NNT
Nguyễn Ngọc Tư
Hôm trước ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên đường về, bỗng dưng Diệp nghe nước mắt mẹ rớt trên lưng mình. Mẹ than buồn, vì miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc?), mẹ nói, không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thật, mẹ khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy lòng, thầy Nhiên không phải là người coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó.
3. Hiu hiu gió bấc
4. Người dưng làm má
5. Dòng nhớ (1)
Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
Ðó là lúc "ổng", tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.
5. Dòng nhớ (2)
Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.
- Viên, má không ngờ, chuyện thằng Bảo với con...
Cuối cùng thì má cũng biết chuyện này. Má biểu tôi kể tường tận chuyện gì xảy ra giữa hai đứa. Má vừa lau nước mắt vừa nghiêm mặt:
Tôi lại ăn trứng cút luộc trừ cơm mỗi lần đi tàu tới một địa phương xa, lại ngoi ngóp lội bùn ra tận bãi bồi xóm Mũi coi người dân sạt sò huyết, lại đóng vai bồi bàn, bán vé số, nghiện xì ke... để thực hiện phóng sự của mình. Má kinh lắm, tưởng tôi vì thất tình mà vùi đầu vào công việc. Tôi nghĩ ra một cách an ủi má: "Con có người yêu khác rồi má à", má tôi hỏi ai, tôi chỉ Nguyên. Nguyên với tôi cùng nghề, cùng chuyên trách trang xã hội. Lần nào đi công tác chung, ăn cơm chiều ở một chỗ heo hút nào đó, chưa uống nước cho qua khỏi cơn nghẹn đã hỏi nhau, tối nay mình ngủ ở đâu. Có lần chúng tôi rủ nhau ngủ chợ, ngủ thớt thịt cho ấn tượng chơi. Thành phố về đêm như một cái lẩu thập cẩm để ớt quá tay. Hỗn độn, nóng bức. Nguyên nói với tôi "Ở đây có thể xảy ra mọi thứ, kể cả giết người". Tôi dựng tóc gáy nhưng không chịu về. Nguyên bảo: "Bên Sông ngủ đi, Nguyên canh cho" nghe chân thành như một hòn đất. Nguyên yêu tôi. Tôi trả lời tôi yêu Bảo rồi. Mà tôi có phải là đứa con gái tốt đâu". "Chưa biết tôi tốt hay không là đã thương rồi". Nguyên thấy thương thì thôi đi. Tôi bảo: "Nói theo ngôn ngữ nghề mình, hai đứa mình giống như đứng bên hai bờ sông, nhìn thấy nhau, nghe nhau nói nhưng không đến được với nhau đâu". Nguyên cãi bướng: "Nguyên có đò". Tôi cáu sườn: "Viên bắn bể xuồng".Từ lúc đó Nguyên gọi tôi là Bên Sông. Mà tôi nghi quá, nghi Nguyên là hậu duệ của nàng công chúa xưa nên lù mù yêu tôi không tương lai như nàng Mỵ Châu yêu Trọng Thuỷ. Nguyên này toàn làm những chuyện cho tôi cảm động không thôi. Ði làm phóng sự về. Ðêm. Mưa thâm trầm dai dẳng. Tôi lái chiếc xe máy màu đỏ kêu xùng xèng chở Nguyên, Nguyên rướn người cao vánh, kéo cái cổ áo sơ mi che mưa tạt cho tôi. Tôi chạy xe trong mưa bồng bềnh cảm giác, cái cảm giác lạ lùng thấy mình không chống chọi, xù xì chiến đấu với ai. Tôi thấy mình giống như hòn đất mềm, hòn đất không suy tư, hồn nhiên vỡ ra, ngửa mặt giữa trời. Một ngày nọ, Nguyên tặng tôi một cái nguyệt cầu. Nguyên cũng chẳng xấu như thằng Cuội, tôi đẹp không bằng một ly của chị Hằng nên mới thoáng qua chẳng hiểu Nguyên tặng tôi vậy có ý gì mà tôi cũng không hỏi có ý gì.
7. Chợ nổi Cà Mau – chút tình sông nước
2. Nước chảy mây trôi
Hôm trước ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên đường về, bỗng dưng Diệp nghe nước mắt mẹ rớt trên lưng mình. Mẹ than buồn, vì miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc?), mẹ nói, không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thật, mẹ khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy lòng, thầy Nhiên không phải là người coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó.
Mẹ Diệp lớn hơn thầy Nhiên đến tám
tuổi, hồi họ quen nhau,
thầy Nhiên mới ba mươi ba. Nhà may của mẹ cách trường cấp ba Hưng Hải
chừng
mươi thước, nổi tiếng khắp thị xã về may áo dài. Gặp lần đầu ở buổi họp
phụ
huynh, thấy thầy vai áo rách, về nhà mẹ Diệp mua vải may tặng thầy một
chiếc sơ
mi mới, để lấy lòng thầy cho con nó nhờ. Sau này, thầy hay lại nhà nhờ
mẹ Diệp
may áo. Có lần mẹ hỏi vợ thầy đâu mà để áo rách vầy, thầy cười, còn gửi
ở nhà
người. Diệp đi học về, mẹ hỏi, thầy Nhiên ba mươi mấy tuổi đầu chưa lấy
vợ,
chắc thầy khó tính lắm hả con. Diệp lắc đầu, không, thầy thấy thương
lắm.
Diệp nói thật lòng. Từ ngày thầy Nhiên
chủ nhiệm lớp, buổi
sinh hoạt nào lớp cũng vui tươi, tràn ngập tiếng hát, tiếng cười, có
đứa còn đi
học đàn về gảy tửng từng tưng. Thầy dạy môn Văn và biến những tiết học
khó khăn
này thành một thiên đường của cảm xúc. Giọng thầy ấm áp, sôi nổi,
truyền cảm,
mắt hay nheo, coi bộ hóm hỉnh, vui tính. Thầy bảo, mắt thầy bị tật hồi
còn ở
lính, không nheo thì bắn không... trúng, nheo riết thành quen. Bọn Diệp
cười,
tướng thầy mà bộ đội gì, thầy cũng cười, giỡn hoài, đơn vị còn không
định cho
ra quân nhưng thầy nhất quyết xin ra, đi dạy học. Đám học trò khen thầy
dạy Văn
giỏi nhất trường. Nhà trường thì không nghĩ vậy, dạy cháy giáo án hoài
mà giỏi
gì.
Sau này, khi xem bộ
phim võ hiệp "Tiếu
ngạo giang
hồ", Diệp phát hiện ra thầy Nhiên giống hệt Lệnh Hồ Xung, cuộc đời anh
chàng không thể hoạch định trước, làm gì cũng theo cảm xúc, cả chiêu
thức võ
công anh ta dùng cũng "nước chảy mây trôi" theo ý mình. Dù vậy, Diệp
cũng thảng thốt, bất ngờ rất nhiều khi hay thầy với mẹ thương nhau. Mối
tình đó
không thể giải thích được vì sao, không thể nói rành rọt bằng lời những
cảm xúc
dịu dàng mà bỏng cháy trong lòng mỗi người. Bắt đầu từ đâu? Từ miếng
băng keo
thầy mang đến khi thấy tay mẹ đứt, từ việc mời nhau mấy củ khoai mì
nóng thầy
mua của chiếc xe đẩy trên đường, hay từ những bữa họp phụ huynh, thầy
nhìn thấy
mẹ Diệp ngồi trong một góc nào đó, đẹp đẽ, sang trọng mà buồn buồn, vơ
vất, như
lạc ở một vì sao nào? Mẹ chỉ biết nói lời xin lỗi Diệp. Nó khó khăn lắm
mới
bảo, không sao, nếu con là mẹ, con cũng yêu thầy, thầy dễ thương quá
trời đất
mà.
Ba Diệp thì không thể
tha thứ. Chẳng
thèm chửi bới đánh đấm
nhau, là người trí thức, ông bác sĩ xử sự rất mềm mỏng. Ông đến trường,
níu bất
cứ đứa học trò nào ông nhìn thấy, phẫn trí van vỉ (như một người yêu vợ
hết
lòng), "Cháu làm ơn nói với thầy Nhiên trả vợ lại cho chú, làm ơn, cháu
ơi
!". Chuyện này gây tiếng vang đến phòng giáo dục, rồi đến Sở. Thầy Vẹn,
hiệu trưởng trường vốn là đồng đội cũ với thầy Nhiên, thương bạn lắm
nhưng đành
buộc thầy thôi việc.
Rồi thì mẹ Diệp cũng
ra đi. Qua cửa,
mẹ chỉ có một chiếc va
li nhẹ bỗng, trống không. Lẽ ra mẹ có thể mang đi nhiều hơn, nhưng chỉ
với hai
bàn tay trắng, mẹ mới rửa oan cho thầy trước lời mai mỉa của người đời,
rằng
thầy chỉ yêu túi tiền của mẹ thôi. Diệp thầm thắc mắc, yêu là phải hy
sinh
nhiều thứ, vậy sao người lớn đâm đầu đi yêu hoài làm chi cho khổ ?
Tổ ấm đó cách nhà
Diệp một cây cầu,
nhiều con đường ngoắt
ngoéo. Diệp có đến chơi, đến mà nghe quen thuộc, ấm áp như nhà mình.
Hồi trước,
Diệp tới nhà thầy chơi hoài chớ gì, nó thuộc lòng từng cuốn sách trên
giá, rành
rẽ từng chỗ thủng của cái màn cửa. Nhà thầy bừa bộn, đầy màu sắc. Màu
của giấy
dán tường, của những đường viền tự tay thầy cắt, của những tờ lịch đầy
núi,
thác nước và mây. Tất cả những cái đó đầy sự sống. Nó khác với nhà
Diệp, bốn
bức tường đều trắng, Diệp đem hình diễn viên, ca sĩ về dán trong phòng,
ba khó
chịu. Ở nhà, mọi người phải xem những bộ phim, nghe những loại nhạc bác
học mà
ba thích. Bữa cơm nào ba cũng tự tay rửa rau, dù mẹ rửa rồi ông cũng
phải rửa
lại. (Diệp ngờ rằng, tình yêu của mẹ đã mất mát từ chuyện ấy, đến rửa
rau mà
cũng không tin nhau). Ba không ăn ở quán ăn vỉa hè, cự tuyệt những món
chuối
nướng, khoai nướng bên đường, ba nói ăn vậy là không vệ sinh. Ba bảo mẹ
một
tuần nấu canh bí đỏ sáu lần, thực đơn này giúp cho Diệp thông minh, học
giỏi,
giúp Diệp mai sau trở thành một bác sĩ danh tiếng như ông.
Nhưng Diệp chỉ thích
làm cô giáo. Một
cô giáo sẽ không vì
đám học trò ngỗ nghịch mà nguôi đi lòng thương yêu, không vì danh hiệu
thi đua
này nọ mà nguôi đi tâm huyết của mình. Giống như thầy Nhiên vậy.
Một bữa lại nhà mẹ
chơi, Diệp chỉ tay
vào góc lâu nay thầy
vẫn để sách và đàn, nó nói, "Thầy ơi ! Em chỉ cần chỗ này là đủ, ban
đêm
em ngủ, ban ngày em sẽ ngồi học ở đây". Thầy Nhiên với mẹ nhìn Diệp
mừng
rưng rưng nước mắt. Nhưng cũng phải đợi đến bữa ba dẫn bạn gái về, Diệp
mới ra
đi. Ba không ngăn lại, chỉ cười khan, lạnh, đầy cay đắng, hằn học. Diệp
thấy
mình hơi giống mấy tên phản bội trong phim.
Bây giờ chuyện cũ
cũng đã nguôi rồi,
người ta thôi không
trầm trồ nữa. Mẹ gầy dựng lại một tiệm may mới, với những khách hàng
cũ. Thầy
Nhiên quyến luyến đám học trò nên thuê quầy bán sách báo ở trước cổng
trường.
Ba Diệp đã lấy vợ, có con. Tốt nghiệp đại học xong, Diệp có ghé nhà,
thấy ba
ngồi giặt tã cho em. Lúc ra về, tổng kết lại thì ba chỉ hỏi Diệp đúng
một câu,
"Ra trường rồi tính làm ở đâu ?" Diệp nói không biết nữa, nếu chờ
được phân công, có thể sẽ về dạy ở một huyện, thị trấn nào đó, có thể ở
đó
nghèo và buồn.
Mẹ nói sẽ tìm cách
xin cho Diệp ở lại
thị xã, thầy Nhiên có
nhiều người quen làm trong ngành giáo dục, thí dụ như thầy Vẹn đang làm
Phó
giám đốc Sở. Diệp chần chừ không biết lắc hay gật đầu. Mẹ thở dài, nửa
đêm than
với thầy Nhiên, "Chắc mình mau già lắm, Nhiên ơi. Con gái mình thấy rầu
quá".
Rầu chớ, công việc
đang lừng khừng,
chuyện yêu đương Diệp
cũng chẳng tới đâu. Đứa con trai cuối cùng đã thôi lui tới nhà chừng
nửa tháng
nay, sân trước chưa thấy xe của người mới nào đậu. Mẹ nhắc lại nào Tuấn
nào
Huy, rồi Phát, Sang, mấy đứa đó thấy thương quá mà sao kỳ vậy không
biết. Diệp
cười, "Trời đất, tụi nó hả, con đâu có yêu". Mẹ tức quá vặc lại,
"Vậy chớ con yêu ai?". Mẹ hỏi Diệp trong một đêm gió rất nhiều. Diệp
tự vấn mình câu đó, khi có được câu trả lời, chợt nghe gió thổi tơi bời
vào
lòng, nghe như gió cấp mười, mười hai trong ấy.
Hôm sau, Diệp gọi
thầy Nhiên bằng ba
(nó bẻ miệng đến toát
mồ hôi ra). Mẹ với thầy nghe lạ, phì cười. Diệp tá hỏa, tiếng gọi ấy
với nó
không có ý nghĩa gì hết, kêu tiếng ba thiêng liêng mà lòng vẫn yêu
thầy, yêu
thầm lặng tự hồi nào không biết. Hèn chi đi xa nhớ quá chừng (tưởng chỉ
nhớ nhà
thôi), hèn chi mấy thằng bạn trai hay bị đem ra so sánh với thầy (tưởng
vì quý
trọng quá đó thôi)... Bây giờ không biết làm sao quên được đây, để vầy
nguy
hiểm quá, người ta nói yêu với say rượu khó che mắt được người đời.
Diệp ngầm chuẩn bị
cho mình một chuyến
đi xa. Mẹ không biết,
nên mẹ đi chợ, mua hai ký lô khô cá sặc rằn, dịu dàng bảo thầy Nhiên,
"Nhiên chở con tới nhà anh Vẹn chơi, sẵn tiện nhờ ảnh giúp cho nó một
chỗ
làm. Có chút quà này...". Rồi mẹ Diệp tiễn hai người họ ra tới ngoài
sân.
Lên xe chạy một đoạn, ngó lại thấy mẹ vẫn còn đứng tần ngần, giống như
sợ thầy
trò Nhiên đi lộn đường hay sẽ lén quay trở lại nhà.
Nó ngồi sau lưng thầy
(như nhiều lần
ngồi sau thầy đi mua
keo, nút áo, chỉ may cho mẹ), mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt
nghe thèm
đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.
Chiếc xe
chạy lòng vòng qua hết mấy con đường, cứ gặp đèn đỏ là thầy lại quẹo
phải, Diệp
khúc khích cười, nghĩ, nhà thầy Vẹn đâu có xa dữ vậy. Chiếc xe máy hiểu
ý chủ
nên nó cũng cà xịch cà lụi, lâu lâu lại phun ra một bụm khói đen xì.
Thầy bảo,
"Chết cha, chắc là nước vô bình xăng". Mà, chiếc xe vẫn không chịu
chết máy hẳn, vậy mới kỳ. May nhờ đến trước cổng nhà thầy Vẹn thì trời
đổ mưa,
cả thầy Nhiên và Diệp đều mừng húm, kêu lên, "Mưa ! Mưa rồi !" rồi
chạy vào quán cà phê ngang đó cho khỏi ướt.
Diệp vừa phủi nước
trên áo, trên tóc
mình vừa cười, nhớ lại
trên đời này chắc không ai mắc mưa mà phấn khởi như vậy. Thầy trò Diệp
kêu hai
ly trà đá, bắc ghế ngồi ngó mưa rơi, ngó qua cái tường rào im sẫm đằng
trước
nhà thầy Vẹn, nghe trong lòng ngại ngần quá trời đất.
Chỗ này chỉ cách bên
đó một con đường,
coi vậy mà qua đó
cũng nghiêm trọng như Kinh Kha qua sông Dịch. Thật ra, nghỉ dạy ở
trường cấp ba
Hưng Hải rồi, thầy vẫn thường lại chơi nhà thầy Vẹn. Người đang có chức
vị,
ngồi cao lại hay ước sống như ông bán lẻ sách báo ở cổng trường (mà
càng bán
càng lỗ vốn, cứ thấy cuốn sách nào hay là dúi tặng cho học sinh). Thầy
Vẹn bảo,
"Đâu phải ai cũng làm được chuyện động trời như ông vậy. Nhớ kỹ coi,
đang
học ngon lành, ông tình nguyện đi biên giới, ở lính được cưng chiều ông
không
chịu, đòi ra lính dạy học, đang dạy học, lại đòi yêu mà lại đi yêu
ngang trái
mới chết". Thầy Nhiên cười, "Cũng trả giá dữ lắm, đừng tưởng
giỡn". Vợ thầy Vẹn cũng quý bạn chồng, chị nói, "Ông xã em mê anh
lắm, ảnh nói bây giờ có một chút chức quyền mới biết cực khi chơi với
bạn, cứ
phải cảnh giác nhìn nhau không biết người ta sắp nhờ cậy gì mình. Chỉ
có anh
Nhiên là không tính toán gì hết". Vì chị đã nói vậy nên bây giờ mới khó
mở
lời...
Diệp biết thầy Nhiên
đang nghĩ lung
lắm, nhưng nó không nói
gì, nó chỉ lẳng lặng ngồi nhìn mớ tóc cứng như rễ tre đã chớm bạc trên
đầu
thầy. Hồi trước, mỗi khi thấy tóc thầy dài, Diệp vẫn hay nhắc, biểu đi
cắt, để
tóc vậy coi già thấy mồ. Hồi đó, thầy cười cười, "Đâu nè, vầy là vừa
chớ". Sau rồi Diệp biết, thầy cố tỏ ra luộm thuộm để đuổi cho kịp mẹ,
để
mẹ khỏi buồn, khỏi mặc cảm chuyện vợ già chồng trẻ. Thầy tinh tế cả
chuyện ăn
mặc, chuyện xưng hô. Ở nhà Diệp, ai tới cũng bảo ngộ, nhất là mấy anh
chàng đang
đeo đuổi Diệp, họ bảo, "Nhà Diệp không có tôn ti trật tự gì hết, thấy
lộn
tùng phèo". Thí dụ như chuyện xưng hô, rõ ràng nghe thầy Nhiên với mẹ
kêu
nhau Nhiên Nhiên Thúy Thúy giống bạn bè hơn là chồng vợ, còn Diệp gọi
thầy thì
tùy hứng, có lúc kêu cậu, có lúc gọi "đại sư ca".
Nhớ tới đâu lòng Diệp
đau tới đó, nhà
giống như thiên đường
vậy, mà mình lại phải đi xa. Ngoài trời vẫn còn mưa, nước chảy ròng
ròng vào
miệng cống. Thầy bảo mưa dai quá hen. Diệp cười, dạ, mưa dai thiệt.
Thầy hỏi,
hay là hai cậu cháu mình chạy qua gặp thầy Vẹn một chút. Diệp lắc đầu,
thôi cậu
!
Diệp không đành lòng
cùng thầy cầm gói
cá khô bước qua cửa
nhà thầy Vẹn. Muốn hay không, khi quay trở lại, thầy trong lòng Diệp sẽ
không
tròn vẹn như bây giờ. Mất mát đó có thể rất mỏng manh, nhẹ như hơi thở,
có thể
chỉ là cảm giác vậy thôi. Thầy trông sẽ hèn hèn đi một chút, ngượng
ngập một
chút, vẩn đục một chút. Diệp muốn giữ vẹn trong lòng mình một hình ảnh
đẹp, một
người đàn ông lúc nào cũng nồng ấm, đĩnh đạc, thư thái, đầy khí phách
và thành
thật với con tim. Lỡ mai mốt đây gặp hoàn cảnh khó khăn nào, Diệp còn
có thầy
Nhiên mà vịn vào, đứng lên, đi tiếp. Nếu phải đi xa để những điều tốt
đẹp còn
nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm chớ.
Lúc về trời vẫn còn
mưa, Diệp có dịp
giấu mặt vào lưng thầy,
khóc chơi. Trời ơi, nép sau một cái lưng rộng và ấm áp như vầy để khóc
đã
thiệt. Mẹ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Lúc về Diệp ôm vai
mẹ, Diệp bảo mớ khô
cá sặc rằn này hôm
nào làm liên hoan tiễn con đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài sống, con
thích món
này lắm. Chỗ con tới có thể buồn và nghèo, có thể cách trở xa xôi, có
thể đám
học trò của con lấm lem sình đất, nhưng con không ngại, để con hát cho
mẹ nghe
bài này, rằng "Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ sẽ dành phần
ai". Mẹ nghe xong, rớt nước mắt, day qua thầy Nhiên, không rõ khen hay
than mà giọng buồn hết biết: "Nhiên coi, không phải máu mủ của Nhiên mà
con mình nó giống y chang Nhiên vậy. Muốn là làm".
Đâu nè, đâu phải muốn
là làm, cũng
phải suy nghĩ đắn đo dữ
lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước
chảy mây
trôi ? Phải chọn lựa và trả giá chớ...
3. Hiu hiu gió bấc
Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người
ta nhắc tới anh Hết
còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó
biểu:
"Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm
mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm,
giặt giũ
cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương". Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà,
họ
lườm lườm: "Mê gì như thằng Hết mê cờ". Nên nghe râm ran chị Hảo để
lòng thương anh, má chị kêu trời: " Bộ hết người rồi sao, con. Cái
thằng
mê cờ tới mất vợ, không sợ?". Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là
loại
cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê.
Chỉ sợ
người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay
lưng ra
quán mất rồi.
Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng
tạp hóa lặt vặt. Quán
cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong
xóm ai
muốn mua gì thì gọi vọng vô. Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi
chiều,
lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối, anh Hết hay ghé lại để mua
1.000đ mỡ
nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu. Chị cố bán thật rề rà để nhìn
anh lâu
nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn
vương
trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái
cọc nói
được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị
biết
thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.
Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này,
người ta hay đau yếu
nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người
ta mời
ông ngồi, ông cười, xua tay: " Ăn rồi. Ăn cơm với thằng Hết rồi".
Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa
táp vô
vách lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa
nhà lớn
hơn miếu ông Tà một chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần
mở phải
đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi,
cháy
rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.
Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi
lửa, rồi dọn cơm sẵn,
ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói
ngồi ngủ
gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm
có ấm
cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới vừa giở
cửa chui
vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh
thương
tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.
Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà
chết vì sinh khó.
Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ
không
có nghĩa gì đâu. Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc
đất ở
cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ
rào giâm
bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay
nhau dỗ
dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để
con khóc
ngoe ngóe trên giường.
Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày
cột sợi dây võng dài từ
nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, " Chớ ầu
ơ...
Cây khô đâu dễ mọc chồi..." . Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng
xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn
lắm, nghe
đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô,
anh bắc
cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu
phần
mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về,
dắt tía
anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái
nón mê
đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che
cho sinh
linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.
Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy
rượt đánh anh hoài đó
chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng
vòng quanh
mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bội.
Hỏi anh
Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được,
nhưng
càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.
Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên
sao thì người vậy, chịu
thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng
hết
mình.
Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm
đầu vô bàn cờ rồi quên
đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã
thoát
tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo. Thấy con bồ mình đang thương dắt
tay
chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì
đúng là
không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người thích đánh cờ
nhưng say
đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt
qua
sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám
gả chị
Hoài.
Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng
cũng tại anh Hết mê cờ.
Họ thương nhau từ lúc hai người mới
22, 24 tuổi. Thời đó,
tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta
yêu
không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy
của
sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống
đá thì
không vui. Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại:
"Anh
Hết hổng được chỗ nào hả má?". "Ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết
được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo. Nhưng nó nghèo quá,
thân sơ
thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được
không.
Bây quen được tưng tiu mà" . Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ,
còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đời.
Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng
anh biết chơi nhờ đi
làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng
với mấy
chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị
Hoài lại
nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn
trên khuôn
mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh
đã thay
đổi, nhanh như người ta lật một bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay
na bộ cờ
ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng
là thằng
Hết bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời
gian trên
mấy con cờ xanh đỏ.
Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa
với con, nợ sữa là món
nợ lớn nhất đời người. Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già
rồi có
hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậy. Nhưng thấy anh ngồi
la cà
đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh
vừa kêu
nhịp nhàng " Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao
chiếu cho mấy đường" . Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm
chiều
hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng
ông hơi
nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn,
bây giờ
ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm
cho ông
xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm này người ta
không
biết nên nói mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy à.
Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục
mãi, tốn không biết bao
nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh
Hết còn
tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy
đứa nhỏ.
Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài
nên mới
dửng dưng vậỵ Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái
tiếng
bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài
rủ chị
Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng
là chết
vậy. Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa
rồi,
nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào. Đi một đoạn, nghe đám con
nít trộ
lên, anh Hết sao mà khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con
tướng này
nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn: "Ừ, tại tao
thương con chốt. Qua sông là không mong về" ...
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh
Hết làm chị Hảo thương
điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.
Anh Hết lại sống như những ngày trước
kia lầm lũi đi đào
thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tía. Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên
cái bếp
còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô. Có bữa, mẻ kho
đổi lại là
nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ
đằng
xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy
nón mà xót
xa:
- Sao nông nỗi vầy, Hoài.
Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh
cửa nhưng anh Hết không
tin: "Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ
xứ". Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt
lìa
phần đời trước.
Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng,
thương không giấu giếm,
ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ
nhà chú
Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữa. Chị
Hoài
nói với bạn: "Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ.
Ảnh
nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim
mũi chỉ
lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè..." . Giữa đường nói
chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết,
thôi đừng
đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương
chồng
tôi lắm đây. Cho bỏ tội mê cờ, nghen.
Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh
Hết đã không đụng tay
vào quân cờ nào nữa. Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy
đứa nhỏ
không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự
đi quân,
anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh
kêu mã
tấn. Tấn chỗ nào? Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn
hỏi. Tụi
nhỏ kêu, đây là kiểu "hiệp sĩ mù nghe gió kiếm", đánh cờ mà làm công
chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.
Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ
mùa gió chị Hoài lấy
chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh
hỏi ông
thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội.
Hết lượng
sượng mãi mới cười: "Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm
đâu
cho tía bây giờ" . Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà
kiếm.
Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không.
Anh Hết
cãi, làm gì có, tía. Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy
đánh. Như
mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già
dứ dứ cây
gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo
chạy lại
vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa
hỏi anh
đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: "Làm gì mà để tía
giận
dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu
còn
ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ
bảo:
- Hảo, tôi... cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ "tôi" hơi lâu,
làm chị Hảo
chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau
ngoài da
thịt, mà trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi!
Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được.
Anh chưa dám nhìn thẳng
vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó
đi tiêm
ngừa. Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn.
Hảo có
hiểu không?
Hiểu, nên tôi chờ đây nè.
Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn
chưa lấy chồng. Ai lại
cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên
Đường của
chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm " Viễn ly điên đảo
mộng
tưởng cứu cánh niết bàn" , chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua
sông.
Nhưng mà chờ tới chừng nào lận? Ai mà
biết.
Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về
4. Người dưng làm má
Chị Diệu về quê khi đoàn cải lương Mưa
Bình Minh đang giữa
mùa lưu diễn. Tàu ghé đập Bàu Mốp, chị lội một đỗi, gặp má chị đi đám
giỗ về,
má chị kêu: "Trời đất, con Diệu, sao đi về vào lúc này?". Chị nghe
muốn khóc.
Chị, con gái của má, rời nhà từ năm
mười bảy tuổi, bây giờ
đã bốn mươi. Chưa khi nào gió chướng mang cái ngọn ráo khô bay qua rạch
Bàu Mốp
mà chị về nhà, kêu má ra cửa sau, chỗ thơm lựng hương cau, nhổ tóc sâu,
bảo sẽ
ở lại nhà lâu, lâu lắm. Nên má cứ nhìn hồ nghi, có chuyện gì sao con.
Chị cười
cười không nói gì, hỏi con San đâu. Má chị bảo nó đi đón ghe khóm từ
rẫy Thới
Bình qua, mua về rồi chèo xuồng dài dài xóm bán lại. Chị nuốt ực nỗi
cay đắng
vào lòng, "Sao má để nó đi, con nuôi hai người nổi mà !". Bà già bảy
mươi ba tuổi nhìn đứa con gái đầu bạc của mình, xót xa : "Bà cháu tao
có
cần tiền của bây đâu. Tao cũng cản hoài mà nó có nghe đâu. Tánh nó cũng
cứng
đầu cứng cổ hệt bây, bây biết".
Chị biết, bởi có lần về, con San mang
trả những gói tiền chị
đã gởi. Những gói tiền còn nguyên vẹn như còn dính mồ hôi tay chị, nó
bảo :
"Em cảm ơn, em với ngoại nuôi nhau được, chế đừng lo, chế có tuổi rồi,
để
tiền hờ khi bệnh hoạn" nghe khách sáo như người dưng nói chuyện với
người
dưng.
Chị sinh con San cũng ngay mùa này,
gió này. Gọi là San, là
vì khi Hoàng Bảo từ thành phố tăng cường xuống "Mưa Bình Minh", chị
Diệu với anh hát chung tuồng San Hậu. Chị yêu anh lắm, không ai còn có
thể nghệ
sĩ hơn thế, tất cả con người anh toát lên cái gì đó phong trần, phiêu
lãng,
thương không chịu được. Chị đặt tên cho đứa con đầu lòng là San vì tin
rằng sẽ
đẻ cho anh thêm thằng Hậu, nhưng thằng Hậu mãi mãi không bao giờ có.
San vừa
tròn bảy tháng để nó lại cho má, chị đi. Hôm đó nó đã bú cho thật no
rồi, chị
ép cho no nữa. Nó ngậm vú chị ngủ ngon lành. Đặt con xuống giường, chị
còn thấy
cái miệng nhỏ xíu của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm lần
nào
nữa, sợ mãi mãi mình không thể nhấc chân đi. Mà chị thì không thể từ bỏ
ước mơ
của mình, trở thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã
từng chờ
đợi, nàng Trưng Trắc oai hùng trong "Tiếng Trống Mê Linh" ?
Chị yêu vai Trưng Trắc này biết bao
nhiêu, người phụ nữ cũng
có lúc dao động, mềm lòng khi chồng của mình đang nằm trong tay giặc.
Nhưng rồi
Trưng Trắc vẫn mạnh mẽ đánh trống xuất quân, nước mắt bi hùng nhỏ xuống
mặt
trống vang lời ly biệt. Mấy hôm đầu, có lúc sữa xuống nặng, chị Diệu
nhớ con
quay quắt, chị muốn bỏ hết, về nhà vùi mặt mình vào làn da thơm tho của
nó,
nhưng nghĩ đến vai diễn của mình, chị ghì lòng lại. Đâu nè, Trưng Trắc
đâu có
nữ nhi thường tình vậy.
Vở được đoàn đem đi dự hội diễn toàn
quốc, năm đó chị nhận
huy chương vàng, bắt đầu có một chút danh tiếng. Chị nguôi dần nỗi nhớ
nhà nhớ
con. Chị bận lu bù với hàng chục, hàng trăm vở mới. Hồi đầu chỉ mùa mưa
chị mới
ở nhà lâu, giữ con cho má đươn thúng, tưới trầu. Sau này trời mưa chị
cũng phải
đi học bồi dưỡng nghiệp vụ, chánh trị. Chỉ về khi trên đường đi lưu
diễn, tiện
đường ghé lại, nhiều khi con Phèn còn chạy te te ra sủa. Có lúc thấy
cái áo
phơi ngoài sào, chị hỏi áo ai, má bảo, áo của con San chớ ai, chị cười,
trời
đất, nó lớn dữ vậy hả ? Mà không biết mình đang hồn nhiên đứng bên đời,
nhìn nó
lớn ...
San chưa bao giờ kêu chị Diệu một
tiếng má. Khi nó biết nói
nó bắt chước mấy dì, gọi chị bằng chế, xưng em. Dạy nó, nó lắc đầu
nguầy nguậy:
"Hổng phải, chế Diệu hông phải má. Con Thắm mới là má". Nghe lạ, hỏi
lại, thì ra chơi nhà chòi, con Thắm đóng vai má con San. Tưởng lớn lên
nó sẽ
đổi nhưng có những tết gần giao thừa, chị gọi nó lại, biểu kêu má đi.
Con San
nhìn chị trân trân, tay vò vò vạt áo, nín thinh. Chị rút tiền ra biểu
kêu má đi
rồi cho tiền. Nó vẫn lặng lẽ đứng nhìn, hồi lâu, nó bảo "em không biết
xài
tiền" rồi bỏ ra ngoài trước coi người ta đốt pháo.
Năm đó, nó tám tuổi. Giao thừa đang
rộn rã ngoài kia, chị
Diệu vô buồng ôm lưng má khóc. Má chị biểu "thôi nín đi, rồi từ từ má
dạy.
Mà, cũng tại mầy ...". Nghe người ta hát câu "Con chim se sẻ nó đẻ
cột đình. Bà ngoại đẻ má, má đẻ tụi mình ..." tim chị quặn thắt. Dường
như
con San đang đòi món nợ tình thương mà ngày trước chị nợ má.
Chị Diệu bỏ nhà theo đoàn hát từ năm
mười bảy tuổi, không
cách chi mà giữ lại được, không cách chi chị quên giấc mơ xướng ca xiêm
áo. Má
bắt chị thề "Không thương người cùng giới nghệ sĩ. Không lấy chồng khi
qua
tuổi hai mươi lăm". Nhưng năm hai mươi, chị về nhà dập đầu lạy má, thưa
rằng vì yêu, vì muốn giữ bên mình người chị yêu, chị đã mang đứa con
trong
mình.
Má giận quá , nói "hồi đó phải tao
sanh ra hột gà hột
vịt còn có nghĩa hơn sanh ra con gái như mầy". Giận vậy , nhưng thấy
con
mình khổ không cầm lòng được biểu "Thôi con, đừng thèm khóc, người ta
hay
hát "Ví dầu tình có dở dang. Tự ên thiếp chống đò ngang thiếp về",
con người ta nhấc lên được thì bỏ xuống được" . Rồi lụm cụm đi trồng
thật
nhiều sả, chăm chút những cây chanh, cây bưởi quanh nhà cho tốt lá, lột
vỏ tỏi
để dành xông cho chị sau khi sinh. Lòng má đau con mình dại dột, nó làm
vậy là
đẩy người ta có cái cớ ra đi chớ có níu được, ràng buộc được người ta
đâu.
Nhưng con San đâu có già được như má,
đâu có trải lòng ra để
tha thứ như má. Chừng mười, mười hai tuổi, nó nói với má chị : "Má ơi,
con
không đổi chế Diệu để lấy tiền. Chế Diệu có cho má đừng lấy". Mà chị
chỉ
biết ôm nó vào lòng, thở dài rồi rầy, "ngoại già rồi, con kêu ngoại
bằng
má hoài người ta cười bà già khú đế mà còn có con muộn" . San thôi kêu
ngoại
bằng má nhưng tiếng má nó cất mãi trong lòng.
Nó lớn lên giống Hoàng Bảo như đúc,
cũng gương mặt xương
xương, cái mũi cao, đôi mắt to, hơi xếch, đôi môi mỏng, đỏ thắm. Nhìn
nó, lúc
chị Diệu nửa thèm ôm chầm vào lòng, nửa muốn xô ra. Nghĩ thương nghĩ
giận người
cũ, chị chỉ dám ngồi nhìn nó xa xa. Nên chị không hay nó lạ lùng hơn
hết thảy
con cái người ta. Nó ít nói, nhưng nói câu nào đáng câu đó. Có lần coi
chị Diệu
diễn Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài trên tivi, nó ngồi nghễu nghện trên mấy
bao lúa
chất giữa nhà, nghe mấy đứa bạn reo lên, má con San kìa. Nó nhếch mép
cười. Tới
đoạn Sơn Bá gặp Anh Đài ở nhà Chúc viên ngoại, biết rõ thân phận nhau,
hai
người âu yếm ôm nhau đính ước. Con San nói tỉnh bơ : "Ừ, ôm đi, ngoại
à,
vài bữa nữa người ta đem một đứa nữa về cho ngoại nuôi cho mà coi". Rồi
tuột xuống cái độp đi te te vô buồng, biểu :"Con đi ngủ". Nhưng ngoại
San biết nó vô đó nằm khóc, vòng tay trìu mến đó, có bao giờ chị Diệu
dành cho
nó?
Câu chuyện làm chị Diệu đau lòng. Chị
Diệu sợ con mình cũng
như người đời, đánh đồng vai diễn với diễn viên, hễ ai đóng vai ác thì
ngoài
đời cũng ác, tình tứ với bạn diễn nghĩ ngoài đời chắc họ cũng yêu nhau.
Chị
chọn những vai đào võ, rồi nổi tiếng với những nhân vật nữ tướng, tinh
tế trong
cái nhìn khinh bạt, ngạo nghễ trước kẻ thù và cái chết, oai vũ trong
từng động
tác đá giáo, lăn tròn theo nhịp roi, đi gối... Ai cũng nói nếu con
người ta có
số sẵn (như giày dép vậy ) thì số chị Diệu sinh ra là để sắm những vai
nữ
tướng.
Riết rồi những vai đào thương, chị
Diệu không diễn được. Có
những lần giỗ Tổ, đoàn giao cho chị đóng vai Tô Ánh Nguyệt trong trích
đoạn gặp
lại thằng Tâm, lúc con trai mình mắng mỏ một hồi rồi bỏ đi, Nguyệt kêu,
"Tâm, con đuổi má sao con?", Lệ Thủy diễn xé lòng xé dạ người ta là
vậy, nhưng với chị, chỉ câu nói đó thôi sao mà khó khăn quá chừng,
tiếng má,
nửa đời người chị chưa được con gái mình kêu.
Nên trả lời phỏng vấn báo chí, chị hay
tự trào mình là nghệ
sĩ nửa mùa. Khi đi qua mùa nhan sắc của một cô đào hát, chị xin đoàn
cho mình
đóng vai hề mụ, chị bảo, "tôi hát nhiều năm, khóc hết nước mắt rồi, bây
giờ chỉ đóng được vai hài". Và chỉ như thế chị mới không phải sắm vai
những bà mẹ, không phải nghe bạn diễn với mình gọi là má à má ơi mà
lòng như
cắt như đau.
Hôm rồi, đoàn về hát vở "Cơn Mê" ở chợ
Ông Trang,
chị đóng vai bà già bán ve chai. Vai nhỏ, chỉ cần quấn khăn lên đầu tất
tả gánh
cái gánh đi ra, gặp cảnh một tên đầu gấu bức hiếp một cô gái nhà quê,
bất bình
bà già ra tay nghĩa hiệp. Đơn giản thôi. Vậy mà lúc diễn, nghe cô đào
trẻ Thu
Mỹ trong vai cô gái nhà quê núp sau lưng chị thét lên: "Cứu con với, má
ơi!" bà ve chai bỗng đứng khựng lại, buông vai, sững sờ, khóc. Thu Mỹ
cũng
gục đầu, nức nở. Khán giả không hiểu gì hết, đầu gấu thấy vậy cương mấy
câu.
Màn kéo lại, ông phó đoàn kiêm đạo diễn quát văng nước miếng, "Tôi
không
sao tin nổi. Một người lúc nào cũng muốn thành diễn viên nổi tiếng, một
người
mấy chục năm trong nghề rồi mà ai cũng diễn như một đứa con nít ba
tuổi".
Hai chị em buồn quá, hỏi Thu Mỹ sao cương câu đó kỳ vậy, cô khóc, "hồi
còn
ở nhà mỗi lần ba em say rượu, ổng nghe lời má sau, đánh em dữ lắm,
không ai
bênh, em chỉ biết kêu má, riết quen". Trời ơi, bọn nghệ sĩ mình, gạt bỏ
đời đau, sống trọn lòng trên sân khấu, được mấy người ?
Tan hát rồi, chị Diệu với Thu Mỹ ngồi
mãi ngoài bến tàu bên
bờ sông Ông Trang. Gió lạnh thổi hiu hút. Thu Mỹ thắc mắc : "Mỗi lần bị
đòn đau, mỗi lần gặp chuyện gì buồn, em đều nghĩ đến má trước tiên, sao
ngộ vậy
chị ?".
Chị ngẩn người ra, con San của chị
cũng có khi gặp chuyện gì
buồn, thế nào nó cũng nhớ tới chị mà chị thì xa cách nó ngàn phương.
Vậy đâu có
được. Đáng lẽ mình phải ở nhà, nghe nó thủ thỉ chuyện một cậu con trai
nào đó
hôm qua còn trêu chọc nó, biểu : "để lòng thương nó", hôm nay đã sắm
cau trầu đi hỏi vợ khác rồi (con gái mười tám tuổi mà).
Sáng sau, chị lại xin phép trưởng
đoàn, ông vừa đánh cờ vừa
ờ, hờ hững. Chị đi từ giã hết thảy mọi người, ai cũng nghĩ rồi chị sẽ
trở lại.
Chị yêu sân khấu đến thế kia mà.
Chỉ Thu Mỹ biết chị sẽ không bao giờ
quay trở lại. Đêm qua,
chị ôm cô ngủ, chị nói, chị thương Thu Mỹ lắm, thương từ lúc cô mới vô
đoàn,
mười sáu tuổi đầu mà khuôn mặt đã già đi, dày dạn như con San của chị.
Chị
thương Thu Mỹ vì thấy cô giống hệt chị hồi đó, nồng nhiệt, tự tin, với
tấm lòng
trong trẻo tưởng rằng có thể thâu tóm được đất rộng, trời cao. Lúc nào
cũng
khao khát vinh quang nhưng không biết rũ bỏ nỗi đau riêng để hết mình
trên
thánh đường sân khấu. Chị nói chắc chị thôi nghề hát, về nhà làm con
của má,
làm má của con. Mặc dầu làm má khó hơn nữ vương, nữ tướng nhiều.
Nhất là với con San của chị, mười tám
năm rồi mà vẫn dạ sắt
lòng đinh. Vừa về tới, dựng cặp chèo ngoài hàng ba, nó cười, nói cái
câu người
dưng hay nói với người dưng:
- Ủa , chế mới về hả? Hồi sáng này em
nấu nước, nghe lửa
cười, biết thế nào cũng có khách, hỏng dè là chế.
Chị nghe niềm vui như ngọn đèn vừa bị
thổi chao ngọn. San
ơi, má là khách sao, má là khách à, con ?
Chị chụp đứng dậy, bảo để chị đi nấu
cơm chiều. Chị trầy
trật nhen lửa, làm cho cả gian bếp ngoi ngóp khói. Bốn mươi tuổi đầu,
chị phải
tập làm đứa con hiếu thảo, làm một bà má giỏi giang bằng nồi canh chua
bông
súng, mẻ cá rô tôm tích kho quẹt này đây
5. Dòng nhớ (1)
Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
- Hỏng hỏi thăm thì
vô phương kiếm ra,
ngoại ơi.
Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi
chớ, chú ơi, thím
ơi, tôi muốn hỏi thăm
một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời
đất, ở
xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên
Giang, vậy
tướng tá người đó ra làm sao. Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được
một lần
mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Ðàn bà, chừng sáu mươi, trạc
tuổi
tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng,
sau
chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng
chừng bảy
tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.
- Vậy thì đông lắm,
người sống trên
chợ này hễ mười thì có
năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, "ba chìm, bảy nổi,
chín lênh đênh", chị hỏng nghe sao?
Má tôi chẩng hẩng:
- Vậy a?
- Ừ, người đó quen
sao mà tìm coi bộ
cực dữ?
- Quen. Chà, hỏng
biết nói sao bây
giờ, dài dòng lắm, vợ của
chồng tôi.
Nếu vậy thì dài dòng
thiệt, chuyện
tình tay ba mà phim dính
vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết
bao
nhiêu là nước mắt.
Má tôi cũng khóc
nhiều rồi.
Má tôi nói hoài, ba
mươi tám năm bà về
làm dâu nhà chồng,
cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với
dâu,
nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo
chéo
khăn lên chậm chậm vô đôi mắt: "Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới
tao
cho ổng, đó - bà chỉ tay ra bến - gần hết đời rồi tao có được vui đâu".
Ðó là lúc "ổng", tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.
Cảnh thì quen lắm,
thì ngày nào, buổi
nào ba tôi chẳng làm
vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau
xót xót
như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc
sum họp
đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang
lững
thững đi dưới nắng kia mới chết.
Sau đợt tai biến mạch
máu não lần thứ
nhất, nửa người bên
trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng
tâm trí
ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình
đi đứng
được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi
càng lúc
càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông.
Sau này
chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn
cũ là
gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu,
da
diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần ba
tôi
khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng.
Sau lần ấy, cả nhà
quyết định đưa ông
về sống trong vườn nhà
nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt,
trông coi
nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với
ba tôi
thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, "làm gì má cũng
phải giữ ba", tôi đùa. Má tôi xua tay:
- Ổng còn nguyên đó
chớ có đi đâu,
trước không mất giờ còn
sợ mất mát gì nữa -giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của
tao đâu
mà giữ.
Nói rồi má tôi trùm
cái khăn lên đầu
bước xuống xuồng, đưa
tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến,
đôi mắt
như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy
thôi. Chơ
vơ, cô độc. Má biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói
với
theo:
- Sao má lo quá, má
sợ ba mầy, ổng mà
chết ổng cũng xuống
sông để chết.
Lo cũng phải, không
phải ba tôi nhớ
vườn xưa mà chống gậy
về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp
mắt như
ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây
nhưng
tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu
rồi.
Và cũng y như má tôi,
ba cũng không
sống được mấy ngày vui,
vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội,
đêm đêm
cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống
rèm lên,
ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái
tay cầm
điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi.
Nửa đêm,
má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe,
lúc đỏ
rực, lúc lại tắt thiu tiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn
ba thì
nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước, đám
ô rô
mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng
mấy bụi
ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng
lộng. Ban
đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm
rì chảy
qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến
đây,
nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi.
Lâu
lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo
ngọn đèn
chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng
trái
khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe
tiếng
gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã
đi rồi.
Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ
ối, nhỏ
nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua
buồng bên
khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội
làu
bàu: "Vậy ra má đã làm sai cái gì?" và má tôi tuyệt vọng: "Kiểu
này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?".
Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một
người. Nội tôi dứt khoát
không chịu (nội có tỷ tỷ lý do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người
ta bỏ
nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực,
nào là
gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ... mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái
máy
Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi
ngang qua
nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai
người có
với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba
tôi bỏ về
nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba
tôi bỏ
người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra
cũng mấy
dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho
tôi
biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ,
vẫn còn
cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm
sao quên
được.
Mà, cũng vì ba tôi
quên không được má
tôi mới thương ông
nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người
ta,
nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu
thì đúng
là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay
không
cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô
cùng,
đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt.
Ở cái xóm quê, mười người đàn ông thì
nhậu nhẹt hết chín,
trong chín người hết năm nhậu về chửi vợ, đánh vợ như đánh bịch muối,
ba tôi là
người duy nhất còn lại. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những
lần má
tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra
trạm xá,
không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi,
mấy bà
hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi
người tự
người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.
Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả
nhà tôi lúc nào cũng
cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi
chung).
Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong
chái bếp
ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa
ăn mỗi
ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô
độc, bơ
vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti-vi chiếu
mấy
tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội
tôi rầu.
Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi:
"Vậy
ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao?".
5. Dòng nhớ (2)
Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.
Chờ đợi, rình rập hụp
hửi mấy lần,
chiếc ghe nhỏ với ngọn
đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má
nói với
ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở
lại, trên
xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.
Ngang qua, má tôi tấp
xuồng lại kế bên
chiếc ghe, than:
- Tính đi chợ cho sớm
mà gió quá, chèo
không lên, bậy thiệt.
Má tôi tin rằng,
người đàn bà kia,
cũng như ba tôi, những
đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo
gối,
nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì
cười:
- Dà, đêm nay nhiều
gió thiệt - Dì vẹt
mớ quần áo, kim chỉ
trên cái sạp tre - Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi
ngoài đó
cảm sương chết.
Má tôi không từ chối, bà buộc dây
xuồng lại, bước qua ghe.
Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một
chút. Họ
ngồi đối mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi
ngồi dựng
cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có
thể vì
người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay mầu
cau khô
ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc
đã bạc
nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì
đen sạm,
nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng: "Xấu hơn mình nhiều". Má tôi
sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ
khác. Ðồ
vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má
tôi ngồi,
bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông
trồng
chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở,
với lấy
bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép
miệng:
"Cha có trà uống thì còn gì bằng, mà chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy
ngậm
với muối cũng đỡ ho lắm". Dì ngước lên cười: "Dà, lúc nầy trở gió,
cũng nhờ nó...". Má tôi hỏi:
- Chị đi ghe một mình
à, một mình cũng
được sao?
- Dà, cũng được, chị.
- Ủa, chồng chị đâu?
- Dà, dì bối rối,
ảnh... đi xa lắm.
- Còn chồng tôi thì
theo vợ bé mất
rồi, má tôi nói luôn.
Dì nhìn sững má,
dường như để xem xem
nỗi đau mất chồng của
má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:
- Uống trà, chị, hoàn
cảnh của chị
cũng buồn thiệt. Nhưng
thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.
Tốt sao? Người ta bỏ
cô để cưới tôi mà
là tốt à, má tôi ngồi
lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc
không phải
nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ
hắt sáng
vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên
này,
trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát
bên hông
dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ
con có
được xấp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc mầu. Má tôi vọt
miệng:
- Ủa, chị có cháu nhỏ
à?
Sau nầy, má tôi nói,
đó là cái câu tàn
độc nhất mà má lỡ
miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái
nhìn
đau nặng. "Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn
thận
nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi,
bây giờ
nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi... tôi chiêm
bao thấy
cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết
nói, nó
biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả
lời, mẹ
sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cười...". Dì nói một
hơi
dài, giọng dì hơi nghẹn lại: "Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi
lại
kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu
rồi, sợ
mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của
chồng tôi
có. Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi
khùng
hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay,
tôi cũng
quên mất rồi...".
Dì cười quay quắt. Má
tôi chút nữa đã
bật khóc, bà cố nén
nghẹn ngào:
- Ðàn bà mình sao khổ
vậy?
Tiếng gà gáy xa xa,
con nước đêm nay
mau lớn quá, mới đây
thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm
bịp kêu,
mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình
tâm lại,
vậy thì mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy
qua năm
khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung
giường.
Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đấu mặt lại ngủ... Còn người ta, nhớ
thương đứt
ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được,
đành
ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống. Ðau lắm chớ. Má tôi nhìn ra
ngoài
trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt
qua,
tiếng mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát
nước xếp
lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì
nghiêng
đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:
- Trời đất, đêm qua
lẹ thiệt. Chắc tôi
phải đi bây giờ.
- Sớm vậy sao?
- Dạ, tôi thường
đi... trước lúc người
ta thức...
- Tại tôi nhiều
chuyện làm chị thêu
không xong...
- Không, người đàn bà
cười, nét mặt
thốt nhiên buồn bã, tôi
thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm
gì,
tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được.
Mà, đàn
ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ
lắm, chị
à.
Vậy rồi hai người
chia nhau đi. Ghe nổ
máy rồi, khói xịt tơi
bời, dì còn dặn lại: "Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen.
Người
ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi". Má tôi không nói,
quay
đi và khóc.
Tháng sau, má tôi
quyết định gom mớ
của cải cả nhà có được
ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn
ghế ở
nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học.
Mọi thứ
được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng
chính bà
cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má tôi
cũng
không kể với ba cái đêm gặp "tình địch" ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả
nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng
nan tre
đã xỉn mầu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như
thuở
người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.
... Bây giờ má tôi
muốn gặp dì, nhưng
lâu quá, chờ hoài
không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi,
không
biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi
hỏi má
tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có
đỡ hơn
không. Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội
tôi, bình
yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để
cho dì
hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được chừng nào chết, mời dì
lên nằm
trên đất vườn tôi.
Ðó là nỗ lực cuối
cùng má tôi làm để
chấm dứt cái cảnh ba
nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.
6. Ngổn Ngang
Cái
sân trước không có ai, lá bạch đàn
khô se sẽ đậu trên
băng đá. Nhà trên cũng không có ai, cây chổi lông gà nằm chéo trên cái
bàn chữ
U, nửa ngoài đã sạch bong, nửa trong bụi còn đóng một lớp dày. Con Phèn
chắc
cũng đi cua gái, không thấy nhẩy xổ ra, tí tởn. Có tiếng nước chảy tồ
tồ ở đằng
sau, chắc má tôi ở trong ấy.
Tôi ngồi bệt xuống
ngạch cửa nhìn má
tôi. Lâu quá không nhìn
má, sao vai má gầy đi vậy không biết. Lưng còng xuống. Vai và lưng khẽ
rung.
Sao nhìn giống như khóc. Thiệt tình là rất giống như khóc và thiệt tình
là má
khóc. Ai làm gì? Chuyện gì? Sao má khóc?
- Viên, má không ngờ, chuyện thằng Bảo với con...
Cuối cùng thì má cũng biết chuyện này. Má biểu tôi kể tường tận chuyện gì xảy ra giữa hai đứa. Má vừa lau nước mắt vừa nghiêm mặt:
- Ðâu con kể rành má
nghe coi.
Có những chuyện không
thể rành rọt ừ
thì một cộng một được
đâu má à. Tôi lại gần, cọ mớ tóc bụi bặm vào bên vai má, ngó những giọt
nước rỉ
rả từ cái vòi nước đầy rêu xuống mớ cải xanh. Nên bắt đầu từ đâu hở má?
... Hồi đó mỗi khi có
dịp, tôi cũng ôm
vai má như vầy an ủi:
Lo chi má, Bảo vẫn còn ở đó, mai mốt con rảnh con lấy chồng mà". Má tôi
hỏi chừng nào rảnh. Con đâu biết má ơi. Tôi đâu biết. Ngày của phóng
viên trẻ
là một ngày vô định. Má tôi cảm thấy hạnh phúc vô ngần khi buổi sớm còn
thấy
tôi vùi đầu vào đống gối chăn rối bù như tổ nhện và nói được một câu:
"Viên ở nhà, má đi chợ" rồi thì đau khổ phát chai đi khi đón tôi ở
cửa, nhìn vũng đêm đen đặc sau lưng đứa con gái. Khổ như nhìn nồi chè
khoai môn
má cố công nấu hâm đi hâm lại cả tuần đứa con không về được để ăn. Ba
tìm cách
san phẳng quả núi trong lòng má: "Kệ nó, nó đi theo cái nghề của ba Hậu
nó
ngày xưa, chắc ảnh cũng hài lòng". Ba Hậu là ba trước tôi, ông đã hy
sinh
ở chiến trường khi tôi còn phiêu diêu ở đâu đó làm thủ tục đầu thai
thành con
gái kiếp này. Vốn là một phóng viên chiến trường, khi chết, trên tay
ông vẫn
còn cầm cái máy ảnh. Tôi yêu ông vì thường nằm mơ thấy ông với nụ cười
hồn hậu
như trong bức ảnh thờ. Ông không nói gì hết, không đi gì hết, chỉ cười,
muôn
thuở chỉ cười.
Ông tổng biên tập già
nua hay ngắm
tôi, than: "Chú thèm
cái nhiệt tình xông xáo của cháu, mà sợ, sợ một ngày tim cháu cũng lạnh
ngắt,
thờ ơ nhìn đời chạy maratông qua cũng như chú". Nhưng chú vẫn còn
thương,
còn ghét đấy thôi . Ừ, nhưng không dám nói ra. Còn tôi thì dám, người
ta gọi
tôi là phóng viên số phận. Từ nghiệt ngã, đau đớn cho đến thăng hoa
nhất, tôi
quan tâm đến từng ngõ ngách của đời người. Nguyên, bạn đồng nghiệp của
tôi nhận
xét: "Rồi có một ngày Viên sẽ viết về số phận mình". Chắc không đâu,
cho tới ngày tôi hai mươi bốn tuổi, tôi chưa làm được việc gì coi được
một
chút, một chuyện mang hơi hướng vĩ đại như nhặt của rơi trả lại người
bị mất
chẳng hạn. Ðời tôi cũng được cấu thành nhiều việc vụn vặt bình thường.
Ngay cả
trong tình yêu, tôi cũng hết sức bình thường. Tôi yêu mà không mộng mị
mơ
tưởng. Tôi chỉ có một nỗi tự hào rằng mình có hai người ba, họ đều
thương yêu
tôi. Dù đã có người nằm xuống.
Cái hồi tôi với Bảo
yêu nhau (cho tới
bây giờ vẫn chưa xa
lắm), tôi hay lại đằng nhà Bảo chơi. Nhà Bảo nằm trong dãy đường bán
thuốc đông
và mỹ phẩm, trước nhà có bà dì ép bìa kiếng cho học sinh bằng bàn ủi.
Bà dì vui
tính thấy tôi lại trêu: "Lúc này cô đi đâu ít thấy, thấy tướng thằng
Bảo
nhớ cô quá trời". Tôi cười. Tôi giậm giày trèo lên những bậc thang.
Phòng
Bảo, cái ban công nhà Bảo, với tôi có cái gì đó vương vấn thiêng liêng.
Nơi
ngày xưa ba Hậu tôi từng hoạt động khi còn được gài ở trong thành. Mẹ
Bảo là
người Việt gốc Hoa, ngày ấy đóng vai vợ của ba Hậu tôi. Khi chúng tôi
lớn lên,
hai nhà khuyên chúng tôi yêu nhau, tôi nhận thấy mẹ Bảo với ba Hậu tôi
ngày xưa
hẳn có tình. Họ mong chúng tôi trả món nợ ân tình đó. Và chúng tôi hồn
nhiên
đến với nhau, vậy thôi. Tôi hời hợt, Bảo chu đáo. Tôi bay nhảy như chim
trời,
Bảo là kiến trúc sư vẽ chằng chịt những khu quy hoạch thành phố mới. ở
bên Bảo,
chúng tôi thường hôn nhau không quá mười giây, lúc đó tôi nghe tiếng xe
chạy
xuôi ngược ngoài đường dưới cái ban công lùng nhùng như những đường dây
điện
thoại. Tôi nghĩ, đáng lý ra mình cũng phải chạy như vậy, phải guồng
chân với
dòng đời như thếnày. Vậy là tôi lại quẩy túi đi. Cuộc đời mỗi giây là
một sự
tươi mới, một tin tức nóng.
Thật tình thì hồi đó
hai đứa yêu nhau,
thỉnh thoảng tôi nghĩ
ra một chuyện gì đó làm tăng thêm gia vị tình yêu. Tôi gọi điện kêu Bảo
hớt tóc
đi, để tóc dài giống du côn quá. Bảo hỏi: "Cái lần mà hai đứa mình gặp
nhau là bữa ăn bánh xèo phải không?". Không đợi tôi nhớ lại và trả lời,
anh nói luôn "Anh hớt tóc đúng tuần rồi, tuần rồi em ở đâu?". Một
lần, tôi làm đợc một việc vĩ đại là nhớ được ngày sinh nhật của anh.
Thế là đang
làm phóng sự ở Sông Ðốc, hết đò tôi quá giang tàu dầu về thành phố.
Chiếc tàu
ậm ì chạy về đã đến nửa khuya. Ðến nhà Bảo thì từ đằng xa thấy Bảo ôm
hôn một
người ngay ở cái chỗ ban ngày bà dì ép kiếng ngồi. Lạ lùng là người con
gái ấy
không phải là tôi. Từ lâu tôi không biết là Bảo thích một người con gái
tóc
dài, trắng trẻo chứ không bụi bậm mạnh mẽ như tôi, thích một người con
gái dám
đứng ở hè đường hôn nhau chứ tôi thì tôi mắc cỡ cái khoản này kinh lắm.
Tôi
lặng lẽ về, cái ông xe ôm khi nãy chở tôi đã đi mất tiêu. Tôi phải về
bằng
chính đôi chân của mình. Lúc đó mấy ông dân phòng đeo băng đỏ đi tuần
thấy tôi
mấy ông dò xét: "Chừng này còn lang thang ở đây, băng nhóm "Phố
đêm" hả? Tự dưng tôi thưa với mấy ông đó mà muốn về trụ sở dân phòng
uống
nước trà. Tự dưng thèm trà quá, mà phải là trà pha thật đậm. Tôi muốn
thức thử
coi đêm nay dài bao nhiêu...
Cái chuyện mà má tôi
muốn biết chỉ có
bao nhiêu đó thôi. Tôi
kể cũng nhẹ nhàng bao nhiêu đó thôi. Bà thì thấy rằng tôi dường như mất
mát
nhiều quá, má nghĩ mất Bảo rồi, 6 tỷ người trên hành tinh này đối với
tôi không
là cái đinh gì cả. Bà mong tôi có một biểu hiện gì đó, chỉ cần nhếch
nhẹ một
chút đau khổ thôi, má tôi sẽ ôm tôi vào lòng mà an ủi. Tôi cũng thấy
buồn kinh
khủng lắm, sao Bảo làm vậy mà tôi không đau đớn, vật vã gì hết. Sao tôi
không
ghét Bảo mà thấy thương anh hơn. Ngay cả làm một việc tương đương vĩ
đại là
thụi vào người anh, vào ngực anh nơi có trái tim đỏ tươi nhảy nhót để
cho nó
đau mà cũng là không được. Thiệt, tệ hết sức.
Tôi lại ăn trứng cút luộc trừ cơm mỗi lần đi tàu tới một địa phương xa, lại ngoi ngóp lội bùn ra tận bãi bồi xóm Mũi coi người dân sạt sò huyết, lại đóng vai bồi bàn, bán vé số, nghiện xì ke... để thực hiện phóng sự của mình. Má kinh lắm, tưởng tôi vì thất tình mà vùi đầu vào công việc. Tôi nghĩ ra một cách an ủi má: "Con có người yêu khác rồi má à", má tôi hỏi ai, tôi chỉ Nguyên. Nguyên với tôi cùng nghề, cùng chuyên trách trang xã hội. Lần nào đi công tác chung, ăn cơm chiều ở một chỗ heo hút nào đó, chưa uống nước cho qua khỏi cơn nghẹn đã hỏi nhau, tối nay mình ngủ ở đâu. Có lần chúng tôi rủ nhau ngủ chợ, ngủ thớt thịt cho ấn tượng chơi. Thành phố về đêm như một cái lẩu thập cẩm để ớt quá tay. Hỗn độn, nóng bức. Nguyên nói với tôi "Ở đây có thể xảy ra mọi thứ, kể cả giết người". Tôi dựng tóc gáy nhưng không chịu về. Nguyên bảo: "Bên Sông ngủ đi, Nguyên canh cho" nghe chân thành như một hòn đất. Nguyên yêu tôi. Tôi trả lời tôi yêu Bảo rồi. Mà tôi có phải là đứa con gái tốt đâu". "Chưa biết tôi tốt hay không là đã thương rồi". Nguyên thấy thương thì thôi đi. Tôi bảo: "Nói theo ngôn ngữ nghề mình, hai đứa mình giống như đứng bên hai bờ sông, nhìn thấy nhau, nghe nhau nói nhưng không đến được với nhau đâu". Nguyên cãi bướng: "Nguyên có đò". Tôi cáu sườn: "Viên bắn bể xuồng".Từ lúc đó Nguyên gọi tôi là Bên Sông. Mà tôi nghi quá, nghi Nguyên là hậu duệ của nàng công chúa xưa nên lù mù yêu tôi không tương lai như nàng Mỵ Châu yêu Trọng Thuỷ. Nguyên này toàn làm những chuyện cho tôi cảm động không thôi. Ði làm phóng sự về. Ðêm. Mưa thâm trầm dai dẳng. Tôi lái chiếc xe máy màu đỏ kêu xùng xèng chở Nguyên, Nguyên rướn người cao vánh, kéo cái cổ áo sơ mi che mưa tạt cho tôi. Tôi chạy xe trong mưa bồng bềnh cảm giác, cái cảm giác lạ lùng thấy mình không chống chọi, xù xì chiến đấu với ai. Tôi thấy mình giống như hòn đất mềm, hòn đất không suy tư, hồn nhiên vỡ ra, ngửa mặt giữa trời. Một ngày nọ, Nguyên tặng tôi một cái nguyệt cầu. Nguyên cũng chẳng xấu như thằng Cuội, tôi đẹp không bằng một ly của chị Hằng nên mới thoáng qua chẳng hiểu Nguyên tặng tôi vậy có ý gì mà tôi cũng không hỏi có ý gì.
Công việc vẫn nhiều
như trước. Mới đây
tôi lao vào vụ việc
tai nạn lao động ở một công trường xây dựng. Nhiều người bị những mảnh
gạch từ
trên toa đổ xuống. Có một chị tôi quen. Chị ấy đã từng đứng đường bán
thân nuôi
miệng. Chị bỏ nghề đi làm phụ hồ vừa mới hơn một tháng nay. Ngón chân
sơn đỏ
như màu máu của chị chưa kịp tróc, chưa kịp phai thì chị đã chết. Tôi
bước chân
vào cái hẻm, nơi tôi đã từng cùng chị về những lúc tàn đêm, "Ði, đi cho
biết nhà tao, cho biết hai đứa con tao, coi tao sống làm sao mà làm cái
nghề
ngóc đầu không nổi này". Bảo cũng đến đó, đến để chia tiền cho thân
nhân
chị gọi là "đền bù". Tôi biết nhiều chuyện hơn Bảo tưởng, hỏi Bảo tại
sao hồ trộn không đủ chất lượng, toàn là cát làm sao đủ kết dính để đến
nỗi
tường đổ? Số xi măng lẽ ra được ngào hồ đã đi đâu? Bảo không trả lời.
Bảo im
lặng. Tôi nghĩ, với cương vị giám sát công trình, lẽ ra anh phải biết
và đã
biết. Hồi lâu, Bảo lên tiếng: "Dù sao, anh đền cho bà 10 triệu là xứng
đáng
rồi, bà đâu có bảo hiểm gì...". Tôi tát Bảo thật mạnh. Ðể sau đó cắn
môi
nhừ. Da Bảo trắng quá nên in rành rạnh năm ngón tay tôi. Bảo bỏ đi. Tôi
ôm hai
đứa trẻ con chị, hai đứa trẻ mũi dãi tèm lem, tôi kéo vạt ao lau cho
chúng. Và
bật khóc. Khóc vì yêu, Bảo đi vào con đường tội lỗi ấy khi nào, tôi vô
tâm quá
nên không biết.
Má tá hoả khi hay tin
Bảo bị thanh tra
và Nguyên mà tôi nói
đã không còn ở đây nữa. Nguyên đã định cư vĩnh viễn ở nước ngoài sau
khi tặng
tôi quả nguyệt cầu. Nguyệt cầu của chia xa, của thằng Cuội, chị Hằng
chưa bao
giờ được trông thấy nhau, được nhìn về một hướng.
Tôi về ngồi ngay chỗ
ngạch cửa nhổ tóc
bạc cho má tôi. Tôi
không kể chuyện xảy ra vừa rồi giữa tôi và Bảo vì sợ mình để rớt nước
mắt trên
đỉnh đầu đã bắt đầu trống huơ vì quá nhiều tóc bạc bị nhổ của má. Má
dạy tôi,
tóc suôn suôn đừng có nhổ, má tóc bạc nhiều như vậy, nhổ là trọc luôn
đó. Mấy
cọng xoăn mới là tóc ngứa. Rồi má kể hồi sáng nay dì Hai có lên, tôi
hỏi dì Hai
đi đâu. Má nói bữa nay mười sáu, ngày tốt, dì Hai đi trồng răng lại,
mấy cái
răng cũ chờ ăn kẹo cưới của con cháu gái, chờ tới rụng hết trơn rồi. Má
bất
thần hỏi:
- Thằng Bảo lầm lạc
rồi, không ra gì
rồi, sao con không giữ
thằng kia lại hở con?
Ui chao, má hỏi tôi
ngay lúc tôi không
bình thường nhất. Tự
dưng tôi thèm được yêu thương ai đó để chia sẻ, dìu dắt nhau đi trên
con đường
đời ngổn ngang mà vì một nỗi đam mê nào đó tôi đã đánh mất rất nhiều.
7. Chợ nổi Cà Mau – chút tình sông nước
Không biết bây giờ
bạn đang lang thang
ở đâu, lên Sa Pa đi
chợ tình hay đã xuôi chợ Viềng Nam Định, không biết đang sì sụp ăn ốc
nóng ở
chợ Âm Phủ – Đà Lạt hay về miền tây Nam Bộ xuôi thuyền thăm các chợ
đồng bằng.
Được du khảo qua các chợ, đó là niềm đam mê không dễ gì dứt bỏ, có lần
bạn đã
nói thế, phải không. Vậy thì sao bạn không về thăm chợ nổi Cà Mau quê
tôi ?
Nằm giữa lòng thành
phố Cà Mau, quãng
cuối sông Gành Hào,
đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một
dãy ghe
rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chỏng lên loang
loáng dưới
mặt trời. Không biết chợ đã hình thành từ khi nào, phải chăng từ những
chiếc
ghe thương hồ xuôi ngược một hôm neo đậu gần nhau để mồi xin chút lửa,
trao đổi
cho nhau nắm gạo lứt, tấm vải bố tời, trái bầu, trái bí… mà nên một xóm
chợ
trên sông đông đúc, sung túc nhất đồng bằng như bây giờ ?
Sao bạn lại không thể
cùng tôi dạo chợ
trên sông, đi từ buổi
sớm mai trong lành để ngắm xóm chợ tươi tắn, nhiều màu sắc và lạ lùng
trong con
mắt người xứ khác. Mà, sao lại là buổi mai ? Vì chợ lúc bình minh lên
như thời
thơ ấu của một đời người, đạp đẽ, tinh khiết, trong ngần. Sương đọng
trên chiếc
mùng giăng trên mui ghe của đám trẻ con ngủ vùi, ngủ nướng rồi bảng
lảng tan
cho một ngày buôn bán bận rộn bắt đầu. Hàng trăm chiếc ghe to, nhỏ khẳm
lừ, đậu
sát vào nhau thành một dãy dài, người bán, người mua trùng trình trên
sóng
nước. Buổi sớm mai, đó là buổi của những chiếc xuồng con với các chị,
các dì
bán hàng ăn sáng, mùi thơm của các loại bánh lan tỏa xa hơn cả tiếng
rao hàng,
là buổi của những chiếc ghe hàng bông đổ ra từ trăm ngàn con sông, rạch
để bổ
hàng rồi trở về theo trăm ngàn lối sông rạch cho chuyến buôn xa. Buổi
của những
chủ ghe tất bật bày biện sao cho mớ hàng hóa của mình mới mẻ, tươi tắn
và tinh
tươm nhất.
Ngày trước, chợ trên
sông Cà Mau cũng
giống như nhiều chợ nổi
đồng bằng khác buôn bán rất nhiều mặt hàng từ nhu yếu phẩm đến thực
phẩm, nghe
kể, chợ bán cả bàn ghế, giường ngủ, tủ thờ… Bây giờ, cách buôn bán ấy
chỉ còn ở
những ghe hàng bông lưu động đến tận nhà người dân, riêng chợ nổi Cà
Mau chỉ
tập trung bán sỉ hàng hóa nông sản tươi, những thứ rau, trái miệt vườn.
Với
khách đường xa, đi chợ trên sông là để xem, để khám phá cái nguyên khí
một miền
quê lạ. Bạn không cần ghé vào từng ghe để xem hàng họ bán những gì, bạn
chỉ cần
biểu em gái chèo đò chèo chậm thôi, thong thả thôi ngang qua chợ. Bạn
cứ nhìn
cái nhánh cây thon, dài buộc ở đầu ghe kia, trên cây treo gì thì ghe
bán thức
ấy, lúc la lúc lỉu trông lạ vậy, nhưng đó là tiếng chào mời không lời.
Chẳng
cần rao bán, chèo kéo nhưng khách cầm lòng nào mà bỏ đi. Cầm lòng được
sao với
cái màu đỏ thanh thao của trái đu đủ chín cây, đỏ au au của chùm chôm
chôm,
vàng ươm của khóm, xoài, xanh riết của cóc, ổi, tím của cà… Giữa chợ
nổi Cà
Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu,
như
nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc triền sông Trẹm quê
mình.
Mỗi chiếc ghe neo đậu
ở đây là một
ngôi nhà, ngang hai mét,
dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp là vậy, nhưng khách thương hồ lại có
tâm hồn
hiếu khách, hào sãng, rộng rãi. Bạn đến, họ sẽ chẳng hẹp lòng gì mà
không mời
bạn nếm thử miếng dưa gang thanh thao, cái thơm ngọt lạ lùng của trái
dừa nước,
thử cái vị chua chua của trái dâu, trái khế quê nhà. Nếu bạn lỡ phải
lòng cô
bán hàng duyên dáng nào đó thì xin hẹn ước mau mau, để chần chừ về nhà
rồi quay
trở lại, sợ rằng sẽ đứng trên chiếc đò nhỏ chao trên sóng ( hay lòng
của ta
chao) nhìn cây cọc buộc ghe vắng một sợi dây quen, có buồn lắm thì cũng
đành
hát “người đã đi rồi khôn níu lại”. Biết làm sao được, bản chất của xóm
chợ này
là vậy, hợp rồi tan như lục bình trôi, như bèo dạt.
Tôi luôn nuôi một
niềm hy vọng sẽ cùng
bạn lênh đênh trên
chợ nổi quê mình. Khoe cái sầm uất, rộn ràng của chợ buổi sáng, buổi
trưa, cho
bạn cảm nhận cái man mác buổi chiều. Cái man mác buồn đúng là của một
chiều phố
núi nào đó, một xóm nhỏ heo hút nào đó nhưng ở trên sông này vẫn có nét
riêng.
Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đậu hết một vạt áo nắng vàng
hoe hoe,
đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm nghi
ngút
khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu
thuốc to
đùng bằng đầu ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ
con ngồi
tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô con gái sau một
ngày bán
hàng mệt mỏi tìm niềm vui bằng việc nụm nịu chăm nom cho mấy bụi hẹ,
chòm rau
húng lủi, vài cây ớt ốm nhom trong cái khạp bễ để trên mui ghe mà nghe
phảng
phất niềm thương nhớ đất.
Bình dị vậy mà chợ
nổi quê tôi đã đi
vào nhạc, vào thơ, vào
những bức tranh, bức ảnh. Những văn nghệ sỹ đến, làm nên tác phẩm rồi
đi mà vẫn
hẹn lòng quay lại bởi niềm hứng khởi trước những vẻ đẹp lạ lùng, đặc
trưng của
miền sông nước mãi mãi không bao giờ cạn. Vậy sao bạn còn chưa đến với
đất quê
tôi ?
Nước sông Gành Hào
ngày ngày ra biển
rồi lại quay về há
không phải vì không nỡ xa, không phải vì thương nhớ chợ nổi Cà Mau đó
sao ?
Sông còn vậy, huống chi người ?
8. Người mẹ vườn cau
Đề bài làm văn chỉ
hai chữ "Người mẹ".
Cô Hương
bảo "Bình luân, chứng minh, hay miêu tả cách nào cũng được" Tôi cắn
bút, nghĩ mãi bắt đầu như thế nào nhỉ?
Ba tôi có rất nhiều
mẹ, tôi cũng có
lắm bà Nội ở nhà cùng
chú út. Nội ở Phố Đông, Nội ở vườn cau, Nội nào cũng già như nhau. Tôi
nhớ khi
còn nhỏ, ba dẫn về thăm Nội vườn cau. Hôm đó, mưa nhiều, con đường từ
dưới bến
lên nhà, đất bùn lẹp nhẹp, tôi ngã oàng oạch. Nhà Nội nhỏ xíu, mái lá
đột tong
tong. Đón ba, Nội gầy gò, cười phô cả lợi.
- Má tưởng con không về được, mưa gió
tối trời vầy khéo cảm.
Bà vuốt đầu tôi.
- Tiên tổ mầy, sao mà giống cha quá
vậy?
Hôm ấy bà giỗ chú Sơn. Trên cái bàn
thờ con con thấp lè tè
kia đến ba chiếc lư đồng, cái nào cũng nghi ngút khói. Bữa giỗ chỉ vài
ba bác
canh chua cá rô đồng, mắm kho, bông súng. Chưa bao giờ tôi được ăn lại
nghe
ngon như thế. Ba gắp thức ăn cho bà, bà gắp thức ăn cho tôi, hôn hậu
bảo.
- Ăn cho mau lớn, con.
Tạnh mưa, mọi người lục đục đến, họ
kéo gàu xối ào ào ngoài
hiên nước. Ai cũng gọi nôi bằng Má, "Má Tư". "Má Tư" ơi ới.
Tôi hỏi:
- Ba ơi, sao nôi đông con quá vậy?
Ba cười bảo:
- Tối, ba kể con nghe.
Một chú quần vo tới gối, tay cầm lông
vỗ vai ba cười ha hả.
- Toa biết chú mày về nên đem thịt rắn
qua đây, tui mình lai
rai.
NNT
[Trích diễn đàn Trái Tim Việt Nam
http://ttvnol.com]
Comments
Post a Comment