Triết gia Kim Định từ trần




Năm 1958, khi học Đệ Nhất, ban B [Toán] tại trường Chu Văn An, tôi được học với thầy Vũ Khắc Khoan, môn Sử. Một tuần một giờ. Cả thầy lẫn trò đều biết, sử là môn phụ, chỉ thoáng qua ở kỳ vấn đáp. Thầy họa hoằn ghé lớp. Và bởi vì lớp B8 của chúng tôi ở ngay cổng trường, có khi thầy chỉ đảo một vòng chiếc solex qua cửa lớp, nói vội một câu, hôm nay nghỉ, rồi tà tà theo cây vợt cầm sẵn trên tay. Những giờ học thật họa hoằn thì cũng không phải để học, để bàn, về sử, mà về kịch, hoặc về một câu mà thầy đang tâm đắc, thí dụ “Chúng ta đã xuống thuyền” [Pascal, hình như vậy].
Rồi thi đậu, ghi danh học Đại Học Khoa Học. Đói, bỏ ngang, thi vô trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập. Ra trường. Làm công chức Bưu Điện. “Đành” ghi danh học Văn Khoa, theo kiểu hàm thụ, chứng chỉ Dự Bị Triết, với những ông thầy như Kim Định, Lê Tôn Nghiêm… Nhờ bạn bè lấy bài học [cours] giùm. Chẳng bao giờ tới lớp. Cho đến bây giờ tôi không hề biết mặt thầy Kim Định. Và như thế, sẽ chẳng bao giờ biết mặt thầy, có chăng chỉ là tình cờ, trên mặt sách báo. Những môn đệ như tôi, chắc là cũng nhiều. Cũng nhiều, là những độc giả của ông. Đủ mọi tầng lớp, tuổi tác. Còn cả, những hội đoàn chính trị nữa, coi Việt học như là một vũ khí văn hóa chống chủ nghĩa Cộng Sản.
Riêng với lớp học trò như chúng tôi, Thầy đúng là ý thức đạo đức của một thời,  “thời của chúng tôi”, những đứa trẻ hai mươi tuổi vào những năm 1960, 1970.
*
Claude-Lévi Strauss phân chia lịch sử ra những thời kỳ nóng, thời kỳ lạnh. Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo dài nhiều thế kỷ, nó chẳng đẻ ra được một ý thức, một tư tưởng, một ý thức hệ, một triết lý lớn lao nào.

“Thời của chúng tôi” nóng. Nóng lắm. Bên trời Tây, đó là lúc cơ cấu luận đang ở đỉnh cao, với rất nhiều triết gia, nhiều tác phẩm: Viết của Lacan, Chữ và Vật, của Michel Foucault, Phê Bình và Chân Lý của Roland Barthes, Lý thuyết Văn chương, của Todorov… cùng xuất hiện vào năm 1966. Năm sau 1967, là những cuốn tiếp theo của bộ Huyền Thoại Học của Claude-Lévi Strauss: Từ mật ong tới tàn thuốc, Nguồn gốc của những trò lẩm cẩm muỗng nĩa, dao kéo.. ở  bàn ăn [L’origine des manières de table],1968, Con người trần trụi, L’Homme nu, 1971.
Nhưng Ấu châu có ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi trẻ của Tây trả lời, bằng biến cố Tháng Năm 1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không thể được, không thể đòi hỏi. Càng làm tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương, có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo, về biến cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình thành một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc chiến Việt Nam. Cùng với 276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân. Mồ Chôn Tập Thể Huế.

Cần phải xác định thời của chúng tôi, Chữ Thời, bằng những sự kiện như thế, mới nhận ra vóc dáng khổng lồ của những bậc thầy tư tưởng Đông Phương như Kim Định, khi họ cố tìm cho ra một giải pháp, và cùng với nó, một thực hành, thí dụ như Cú Tháng Năm 1968, như của nước Pháp, cho một “thời khốn khổ của chúng tôi”.

Và nếu đúng như Claude –Lévi Strauss khẳng định, tất cả văn hóa đều có thể coi như là một bộ của những hệ thống biểu tượng, thầy Lê Tôn Nghiêm, thầy Kim Định, cho thấy, chúng ta cũng có riêng những bộ hệ thống biểu tượng. Thầy Lê Tôn Nghiêm đã tìm thấy một “logos của phương Đông” trong khi đào bới những di chỉ của Khổng giáo. Thầy Kim Định, trong Việt Lý Tố Nguyên, Triết Lý Cái Đình.

Tất cả những ông thầy tư tưởng, Đông hay Tây, đều tìm một thứ đức hạnh mới. Với Lacan, là một “đức hạnh của ước muốn” [éthique du désir], với Foucault: “đức hạnh của sự giải phóng”, với Kinh Định, đó là một đạo hạnh trong sự cố gắng tìm kiếm và bảo tồn những di chỉ của một nền văn minh Việt Nam, mà những đệ tử của ông coi đây là h
àng rào cuối cùng chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Thầy Kim Định, chúng con xin vĩnh biệt Thầy.

                        NQT

*


Ghi chú của người dịch.
Kể từ khi cuốn sách được xb vào năm 1955, nó trở thành nổi tiếng trên thế giới dưới cái tít Tây, thành thử - và cũng theo lời yêu cầu của M. Lévi-Strauss – chúng tôi giữ nguyên tên của nó. Những “Sad Tropics”, “The Sadness of the Tropics”, “Tragic Tropics”… đều không chuyển được ý nghĩa, và hàm ngụ của “Nhiệt đới buồn thỉu buồn thiu”: “Tristes Tropiques”, vừa đọc lên là đã thấy tếu tếu và thơ thơ, ironical and poetic, bởi sự lập đi lập lại của âm đầu, bởi nhịp điệu căng thẳng (- U U – U), bởi  giả dụ về một “Hỡi ơi, Nhiệt đới buồn”, “Alas for the Tropiques”.

Cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt, “Nhiệt đới buồn”.

Đúng ra, nên dịch là Nhiệt đới buồn thiu, (1) hay buồn hiu, thì vẫn giữ được tính tếu tếu, lẫn chất thi ca, nhưng, có thể vì đã có cụm từ nổi tiếng của PTH, rồi, cho nên đành bỏ chữ "thiu" đi chăng?
Xin giới thiệu, để tham khảo, bài viết của DMT:

Dương vật buồn thiu


Claude Lévi-Strauss, anthropologist, born 28 November 1908; died 30 October 2009

Tristes Tropiques by Claude Lévi-Strauss – melancholy anthropology

The Guardian đọc Nhiệt Đới Buồn Hiu
http://www.theguardian.com/books/booksblog/2015/aug/17/tristes-tropiques-by-claude-levi-strauss-melancholy-anthropology

Theo Guardian, dịch Unhappy Tropiques, OK



Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’