Tribute to Grass


Cám ơn ông, Mr. Grass

Và, xin vĩnh biệt, và cầu mong linh hồn ông sớm siêu thoát. 

NQT


 Obituary: Günter Grass
Günter Grass, novelist, artist and all-round agitator, died on April 13th, aged 87
WHEN he was young, Günter Grass was taken by his mother to see “Tom Thumb” at the Stadttheater in Danzig. It delighted him. The Grimm Brothers’ tiny boy, unseen, tricked and adventured his way through life, a gadfly getting into places nobody else could. He crept into a horse’s ear, rode in triumph on the brim of a hat, was eaten by a cow, and in the end reappeared grinning from the belly of a wolf.
Tom also lodged in Mr Grass’s brain; and in 1959 he reappeared as Oskar Matzerath, the diminutive hero of his first and most celebrated novel, “The Tin Drum”. Oskar, at three, refused to grow any more, and became a small, irritating, persistent witness to 20th-century events that most Germans wished to forget. Crouched under a rostrum in 1933, he watched brownshirts and blackshirts at a rally. Hidden in a toyshop corner in 1938, he saw the Jewish owner abused and taken away, the shop smashed and fouled and the dolls disembowelled. In September 1939, curled asleep in a basket of letters in Danzig’s Polish post office, he heard and felt the shelling as the Nazis invaded.
Nor was Oskar silent. First, he had a red-and-white drum, which he hardly ever ceased beating and which, beaten right, could summon up the past. Second, he could scream high enough to shatter glass: sometimes just to make a mess, but at other times with diamond precision.
He could be an ignorant pest but was also, in some ways, Mr Grass’s ideal of how a writer should be. Not at the centre of events but on the fringes, unbiddable and subversive. Not with the establishment, the capitalists and the complacent petty bourgeois, like his own shopkeeper parents, but down with the victims and the poor, preferably on the political left. And, above all, loud. The job of a writer, especially in a postwar West Germany wrapped in wilful amnesia and silence, was to keep drumming, drumming, drumming: “pissing on the pillars of power, sawing away at the throne”, and hauling painful memories to the surface again.  
Subjunctives and sausage
There was much to be recaptured, not all of it heinous. For him, the war had taken away two particular loves. One was his birthplace, Danzig, the city of towers and continuous bells, of multicoloured ancient stone and marble-topped café tables, of shipyards and the smell of the Baltic: all now lost to Poland, but reconjured in his first three picaresque novels. The other loss was his pleasure in his own language. Only regular postwar readings with other radical writers could “take the goosestep out of German” and revive his love of its “utterly supple hardness”, its artfulness and the beauty of its subjunctives; rekindling, too, his childhood feeling for the word Labsal, refreshment, as when safely home from some perilous adventure.
Again, it was important to say the words aloud. The writing of his long, dense books was slow, punctuated by coffee and by the drawing and sculpting in which he was also trained and gifted. The drawings, many of fish, plants or reptiles, appeared in the books and on their jackets, often coming to the fore if words failed; and he spoke as he wrote, chewing over the sentences with the same reflective relish he might devote to potato pancakes, roast goose or liver sausage. He liked, he said, to mix spit with his ink.
He did so in all senses, for he never held back from voicing rage. The unification of Germany he thought a disaster, an invitation to more warmongering and the end of the distinctive culture of the East; his novel on the subject, “Too Far Afield” was written from the nostalgic viewpoint of two elderly men. Fired with pacificism, he attacked Germany’s military help for Israel and the presence in Germany of American missiles. Two giant novels, “The Flounder” (1977) and “The Rat” (1986) fumed about the world’s indifference to hunger, environmental destruction and the patient, adaptable wisdom of animals. He was a speechwriter for Willy Brandt of the Social Democrats in three campaigns, but it was a rare politician who would link himself for so long to such a fulminator.
His allies did so because this vigorous figure, in cord trousers and tweed jackets and, under an ever-drooping moustache, an ever-present pipe, was both Germany’s Nobel prizewinner and its moral voice. Hence the dismay when, in “Peeling the Onion” in 2006, Mr Grass revealed that part of his own life had been wrapped in silence: his service as a teenager in the Waffen-SS in 1944. By that time, he explained, this was a mere fighting arm of that vicious organisation; he had been conscripted into it; had not fired a shot, and was soon invalided out. In his meticulous account of it all, no detail seemingly forgotten now, he was another character from a Grimm fairy tale: this time a tearful, foolish young man on the run in the woods as the Russians advanced, wetting himself with terror.
His enemies, thoroughly tired of his political eruptions, called him a hypocrite. Friends thought it showed the immensity of the task he had taken on in the beginning. National amnesia afflicted even the fearless creator of the red-and-white drum. But what would they have done without him? And what other literary figure—apart from Tom Thumb, perhaps—had so persistently, and irritatingly, and triumphantly, got under his country’s skin?
Trận Biển Đông
Một cái hàng không mẫu hạm Mẽo
Và một cái Nhà Thờ Gothic
Cùng lúc đánh chìm nhau
Ở giữa Thái Bình Dương
Cho đến chót
Vì cha sứ trẻ chơi đàn óc gan.
Bây giờ, máy bay & thiên thần lắc lư trên bầu trời
Đếch có chốn nào để mà hạ cánh.
Gunter Grass
Christa Wolf thuộc thế hệ trong có cả tôi. Chúng tôi đều bị đóng dấu bởi chủ nghĩa Quốc Xã  và sự “ngộ” ra muộn - quá muộn - về tất cả những tội ác mà người Đức đã phạm phải trong quãng thời gian chỉ trải dài 12 năm. Kể từ đó, cái gọi là hành động viết, đòi hỏi, mi đã làm cái gì trong 12 năm đó, nghĩa là, phải giải thích những dấu vết còn lại của năm tháng kể trên.
Một trong những tác phẩm của Christa Wolf, Patterns of Childhood, "Những Mẫu Mã của Ấu Thời", đáp ứng đòi hỏi trên, phơi bày ra sự nhúng chàm tuần tự với chế độ độc tài của bà, và với những lý thuyết của chủ nghĩa Stalin.
Những lối đi lầm lạc nhẹ dạ tiếp theo, những kích động của hồ nghi, và của sự cưỡng lại những câu thúc, ép buộc, hạn chế của chế độ, của uy quyền, và quá cả nó, sự nhìn nhận sự tham dự của riêng mình, của 1 con người, vào một hệ thống, tất cả những điều ép lên những lý tưởng không tưởng của Chủ nghĩa xã hội – đó là những “dấu ấn” của năm thập kỷ viết lách đã kiến tạo danh tiếng của Wolf, một cuộc hành trình dẫn từ cuốn sách này tới cuốn khác, từ "Bầu Trời Chia Cắt", "The Divided Sky", 1963, tới cuốn sau cùng, "Thành phố của những thiên thần", "Stadt der Engel" (“City of Angels,” 2010); và những cuốn sách còn lại.
Lấy ra 1 cuốn: "Cái còn lại", “What Remains” là tít của một câu chuyện được xb Tháng Sáu, 1990, bởi Aufbau Verlag, tại Đông Đức, và Luchterhand Verlag, Tây Đức. Ngay cả trước khi nó có thể tới tay độc giả Đông cũng như Tây Đức, một vài ký giả Đông Đức - thứ ký giả coi họ là những kẻ ở về phiá của những người thắng trận đối với lịch sử, và cái giờ để xác nhận điều này thì trong tầm tay – cũng chẳng hề biết sự cấm cản, và ra tay. Christa Wolf, tác giả nổi tiếng và được ngợi khen rất nhiều qua sự kháng cự của bà, người đã từng được trao giải thưởng văn học danh giá nhất của Đức, the Büchner Prize, vào năm 1980, người đã từng được sinh viên hâm mộ vây quanh, hai năm sau đó, khi đọc diễn văn về Thơ, tại Frankfurt, Christa Wolf, mà tiếng nói được nghe bởi cả hai nước Đức, thì bây giờ - Bức Tường thì đã sập – là đề tài để thiên hạ thi nhau ném đá. Chẳng khác gì một cuộc xử tử, hành quyết trước công chúng.
Tuần báo Die Zeit, và nhật báo Frankfurter Allgemeine Zeitung mở ra cú tấn công vào 1 và 2 Tháng Sáu 1990. Ulrich Greiner và Frank Schirrmacher đặt để giọng điệu vặn mức độ ra đòn, kéo theo cả 1 lũ báo chí, ký giả, bóp nghẹt “phản biện” từ 1 số ít không cùng phe.
Bầy sói hung dữ dựa vào cái chi để xâu xé, huỷ diệt Wolf? Một bản văn viết vào mùa hè 1979, mà đề tài của nó là hồ nghi, hồ nghi về chính mình, và sự theo dõi của cơ quan mật vụ nhắm vô vợ chồng Wolf. Bầy sói buộc tội Wolf đã hèn nhát, không cho in bản văn ngay sau khi viết.
"Bởi vì nếu làm như thế, thì coi như hết đời Wolf, như là nhà thơ của nhà nước, và kết quả sẽ là lưu vong ở Tây Phương, một điều quá dễ dàng cho Wolf", Ulrich Greiner từ cái góc an toàn của mình, phán. Còn  Frank Schirrmacher, đi xa hơn, buộc tội Wolf bằng "con mắt của quần chúng, của đám đông": “Mọi người ai thì cũng nhận ra đó là những con chữ của 1989, không phải của 1979”.
Không ai thừa nhận rằng, tác phẩm Sommerstück (“Summer Piece”, tạm dịch, Kịch Mùa Hè,), bà viết liền sau “What Remains”, đã phải đợi 10 năm thì mới được xb ở GDR.
Ý của Grass theo GCC hiểu là, giả như Wolf cho in liền, thì cũng đếch có đứa nào dám in! Đây cũng là luận điệu đám Chống Cộng điên cuồng chửi mấy anh Trùm VC, cứ phải đợi về hưu mới dám lên tiếng, hà, hà!
Cơn giận dữ, trận ném đá của đám đạo đức giả, đám báo chí Đức mới khủng khiếp làm sao. Chúng có bao giờ lâm vào trường hợp được Đảng lãnh đạo, viết dưới ánh sáng của Đảng CS Mít quang vinh, trong tinh thần ba dòng thác Cách Mạng của thời đại chúng ta, và dưới sự kiểm duyệt của nhà nước. Được dẫn dắt bởi mấy những tờ báo có thế lực, và ảnh hưởng, chiến dịch bôi nhọ Wolf tiếp tục cả tới khi bà mất, trong những dòng cáo phó, phân ưu, nhất là trong cái từ “Gesinnungsästhetik” [một thứ mỹ học dựa trên niềm tin vào con mắt của nhân dân nghĩa là vào lũ cớm VC, hải ngoại cũng có thứ này, trong số Chống Cộng Điên Cuồng, chính nghĩa VNCH, hay trong lũ viết lách vô tài, chỉ chờ dịp để tố kẻ khác], dựa vào niềm tin của cái gọi là chính trị phải đạo, và chúng sử dụng thứ mỹ học này để soi vô tác phẩm của Wolf và nhiều tác giả khác nữa, thời hậu chiến.
1990. Năm “Cái còn lại” được xb và cũng là năm tình bạn của chúng tôi bắt đầu. Gặp gỡ, thư từ trao đổi thường xuyên. Mặc dù Christa còn cực đau, và cố giữ đừng để cho thể xác cùng tinh thần suy sụp, nhưng rõ ràng là những đòn khốn kiếp của báo chí đã ảnh hưởng nặng nề lên bà. Điều gì đã xẩy ra cho bà trong xứ sở của chính bà, một xứ sở mà bà yêu thương mặc dù đủ thứ chuyện, bây giờ lại tiếp tục vũ như cẩn, trong cái mạch Nam Bắc một nhà, 30 năm mới có ngày hôm nay vui sao nước mắt lại trào [pan-German vein]. Lăng mạ, trích dẫn méo mó, sai lạc, không ngừng nghỉ toan tính ám sát "tính cách", dưới cái khiên “tự do diễn đạt”. Cái cách cư xử nhục nhã này cũng là 1 trong những “cái còn lại”. Đó là những điều cực kỳ nhơ bẩn, xẩy ra, sau khi nước Đức được thống nhất [thua xa xứ Mít!]

The Paris Review

Günter Grass, The Art of Fiction No. 124

GRASS
As a child I was a great liar. Fortunately my mother liked my lies. I promised her marvelous things. When I was ten years old she called me Peer Gynt. Peer Gynt, she said, here you are telling me marvelous stories about journeys we will make to Naples and so on . . . I started to write down my lies very early. And I continue to do so! I started a novel when I was twelve years old. It was about the Kashubians, who turned up many years later in The Tin Drum, where Oskar’s grandmother, Anna, (like my own) is Kashubian. But I made a mistake in writing my first novel: all the characters I had introduced were dead at the end of the first chapter. I couldn’t go on! This was my first lesson in writing: be careful with your characters.
INTERVIEWER
What lies have given you the greatest pleasure?
GRASS
Lies that do not hurt, which are different from lies that protect oneself or hurt another person. That is not my business. But the truth is mostly very boring, and you can help it along with lies. There is no harm in that. I have learned that all my terrible lies really have no effect on what is out there. If, several years ago, I had written something that predicted the recent political developments in Germany, people would have said, What a liar!
Khi còn nhỏ, tôi tổ sư nói dóc. Mẹ tôi cực ưa chúng! Tôi gặp trục trặc với cuốn tiểu thuyết đầu tay: Tất cả những nhân vật tôi trình ra, thì đều chết ở cuối chương Một.
Đây là bài học dầu tiên về viết của tôi: Hãy cẩn trọng với những nhân vật của mình

Gunter Grass:
Christa Wolf thuộc thế hệ trong có cả tôi. Chúng tôi đều bị đóng dấu bởi chủ nghĩa Quốc Xã  và sự “ngộ” ra muộn - quá muộn - về tất cả những tội ác mà người Đức đã phạm phải trong quãng thời gian chỉ trải dài 12 năm. Kể từ đó, cái gọi là hành động viết, đòi hỏi, mi đã làm cái gì trong 12 năm đó, nghĩa là, phải giải thích những dấu vết còn lại của năm tháng kể trên.

Có tên nhà văn VC nào làm được điều như GG.
Bốn chục năm, chúng ngộ đến phát ngộ về tội ác của VC, của hai cuộc chiến, nhưng đâu có tên nào lên tiếng?
Khốn kiếp hơn, chúng đổ hết cho Mỹ Ngụy!


GÜNTER GRASS, one of the great German novelists, has died at the age of 87. A man renowned for a willingness to write openly about his country’s 20th-century history, his reputation as a moral authority was dented by the controversies of his later life.
In 1959 Mr Grass published his first novel, the one that would go on to define his literary career. Set in his native Danzig, “The Tin Drum” tells the story of 20th-century Germany through the memoirs of its narrator, Oskar Matzerath, a drum-obsessed man-child who has decided never to grow up. The book had a hostile reaction in Germany on its publication, but went on to become hugely successful internationally (and the basis for an Oscar-winning film 20 years later). Other significant works included “Cat and Mouse” and “Dog Years”, which with “The Tin Drum” make up the “Danzig Trilogy”, and “The Flounder”, a sprawling fairy-tale of a novel that charts a much longer span of German history. In 1999 Mr Grass was awarded the Nobel prize for literature, with the committee praising “frolicsome black fables” that “portray the forgotten face of history".
Always a polemicist, he expressed doubts about the reunification of Germany in 1990, and in an autobiography published in 2006 he came clean about his membership of the Waffen-SS during the second world war—an admission that many felt should have been made earlier, given Mr Grass’s status as the voice of Germany’s public conscience with respect to its Nazi past. Then in 2012 he was accused of anti-semitism after writing a poem that denounced Israel’s nuclear programme and its aggressive posture towards Iran.
A full obituary considering Mr Grass's literary, social and moral impact in greater detail will be available in this week’s Economist.

Bài trên tờ Người Kinh Tế, không quên cú thú tội trước bàn thờ của GG, và không quên luôn bài thơ của ông, khi tố cáo Do Thái, về chương trình võ khí nguyên tử của nước này, và thái độ hiếu chiến đối với Iran. Trên TV có nhắc tới vụ này, để coi lại.
 

*

"Why only now, grown old,/And with what ink remains, do I say:/Israel's atomic power endangers/an already fragile world peace?" he writes, before answering his own question: "Because what must be said/may be too late tomorrow."
Gunter Grass
Tại làm sao bi giờ, già quá rùi, còn tí mực còn lại, tui lại để cho tay tui dính mùi "giang hồ gió tanh mưa máu"?
Bởi là vì cái phải nói thì phải nói, trước khi quá muộn, vào ngày mai.
Nghe như giọng GCC, đếch phải Gunter Grass!
Hà, hà!
Gunter Grass vừa đi một bài thơ, “Điều phải nói”, tố cáo Israel âm mưu làm cỏ, [wipe out, annihilation] Iran, gây hiểm họa cho hòa bình thế giới.
“Tớ quá già rồi, và bằng những giọt mực chót, cảnh cáo nước Đức của tớ, coi chừng lại dính vô tội ác [“supplier to a crime”]." (1)
Bộ Trưởng ngoại giao Israel, đọc bài thơ, phán, thơ vãi linh hồn [“pathetic”], và cái việc ông ta, Grass, chuyển từ giả tưởng qua khoa học viễn tưởng, coi bộ ngửi không được, poor taste.
(1)
Günter Grass pointe tout particulièrement le silence de l'Allemagne, "culpabilisée par son passé nazi", qui refuserait de voir le danger constitué par l'arsenal nucléaire israélien. Un arsenal "maintenu secret -, et sans contrôle, puisque aucune vérification n'est permise" et qui "menace la paix mondiale déjà si fragile", insiste l'écrivain. Il en profite pour rappeler que l'Allemagne s'apprête à livrer un sixième sous-marin à Israël. Berlin et Tel Aviv ont en effet conclu un contrat en 2005 sur la vente de sous-marins Dolphin, qui peuvent être équipées d'armes nucléaires. Enfin, Günter Grass réclame la création d'une agence" internationale pour contrôler les armes atomiques israéliennes, tout comme l'AIEA le fait pour les activités nucléaires iraniennes
Grass đặc biệt nhấn mạnh tới sự im lặng của nước Đức, “do tội lỗi bởi quá khứ Nazi”, thành ra vờ, làm ra vẻ không nhìn thấy hiểm họa của võ khí nguyên tử của Israel. Một võ khí nguyên tử “được giữ bí mật, không kiểm cha, kiểm mẹ, vì đếch ai được phép”…
*
GRASS'S CENTURY
From a writer like Gunter Grass, one expects a masterpiece even on his deathbed; though by all indications My Century (Alfaguara) will be only the second-to-last of his great books. It's a collection of short stories, one for each year of the century now behind us, in which the great German writer examines the frequently tortured fate of his country. From the first soccer teams to World War I, from the economic crisis of the twenties to the rise of Nazism, from World War II and the concentration camps to the German Miracle, from the post-war period to the fall of the Berlin Wall, everything has a place in this book, which manages to seem short though it's more than four hundred pages long, perhaps because the succession of horrors, the succession of disasters, and the human instinct for survival despite everything make it feel that way: the century has exhaled.
    The Grass of this book, of course, isn't the Grass of The Tin Drum or of Dog Years or The Flounder, to mention just three of his great and all-encompassing works. Here we have before us a crepuscular and fragmentary Grass, as merited by the occasion, and also a seemingly (though only seemingly) weary Grass, who embarks on the review of his German century, which is also the European century, with the conviction of having traversed an enduring piece of hell and also with the certainty, the old and maligned and magnificent certainty of the Enlightenment, that human beings deserve to be saved, even though often they aren't saved. We're exiting the twentieth century marked by fire. That's what Grass tells us. And he tells it in some wonderful stories, alive with humor and pain, written as if by a young man of thirty, full of energy and with a long life ahead of him.
Bolano: Trong Ngoặc.
Note: Bài này ngắn, nhưng cực thú. GCC đã tính đi hết cả bài, nhưng lần khân, nay nhân Grass đi xa, bèn gửi với theo.
Từ 1 nhà văn khổng lồ như Grass, người ta hy vọng 1 cuốn khổng lồ, ngay cả khi ông đang hấp hối trên giường chờ chết.
Tuy nhiên, dù có thổi như Tố Hữu thổi Xì, thì cuốn “Thế Kỷ Của Tôi”, chỉ đáng...  chùi đít!
Me-xừ Grass của cuốn này, không phải me-xừ Grass của Cái Trống Thiếc….
The Turkish Nobel laureate Orhan Pamuk had warm personal memories: “Grass learned a lot from Rabelais and Celine and was influential in development of ‘magic realism’ and Marquez. He taught us to base the story on the inventiveness of the writer no matter how cruel, harsh and political the story is,” he said.
Ông học nhiều từ Rabelais và Céline, và ảnh hưởng bởi hiện thực thần kỳ và Garcia Marquez. Ông ta dạy chúng ta, hãy viết, bằng phát kiến của nhà văn, đếch thèm để ý đến câu chuyện, cho dù nó độc địa, dữ dằn hay bị chính trị cấu xé, tới cỡ nào.
Pamuk, nhắc tới Céline, khi tưởng niệm Grass. Tuy nhiên, qua trả lời phỏng vấn trên tờ Văn Học, ML, Grass rất bực khi bị coi là 1 Céline của Đức.
Tại sao?
Theo GCC, có lẽ là do tình trạng bị ghét của cả hai, một, bởi người Đức, và 1 một của người Pháp, "một thứ nhà văn cần phải bị đốn:
Một nhà văn phải bị đốn bỏ: nước Đức chống lại Gunter Grass", (Un écrivain à abattre: l'Allemagne contre Gunter)
Nhân đây, bèn trích dẫn Kazin, trong bài Intro cho tờ The Paris Review, số có bài phỏng vấn Céline:
Louis-Ferdinand Celine was an extraordinary and terrifying presence in the twentieth-century novel. He was never altogether sane after suffering head wounds in the First World War, and by the Second, like other wounded and desperate French writers who had come to despair of history, he allied himself with the most evil forces in Europe in order to protest the cruelty and injustice that had always been under his eye when he practiced medicine in the slums of Paris. Celine was an amazingly powerful writer who when interviewed did not make very much of being a writer. He thought it enough for a man to tell a story; he must tell it in order to be released from life's order; only then can he die in peace. It is doubtful that Celine died in peace. But he was so strong and original a writer-surely he is the only genius of the French novel since Proust-that when he tells his "story" the impact of his life experience becomes one of those blows which we suffer with gratitude. He describes his childhood in Paris-the mother, a lace maker, made the family live on noodles because more pungent foods left odors in the lace-he touches on the Fir t World War, on his doctoring. It is extraordinary how much, ill these few pages, he says about the human condition. Politically, Celine was a maniac. Yet his gift for describing things as they are was great, and the compassion he shows in his books is striking.
Still, he said (in another interview) that his books were defective, for "great literature is never personal, like that." The "personal" is more and more the theme, the opportunity, the dilemma of contemporary literature. Rarely will one see the eloquence and the danger of the personal mode so clearly revealed as it is in these interviews.
ALFRED KAZIN
*

Note: Số báo này, mua xon ở Lào. Có bài Intro của Kazin. Tay này tuyệt lắm. Di dân Mẽo gốc Do Thái. Trong tập essay GCC mới mua, dưới đây, có 1 bài rất tuyệt về tay này.


*

GCC đang tính tìm hiểu Mít di dân có thể nào thành công không, về cái chuyện viết lách ở Mẽo, so với Mẽo gốc Do Thái.
Trên tờ The New Yorker, trong bài viết về cú Mỹ Lai, tác giả có nhắc tới Nguyễn Quí Đức, đấng này về luôn Việt Nam rồi, có giải thích, ở Mẽo không làm sao hoàn tất là 1 con người được, về Việt Nam tìm cái phần thiếu, nhớ đại khái [sẽ check lại sau].
Rồi Thận Nhiên, lưu vong kép, rồi Đinh Linh, rồi Sến ở Đức…

Vào năm 1962, khi tôi tới Hamburg nhân dịp ra lò ấn bản tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà xb gợi ý, hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not?
Thế là chúng tôi làm 1 chuyến ghé thăm ông, ở 1 cái làng; ông có hai ngôi nhà ở trong làng, một để viết, và sống, một để vẽ vời, ông là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm, mọi tên ký giả Đức tôi gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì về GG, và tôi bèn phán, ông ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà văn vĩ đại nhất hiện còn sống trên thế giới; vài tên ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó ư, "Cái Trống Thiếc", OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo chim rồi, hết viết được rồi, hà, hà! 
 
"Tất cả văn chương lớn đẻ ở miệt vườn"
(Toute grande littérature nait en province)
Sau khi được Nobel, nhà văn Đức, G. Grass, đã dành cho báo văn học Pháp, Magazine Littéraire (số 381, Nov 1999), một cuộc nói chuyện dài.
Olivier Mannoni, người thực hiện, là dịch giả, viết tiểu luận, tác giả "Một nhà văn phải đốn: nước Đức chống lại Gunter Grass", (Un écrivain à abattre: l'Allemagne contre Gunter Grass; nhà xb Ramsay, 1996).
Note: Vợ chồng Gấu thăm Paris lần đầu, đúng lúc Grass trả lời tờ Văn Học. Cái thư Cám ơn Grass, Gấu viết được, là nhờ bài phỏng vấn đó. Nếu không đọc nó, không viết nổi lá thư, hoặc không nghĩ tới chuyện viết nó.
Nhờ đến Paris, nên có dịp qua Đức. Rồi chuyện này qua chuyện nọ, bèn nhớ đến cái hồi ở Trại Tị Nạn, chuyên viết thư giùm cho những gia đình không được công nhận là tị nạn chính trị, phải trở lại xứ Mít. Thế là bèn... viết.
Đ
úng lần gặp PHA. Bèn đi 1 đường:
Gặp Gỡ Cuối Năm

2
Nhà văn Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của một đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi" Và, "hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ có một mùa thu tuyệt vời!
Khi nghe tin được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu. 
Và ông kết luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót. 
Grass cho rằng, cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự "chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người, đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện, nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có bạn, tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!"
Theo Grass, sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương, không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh!
Người viết cứ luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống!
Nhưng gặp ở đâu, chứ ở Paris thì còn ca cẩm gì nữa!
*

Quán Củ Hành
-Ông nghĩ sao về cái cú tự thú của Grass?
Daniel Cohn-Bendi: Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết Vết Chàm của Philip Roth. Sau cùng vậy là ai cũng có một vết chàm trong cuộc đời của mình, ngay cả những ông tổ sư đạo đức của thời đại chúng ta. Gunter Grass như vậy là cũng có vết chàm của ông ta trong đời. Thật buồn cho ông ta, và những lời giải thích của ông ta thì thật là thảm hại. Nhưng như vậy làm cho ông càng thêm người hơn. Theo một nghĩa nào đó, điều này còn làm cho chúng ta an tâm.
-An tâm, khi tiếng tăm của ông ta trở thành tăm [tai] tiếng? Một người như Grass?
Tôi nghĩ như vậy. Điều này làm cho chúng ta an tâm, về chính cuộc đời đáng thương của chúng ta! Nó cho thấy, ngay cả trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân!
...
-Nhưng còn giải thưởng Nobel văn chương thì sao? Chẳng lẽ Grass phải trả lại?
Hỏi gì ngu thế. Nếu phải trả lại, thì Garcia Marquez cũng phải trả. Nobel văn chương, cho ông nhà văn, chứ đâu cho ông thánh!
Chuyện của Grass làm Gấu nhớ một câu chuyện ngụ ngôn đọc khi còn nhỏ, về một anh chàng cứ mỗi lần phục vụ Quỉ Sứ là bèn đóng một cái đinh lên "thập tự thơ".
Sau này, khi đã buông dao đồ tể, mỗi lần làm được một việc phúc đức, thì lại nhổ một cây đinh ra khỏi thập tự ác.
Thế rồi, cây thập tự sạch đinh.
Anh ta mừng quá, ngồi... khóc.
Bụt bèn hiện lên, hỏi tại sao con khóc.
Vưỡn còn những dấu đinh!
Bụt bèn cười:
Ôi chao còn dấu đinh, là một điều quá tuyệt vời, chứ sao lại khóc?
Một cái thập tự không có dấu đóng đinh, đầy ngoài chợ, ai thèm!
Mong sao nhà thơ ở trong nước vào lúc này đang hì hục nhổ những cái đinh ra khỏi thập tự thơ, cùng với cả thế hệ nhà văn nhà thơ của ông ta!
NQT.
Về cái cuộc kỳ cọ của thế kỷ mà Milosz đã nói tới, và Grass, và ngay cả Milosz, Văn Cao... là những người thực hành, đã được Borges tiên đoán, khi chú giải Kafka, trong cuộc truy tìm những tiền thân của nhà văn tưởng như chẳng có ai đi trước, nhưng đệ tử thì lại có quá nhiều, làm thành cả một trường phái.
.... Một là câu chuyện một người làm bạc giả, dưới sự kiểm soát gắt gao, đếm giấy bạc trong Ngân hàng Anh; cùng một đường hướng như vậy, Thượng Đế sẽ không tin tưởng Kierkegaard, và đã giao cho ông một nhiệm vụ để hoàn thành, chính bởi vì, Người biết ông ta vốn thân quen với cái xấu.

Tiền Thân Kafka

Nói một cách khác, dễ gì mà được Ông Trời trao trách nhiệm làm.... bọ!
Thế mới khổ, mới bảnh, mới 'máu' cho dân tộc Việt Nam, một 'chosen people', cả về hai mặt vinh quang nhất mực, và khốn nạn cũng thật là cực kỳ!
Dân tộc Do Thái chẳng đã tự hào về cái chuyện được Thượng Đế lọc ra làm vật Tế Thiêu?
Một kẻ chuyên môn làm bạc giả, mà lại được giao cho cả một kho bạc, có khác gì một ông SS, được giao trách nhiệm hàn gắn nước Đức và linh hồn Đức sau Hitler.

Cái chuyện Hóa Thân của Kafka, cũng đã được 1 nhà học giả giải thích, đây là lần tới thứ nhì, The Second Coming, của Chúa, nhưng do trục trặc, thay vì giáng sinh, dưới dạng người, thì là dưới dáng bọ.
GCC bèn gọi là hiện tượng Chúa Sảy Thai, bị 1 tín hữu Ky Tô lắc đầu, mi nhảm quá!
Sorry. Nhưng có thể đúng như thế!
Hóa Thân
Weinberg khai triển biểu tượng tôn giáo ngầm chứa trong câu chuyện, đã coi  đây là một chuyển hoá tiêu cực, a negative transfiguration, một nghịch đảo hiện tượng Chuá nhập thân làm người phàm, một Khổ nạn Giê-xu sẩy thai [the Passion of an abortive Christ figure]
[Hoá Thân của Kafka, bản tiếng Anh, Bantam Books; phần phụ lục, Explanatory Notes To The Text].
Cám ơn ông, Mr. Grass


Và, xin vĩnh biệt, và cầu mong linh hồn ông sớm siêu thoát.
NQT
The Turkish Nobel laureate Orhan Pamuk had warm personal memories: “Grass learned a lot from Rabelais and Celine and was influential in development of ‘magic realism’ and Marquez. He taught us to base the story on the inventiveness of the writer no matter how cruel, harsh and political the story is,” he said.
Ông học nhiều từ Rabelais và Céline, và ảnh hưởng bởi hiện thực thần kỳ và Garcia Marquez. Ông ta dạy chúng ta, hãy viết, bằng phát kiến của nhà văn, đếch thèm để ý đến câu chuyện, cho dù nó độc địa, dữ dằn hay bị chính trị cấu xé, tới cỡ nào.
By Salman Rushdie
He danced across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because of his personal grace.
Sự vĩ đại của GG.
Ông khiêu vũ qua những ghê tởm, gớm ghiếc của lịch sử, tới cái đẹp của văn chuơng, sống sót cái ác, nhờ ân sủng cá nhân của mình.
Ui chao, thèm câu phán quá, đeo ở cổ...  Gấu Cà Chớn, như cái tai người, của 1 nhân vật, của NMG trong Mùa Biển Động.
Hà, hà!
[Note: Bạn chỉ cần dịch, từ "ân sủng", là "nhân hậu và cảm động", là ra GCC, thay vì GG!]
*

Grass cực bảnh, theo GCC. Cái cú thú tội của ông thần sầu, khó có ai bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít làm được như ông, là lịch sử xứ Mít đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào, não cũng bị thiến 1 mẩu, là thế!

Trong tập tiểu luận Quê Hương Tưởng Tượng, (Patries imaginaires), Salman Rushdie có nhắc tới một hình ảnh theo ông thật là tuyệt vời trong tác phẩm "Mùa Đông của ông Khoa trưởng" của nhà văn Mỹ, Saul Bellow, Nobel văn chương. Nhân vật chính, ông khoa trưởng, Corde, nghe tiếng chó sủa một cách man rợ ở đâu đó. Và ông ta tưởng tượng ra được rằng, tiếng sủa đó là sự nổi loạn của con chó chống lại sự hữu hạn của kinh nghiệm loài chó. "Thượng Đế hỡi, con chó nói, xin làm ơn mở rộng thế giới ra một chút xíu nữa". Rồi Rushdie kết luận: Bởi vì Bellow thực sự không nói chuyện mấy con chó, hoặc không phải chỉ nói chuyện về chúng mà thôi, tôi có cảm tưởng cơn cuồng nộ, và khát vọng của con chó cũng là của chúng tôi, của chúng ta, những người ở trên thế gian này.
Không hiểu sao, khi đọc bài phỏng vấn nhà văn Thảo Trường trên Văn, số tháng Chạp, 1996, tôi bỗng nhớ đến S. Rushdie, cùng cơn cuồng nộ, và khát vọng của ông. Nhà văn Thảo Trường khẳng định một điều: "Văn Học Việt Nam thì phải viết bằng Quốc Ngữ. Viết bằng chữ khác thì không nên gọi là văn học Việt Nam." Không ai có thể phủ nhận điều này. Và bởi vì ngay cả khi khẳng định, chúng ta vẫn còn tra hỏi, bởi vì câu hỏi nhiều khi cần thiết hơn là câu trả lời; cho nên ở đây, người viết chỉ xin đưa ra một đề nghị, liệu chúng ta có nên thêm vào Văn Học Việt Nam một "mảng văn chương viết bằng tiếng Anh".
Bởi vì Thượng Đế quả tình đã nghe được lời khẩn cầu của S. Rusdhie, và thế giới đối với ông quả có rộng thêm, không phải một chút xíu, mà thật rộng, ít ra cũng rộng hơn nhiều, so với đám di dân, tỵ nạn chúng ta.
Cùng với những nhà văn như Michael Ondaatje, Kazuo Ishiguro... họ đang đại diện cho dòng văn chương thế giới hiện đại: dòng văn chương viết bằng tiếng Anh của những người di dân. Họ cũng đã từng đoạt giải thưởng The Booker, một giải thưởng văn chương của "đế quốc Anh". Nếu không có những người như họ, liệu tiếng Anh, dòng văn chương viết bằng tiếng Anh có trở nên giầu có, trở thành niềm hãnh diện không phải của một số sắc dân mà coi như của toàn thể nhân loại. Bản thân người viết, khi đọc họ, thí dụ như nhà văn nữ Amy Tan, chỉ thấy đây là một người đàn bà Trung Hoa, viết về những đề tài muôn thuở của con người, và những xung đột, những mâu thuẫn... khi họ, những "đứa con của Trung Nguyên, của ông Trời", phải đụng đầu với thế giới Tây Phương; trong niềm tin tưởng mãnh liệt, chỉ cho họ đặt chân xuống đất Trung Hoa là họ trở thành người Trung Hoa "một trăm phần trăm".
Trong cuốn "Tàn Ngày", (The Remains of the Day), tác phẩm đoạt giải The Booker, nhà văn gốc Nhật, Kazuo Ishiguro đặt thẳng vấn đề, "người ta không thể có nhân phẩm, một khi là một tên nô lệ", và có nên trung thành với "ông chủ", Lord Darlington, một nhân vật biểu tượng cho vương quốc Anh, cho sự cao cả, la grandeur, của vương quốc đó, đến nỗi đẩy người yêu vào tay kẻ khác, cuối cùng khám phá ra ông chủ chỉ là một kẻ cộng tác với Nazi. 
Cũng trong Quê Hương Tưởng Tượng, S. Rusdhie, trong bài viết Luận về phê bình, Essai de critique, bàn về vấn đề di dân, về những tác phẩm văn học thế giới, và của nhà văn Đức, Gunter Grass. Ông viết: Có những tác phẩm mở ra những cánh cửa cho độc giả, những cánh cửa ở trong đầu, những cánh cửa mà họ chẳng bao giờ nghi ngờ đến sự hiện hữu của chúng. Và có những độc giả mơ ước trở thành nhà văn; họ tìm kiếm một cánh cửa lạ lùng nhất trong số tất cả những cánh cửa... Lại có những độc giả khác đọc và bắt đầu mơ mộng. Với những Alice như vậy, họ ao ước "di cư" từ Thế Giới vào trong Những Cuốn Sách. Đối với họ, có những cuốn sách (nếu họ may mắn) cho phép họ du lịch, cho phép họ trở thành "nhà văn có sẵn ở trong họ"... Một cuốn sách cũng giống như một tờ thông hành, và những tờ thông hành của tôi, gồm có Hồi Ký của Serge Eisentein, Con Quạ của Ted Hugues, Những Giả Tưởng của Borges, và trong mùa hè 1967, Cái Trống, của Gunter Grass.
G. Grass là đứa trẻ nổi tiếng nhất của Danzig (Lech Walesa, người độc nhất có thể tranh giành với ông danh hiệu này, thực ra sống ở Gdansk). Ông cũng là nhân vật quan trọng "trung tâm" của dòng văn chương di dân, và di dân lại là nhân vật trung tâm và quyết định của thế kỷ 20 này. Như rất nhiều di dân, như rất nhiều người đã mất một thành phố, ông tìm lại được nó trong hành trang của ông, dấu kỹ trong một cái hộp cũ bằng sắt. Thành phố Prague của Kundera, Dublin của Joyce, Danzig của Grass: Ôi chao, cái đám lưu đầy xứ người, cái đám tỵ nạn, cái đám di dân gói ghém không biết bao nhiêu là thành phố trong hành trang của họ theo suốt những cuộc hành trình "lang thang Do thái" đó! Và đừng coi thường sự cứng đầu của họ, những nhà văn như thế. Họ không cho phép bất cứ ai được "Gdansk hóa" quá khứ của họ. Trong cái thành phố mà Grass mang theo, Labesweg vẫn là Labesweg, và những xưởng đóng tầu nhìn thấy sự ra đời của Solidarnosc không gọi là Lénine, nhưng mà là Schichau.
Theo một nghĩa nào đó, Grass chỉ có một nửa "di dân". Một di dân chính hiệu đau nỗi đau ba lần "đứt phim": mất nơi chốn, sống ở một nơi có một tiếng nói xa lạ hoàn toàn, sống với những người xa lạ hoàn toàn, nhiều khi còn tỏ vẻ thù nghịch đối với người đó. Chính ba lần đứt phim này đã biến di dân trở thành quan trọng vì ba điều vừa kể trên là ba thành phần quan trọng nhất để định nghĩa một con người. Mất cả ba, họ bắt buộc phải tìm những cách thức mới để tự diễn tả, những cách thế mới để là người.
Di dân dâng hiến cho chúng ta "ẩn dụ" giầu có nhất của thời đại. Từ "ẩn dụ", métaphore, theo gốc Hy Lạp của nó, có nghĩa "mang qua", diễn tả một trạng thái thiên di, từ ý tưởng qua hình ảnh. Di dân do đó là những sinh vật ẩn dụ tự bản chất.
Grass còn là một di dân đối với quá khứ của ông. Không phải đợi đến khi người Mỹ tới, và cuộc chiến chấm dứt ông mới nhận ra chuyện gì thực sự đã xẩy ra ở Đức. Một kinh nghiệm mới đắng cay làm sao khi khám phá ra rằng hình ảnh toàn diện về thế giới mà người ta có được là giả, không những giả mà còn được tạo nên từ Quỷ, từ Ma. Và trách nhiệm mới lớn lao làm sao đối với chỉ một cá nhân: xây dựng lại, tái tạo thực tại từ những mảnh vụn, những điêu tàn. Theo nghĩa đó, Grass là một di dân trong Lịch Sử. Ông là di dân "kép", chứ không chỉ một nửa. 
Quê Hương Tưởng Tượng, tại sao vậy?
Trong bài viết được dùng làm tên cho cả tập, S. Rushdie viết về một kỷ niệm lần ông trở lại Bombay. Như những di dân, những kẻ lưu đầy xứ người, ông luôn bị ám ảnh bởi một nỗi mất mát, và sự cần thiết phải "tái chinh phục" quá khứ, phải quay về với nó, cho dù có bị biến thành tượng muối. Nhưng nếu chúng ta quay lại, chúng ta phải biết rằng là, sự xa mặt đã làm cho chúng ta không thể nào tái chinh phục được cái đã mất; một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ chỉ xây dựng được, không phải những thành phố, những làng mạc thực mà là những quê hương tưởng tượng.
Những Việt Nam, Sài-gòn, Mỹ Tho, Cai Lậy... của trí tưởng.
NQT
Note: Bài viết này, Gấu viết, hình như 1997, khi bắt đầu giữ mục Tạp Ghi của tờ VH, của NMG. Nay, để tưởng niệm G. Grass, Tin Văn đi hết bài viết của Rushdie, về ông, trong Quê Hương Tưởng Tượng.
Tính đi bài trên The New Yorker, nhưng hết credit, tờ báo đếch cho đọc!
Đọc được rồi, dùng 1 cái PC khác, hà hà!
In 1982, when I was in Hamburg for the publication of the German translation of “Midnight’s Children,” I was asked by my publishers if I would like to meet Günter Grass. Well, obviously I wanted to, and so I was driven out to the village of Wewelsfleth, outside Hamburg, where Grass then lived. He had two houses in the village; he wrote and lived in one and used the other as an art studio. After a certain amount of early fencing—I was expected, as the younger writer, to make my genuflections, which, as it happened, I was happy to perform—he decided, all of a sudden, that I was acceptable, led me to a cabinet in which he stored his collection of antique glasses, and asked me to choose one. Then he got out a bottle of schnapps, and by the bottom of the bottle we were friends. At some later point, we lurched over to the art studio, and I was enchanted by the objects I saw there, all of which I recognized from the novels: bronze eels, terracotta flounders, dry-point etchings of a boy beating a tin drum. I envied him his artistic gift almost more than I admired him for his literary genius. How wonderful, at the end of a day’s writing, to walk down the street and become a different sort of artist! He designed his own book covers, too: dogs, rats, toads moved from his pen onto his dust jackets. 
After that meeting, every German journalist I met wanted to ask me what I thought of him, and when I said that I believed him to be one of the two or three greatest living writers in the world some of these journalists looked disappointed, and said, “Well, ‘The Tin Drum,’ yes, but wasn’t that a long time ago?” To which I tried to reply that if Grass had never written that novel, his other books were enough to earn him the accolades I was giving him, and the fact that he had written “The Tin Drum” as well placed him among the immortals. The skeptical journalists looked disappointed. They would have preferred something cattier, but I had nothing catty to say. 
I loved him for his writing, of course—for his love of the Grimm tales, which he remade in modern dress, for the black comedy he brought to the examination of history, for the playfulness of his seriousness, for the unforgettable courage with which he looked the great evil of his time in the face and rendered the unspeakable into great art. (Later, when people threw slurs at him—Nazi, anti-Semite—I thought: let the books speak for him, the greatest anti-Nazi masterpieces ever written, containing passages about Germans’ chosen blindness toward the Holocaust that no anti-Semite could ever write.) 
On his seventieth birthday, many writers—Nadine Gordimer, John Irving, and the whole of German literature—assembled to sing his praises at the Thalia Theatre in Hamburg, but what I remember best is that when the praise songs were done music began to play, the theatre’s stage became a dance floor, and Grass was revealed as a master of what I call joined-up dancing. He could waltz, polka, foxtrot, tango, and gavotte, and it seemed that all the most beautiful girls in Germany were lining up to dance with him. As he delightedly swung and twirled and dipped, I understood that this was who he was: the great dancer of German literature, dancing across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because of his personal grace, and his comedian’s sense of the ridiculous as well. 
To those journalists who wanted me to diss him in 1982, I said, “Maybe he has to die before you understand what a great man you have lost.” That time has now arrived. I hope they do.
Vào năm 1962, khi tôi tới Hamburg nhân dịp ra lò ấn bản tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà xb gợi ý hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not? Thế là chúng tôi làm 1 chuyến ghé thăm ông, ở 1 cái làng; ông có hai ngôi nhà ở trong làng, một để viết, và sống, một để vẽ vời, ông là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm, mọi tên ký giả Đức mà tôi gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì về GG, và tôi bèn phán, ông ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà văn vĩ đại nhất hiện còn sống trên thế giới; vài tên ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó ư, "Cái Trống Thiếc", OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo chim rồi, hết viết được rồi, hà, hà! 


Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư