy, có thể Gogol, do cẩn thận, vì trong truyện có vụ mua linh hồn người chết - đề là "thơ" cho nó chắc ăn - có thể là do Pouchkine, khi đề nghị, nên làm thơ chứ đừng viết văn!
Nhưng câu trả lời của Simenon liên quan tới chúng ta ở đây, nghĩa là, liên quan tới TTT, tác phẩm đầu tay, thơ "vs" văn xuôi của ông.
TTT viết nhiều văn xuôi, nhưng "cốt" của ông là thi sĩ. Những người đọc văn ông, mà mê, thì là do chất hung bạo, thời cuộc của nó, và dù sao, thì cũng dễ đọc, so với thơ, nhất là thứ thơ bị coi là hũ nút.
Võ Phiến, qua lời kể của Kiệt Tấn, phán, TTT là nhà văn chứ không phải là nhà thơ.
TTT, qua Ninh Hạ kể, thời gian ở tù VC chung, cho biết, ông thích làm thơ hơn viết văn.
Và nếu TTT viết văn, thì cũng là 1 cách làm thơ! Khi đọc Bếp Lửa, lần tái bản 1972 (?), Gấu đã nhận ra, và vạch ra điều này, trong bài viết “Bếp Lửa trong văn chương”.
Hai cuốn tuyệt nhất của ông là Bếp Lửa, và Một Chủ Nhật Khác, và, tuyệt nhất ở trong đó, là những câu thơ, theo Gấu. Bởi vì là những câu thơ, cho nên chúng "loạng quạng" so với dòng kể, và đây là 1 điều mà, một trong những độc giả của ông, còn là nhà văn, cũng quen thân với Gấu, cũng đi tù chung với ông, và cũng rất mê TTT, nhận ra:
Văn của TTT không thoáng, không tự nhiên so với văn của GCC!
Hà, hà!
Khi cố gò “văn” thành “thơ” thì mạch văn sẽ bị hỏng cẳng.
Trường hợp TTT làm Gấu nhớ tới Rilke.
Sau đây, sẽ viết về Rilke, đúng hơn, sẽ giới thiệu bài viết về Rilke của Coetzee, và nhân đó, chúng ta so sánh hai nhà thơ, qua cái gọi là “đứa con tư sinh” của 1 miền đất [TTT viết về chính ông], và “thi sĩ đếch có nhà” [Rilke].

Ký Ức Sơ Sài




Ghi chú trong ngày


*

Coetzee by Intel: Notes on a Voice
Ghi chú về giọng văn
Đệ tử của Beckett
Beckett: Đệ tử của Joyce
Mít đếch có Thầy.
Nên cũng đếch có nhà văn Mít!
Trước khi là tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của ông sáng lên nhờ cái sự khắc khổ và rõ ràng. Vài “Thầy Cuốc” phê là cứng quá, cằn cỗi quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn “qua 1 xứ sở còi cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”
Before becoming a novelist he was a mathematician and academic, and his sentences gleam with rigour and clarity. Some critics have found them too hard, too barren. But it’s a style, as Michael Wood has written, which takes you "through stunted country but arrives at a region of desperate feeling".
KEY DECISION
Going to Austin, Texas. In 1965, Coetzee went there to do a doctorate. In the university library he found the early manuscripts for Samuel Beckett’s novel "Watt". Beckett gave Coetzee a sound. You can hear it most strongly in the faltering monologues of "Dusklands" and "In the Heart of the Country" (1977). The most important lesson of all was restraint. "The thought was like a ravening dog", Coetzee wrote, "the prose was like a taut leash."
Quyết định Chìa Khoá.
Đi Mẽo [Austin, Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến sĩ [chắc cũng giống Thầy Cuốc, rời xứ Tẩy, rời Kinh Đô Ánh Sáng, đi Úc làm cái Tiến sĩ, chăng?] Ở thư viện đại học, ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết “Watt” của Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi! Beckett đem đến cho Coetzee một “sound” [âm, vọng, tiếng, giọng…]. Bạn có thể nghe thấy nó, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi diễm ơi, nhạt nhòa như mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977). Bài học quan trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư tưởng thì như con chó thèm cục kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh như con chó chạy rông ven bờ], Coetzee viết, “văn xuôi thì như sợi dây [kìm con chó].


Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"
Ít khi tui ngồi đọc một cuốn sách từ đầu đến cuối một cách mê say, vậy mà mấy ngày nay tui vô Google tìm đọc cuốn “Bên Thắng Cuộc” rồi đọc miệt mài từ trang này sang trang khác, bà nhà tui thắc mắc cứ tưởng là tui mê đọc truyện chưởng hay truyện bậy bạ…
Đến lúc tui nói với bà nhà tui là đang đọc “Bên Thắng Cuộc” thì bả cũng đòi xem ké, thế là cả hai vợ chồng đều mê một cuốn sách… Đọc ngấu nghiến như sợ chữ nghĩa bỏ mình chạy mất vậy.
Phải nói cảm nghĩ đầu tiên của tui về cuốn sách ấy là “tuyệt vời”, ngòi bút của tác giả Huy Đức sắc sảo quá! càng đọc càng ghiền…
“Tuyệt vời”.
Một đấng khác, khi đọc “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”, cũng của 1 đấng nhà văn VC, cũng được băng đảng Cờ Lăng vồ ngay lấy, “trác tuyệt”!
Đếch ai thấy đau cả! Thế mới tếu!
Chưa tếu bằng trường hợp bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết, của Celan. Đám giết người Nazi rất mê bài thơ, đọc lên thấy “khuây khoả”, xứng ngang với "khôi hài đen" hồi đó: Người Đức sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho người Do Thái vì vụ Lò Thiêu.
Băng đảng Cờ Lăng biết trước là cuốn sách sẽ thuộc loại best-seller, vồ liền.
Cứ có mùi tiền là lũ ruồi bọ xúm lại.
NQT
Đây là một tác phẩm văn chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu nhất, chính là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải ngoại tá hoả vì những phát giác ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần Quốc Hoàn nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng khư khư cầm trong tay Người đọc khóc cho những thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại, nên quên đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN 2000. Nghịch lý là ở chỗ đó: đâu là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những chi tiết độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc có thể thông cảm với giọng đanh đá, thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám làm quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực nào của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc trân trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng trăng goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp yêu thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm người đọc khựng lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau những vần thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:
 Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
 Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm"?

 (CKN 2000, trang 106)
V/v Cứ có mùi tiền...

“Giai thoại” sau đây, là do DN, báo SGN, kể: Lần tưởng niệm, hay giỗ đầu Mai Thảo, hình như vậy, băng Cờ Hoa Lăng Bác đứng ra tổ chức, và cái tay DNY hô hào, lập "giải thưởng văn học Mai Thảo", thế là 1 cái quỹ được thành lập, và 1 trong những vị thính/khán giả có mặt bèn xung phong bỏ vô… túi DNY 200 đô.

Và bà DN tự hỏi, giải thưởng thì sẽ muôn đời lục quân… Miền Nam, nhưng còn hai trăm đô, chắc là sau đó DNY bỏ vô account của ông ta, tiền lời của nó, bi giờ là bao nhiêu?

Cả 1 băng đảng, suốt cuộc chiến không đứa nào sứt 1 sợi lông… chân, bỏ chạy cũng lẹ nhất, bao nhiêu năm ở hải ngoại, không làm được chỉ 1 việc nhỏ cho ‘đại cuộc’, chỉ chăm chăm lo làm giầu, cả 1 đám bây giờ giầu xụ, bao nhiêu cơ quan báo chí, truyền thanh… đều thuộc vào tay chúng hoặc hậu duệ của chúng, thử hỏi sự khốn kiếp đâu có thua gì VC ở trong nước?
Chúng chửi VC, bằng thứ tâm địa khốn kiếp như thế, làm sao có… phép lạ xẩy ra? (1)




Cali Nov 2012 With HA

*
Đọc tình cờ mấy câu thơ của Phạm Công Thiện
trong số báo Tribu duy nhất của nhóm sinh viên
Đại học Toulouse-le-Mirail làm lúc Thiện về dạy
Thiện hay cùng la cà ra đó: Ici ta veste est encore sur une chaise

Ton paquet de Chesterfeld n’arrive pas à se finir
Thiện đốt thuốc liên hồi (tiệm bán thuốc lá của Nguyễn ĐìnhThuần ở Cali nay có bán thuốc Chesterfield không hay toàn Craven A)
DC nhớ PCT (1)
Gấu không quen PCT, và cũng chỉ gặp DC lần đầu, lần qua Cali Tháng 11/2012, và, gặp Sad Seagull.
Bèn viết về Thầy của PCT, là Henry Miller.
Cũng không phải viết, mà là [sẽ]dịch bài Giới thiệu "The Henry Miller Reader", Độc Bản Miller. (2)
Của bạn của Miller, là Durrell.

Je me rappelle maintenant comment le chauffeur se pencha au-dehors pour regarder vers le fleuve, du côté de Passy. Un regard si sain, si simple, un regard approbateur, comme s'il se disait à lui-même: «Ah! le printemps arrive! » Et Dieu sait, quand le printemps arrive à Paris, le plus humble mortel a vraiment l'impression qu'il habite au paradis !
MILLER
Tôi bây giờ nhớ lại cái cảnh anh tài xế taxi nghiêng người ra ngoài xe, nhìn về hướng sông, từ phía Passy. Một cái nhìn thánh thiện, đơn giản, và mới “xoa đầu hài lòng làm sao”!
Như thể anh ta đang nói với chính mình: “Ui chao Mùa Xuân về rồi.”
Và Thượng Ðế thì cũng chẳng thể nào hiểu ra được, khi Mùa Xuân trở về lại với Paris, thì một đấng con người nhún nhường, bình thường, tầm thường, đôn hậu, nhân hậu và cảm động, cái thứ sinh vật phải đi đến cái chết đó, vào lúc đó, nó cảm thấy thực sự đang ở Thiên Ðàng!
Note: Mấy bài hot, đầu tháng. Bài thứ ba, hot nhất.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’