Bui Ngoc Tan
Cơm áo không đùa với khách thơ
Xuân Diệu
Cơm áo không đùa với
bất kỳ ai. Lại càng không đùa với các
nhà văn nhà thơ. Nhất là vào cái thời cuối thập niên 80 (của thế kỷ
trước) nền
kinh tế cả nước đang chuyển từ hệ thống bao cấp sang kinh tế thị
trường. Biến
động mạnh từ suy nghĩ, quản lý, hàng hoá, giá cả tới bản thân giá trị
đồng
tiền.
Ðình Kính, nhà văn quân đội với đồng
lương đại uý (ngày ấy
anh đeo lon bốn sao một vạch) mà phải cùng vợ nuôi hai con nhỏ đang đi
học, đó
là chưa kể bố mẹ già. Không dám ước vọng cao xa ti vi cát xét tủ đứng
tủ li.
Chỉ nghĩ đến cái ăn để tồn tại, có đủ tiền mua sách bút, đóng tiền học
cho con
và có đủ tiền mua được manh áo ấm cho bố mẹ vợ con mỗi khi gió rét từ
biên giới
thổi về. Lại còn phấn đấu có một chút dự trữ chiến lược phòng khi ốm
đau.
Phải có tiền. Tiền là tiên là phật,
sức bật tuổi trẻ, sức
khoẻ tuổi già.. . Và cũng chỉ còn mỗi cách kiếm tiền: Viết thuê. Dùng
nghề
nghiệp của mình kiếm sống. Thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn
nghiền
ngẫm nung nấu, những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình. Hãy để
lại
sau. Ðể đến bao giờ chưa biết, nhưng trước mắt là kiếm sống.
Ðình Kính đã đi viết thuê và đã kiếm
được tiền. Bữa ấy anh
lang thang vào tận vùng rừng núi Ðồng Nai, tìm ra được một ông giám đốc
một lâm
trường quốc doanh và cũng là một đồng hương. Ông là người đi đầu trong
việc
tháo gỡ cơ chế cũ, táo bạo, dám nghĩ dám làm, một người có thể tuyên
dương anh
hùng được mà bắt bỏ tù cũng được theo như quan niệm của thời đầu mở
cửa. Anh đã
hoàn thành một bộ phim về ông, về lâm trường. Phim đã chiếu cho lâm
trường xem
và còn được phát cả trên màn ảnh nhỏ. Không thể diễn đạt được xúc động
của lâm
trường, của ông giám đốc khi thấy hình ảnh mình trên ti vi. Với lâm
trường,
Ðình Kính là một thiên tài, là hiện thân cho sức mạnh toàn năng của
nghệ thuật.
Phấn khởi đầy lòng, ông giám đốc nọ nhờ Ðình Kính giúp cho một tập sách
về đơn
vị.
Nghĩ ngay đến những bạn bè cũng đói
rách như mình, nhưng
Ðình Kính vẫn làm ra vẻ cân nhắc, đắn đo:
- Sếp nói rất chính xác. Giấy trắng
mực đen bình thường thôi
nhưng vô cùng quan trọng. Nó đi vào từng gia đình, từng người. Nó đi
vào chiều
sâu lòng người. Nó đi vào thư viện. Con cháu chúng ta vào thư viện là
sẽ biết
cha ông chúng đã sống và làm việc như thế nào. Phim cũng quan trọng
nhưng không
thể ví với sách được. Nhưng đây là một việc khó khăn, một mình tôi
không làm
nổi. Phải vài người cùng làm mới bảo đảm được thời gian. Ðể kỳ này ra
Hà Nội
tôi nói khó với mấy anh ngoài ấy.
It ngày sau Ðình Kính đưa hai nhà văn
khác cùng vào. Giám
đốc rạng rỡ nét mặt khi được giới thiệu đó là hai nhà văn nổi tiếng,
những cái
tên ông đã nghe thấy từ lâu mà hôm nay ông mới vinh dự được gặp. Với
thói quen
của một người làm kinh tế, giám đốc cho thảo hợp đồng gồm những nội
dung chủ yếu:
Thời gian hoàn thành bản thảo là hai tháng, ăn nghỉ, tầu xe ra vào lâm
trường
lo, khi bản thảo được duyệt và thông qua, mỗi nhà văn sẽ được bồi dưỡng
một chỉ
vàng! (Giám đốc giải thích thêm: Phải quy ra vàng các đồng chí ạ. Nếu
tính
nhuận bút bằng tiền tôi sợ thiệt cho các nhà văn. Ba trăm đồng tháng
này là ba
trăm, tháng sau còn trăm rưởi, tháng sau nữa chỉ còn một trăm. Cho nên
ta cứ
tính thành vàng, vàng bản vị, các nhà văn tán thành không? Nhất trí!
Tiếng ba
nhà văn đồng loạt cất lên.) Mỗi người một chỉ vàng! Một tài sản khó mà
hình
dung được ngày ấy!
Như mở cờ trong bụng, ba nhà văn nhanh
chóng dự các cuộc
họp, nghe báo cáo, xuống các đội sản xuất, vào rừng vẩn vơ, nhìn suối
chẩy,
nghe chim hót để lấy... không khí.
Ba người không viết ở lâm trường. Ðích
thân giám đốc đưa họ
xuống biển, xuống Long Hải, một khu nghỉ mát sang trọng, yên tĩnh, cách
Vũng
Tầu hơn mười ki lô mét. Chả lâm trường còn liên doanh với một đơn vị du
lịch và
có những khách sạn sát biển. Ông giám đốc họp toàn thể cán bộ nhân viên
khách
sạn để giới thiệu ba nhà văn:
- Trân trọng giới thiệu với các đồng
chí ba nhà văn quốc
gia! Ba nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội. Các đồng chí vào giúp chúng ta viết
và xuất
bản một tập sách về lâm trường. Ðây là nhà văn Ðình Kính mà các đồng
chí đều đã
biết. Ðây, nhà văn Chu Lai, nhà văn quân đội kiêm kịch sĩ. Còn đây nhà
văn
Nguyễn Quang Thân, tác giả nhiều tập tiểu thuyết, truyện ngắn mà các
đồng chí
đã đọc.
Các nhà văn lần lượt đứng lên, cúi đầu
chào, nở nụ cười
khiêm tốn, lịch sự, nụ cười ra mắt. Ông giám đốc ôm vai từng người như
những
chiến hữu cánh hẩu trước bao con mắt kính phục của các nhân viên dưới
quyền.
Ông nói về việc bố trí phòng ở "mỗi người một phòng, trong phòng phải
có
cả bàn viết", về tiêu chuẩn ăn, về lượng bia phải có hàng ngày, không
được
để các đồng chí ấy thiếu thốn cái gì:
- Còn khoản thuốc lá nữa. Các nhà văn
hút nhiều, hút nặng
đấy. Mỗi người một ngày một bao thuốc lá Jet. Nhớ là thuốc lá Jet. Các
đồng chí
ấy chỉ hút thuốc lá Jet. Ðừng có mang Ba số đến. Ðừng tưởng ai cũng
thích Ba số
cả đâu!
- Mỗi nhà văn một ngày một bao Jet!
Ông nhắc lại một lần nữa và nhìn lướt
đám nhân viên của ông
như nhắc họ chớ quên điều quan trọng ấy. Ðám cán bộ nhân viên xì xào:
- Mình thì cứ cho Ba
số là nhất. Khách nào cũng Ba số.
Những tiếng thì thầm
ấy đến tai giám đốc. Ông cười, hài
lòng. Còn anh chị em nhân viên khách sạn từ ấy nhìn giám đốc của mình
với đôi
mắt hoàn toàn khác: Sếp không chỉ là người quản lý tài ba táo bạo, mà
còn là
chiến hữu với các nhà văn lớn, những nhà văn quốc gia, hiểu biết cặn kẽ
những
điều nhỏ nhất trong sở thích của họ.
*
Ba nhà văn của chúng
ta bắt tay vào việc bán chữ. Tất nhiên
là sau khi tắm biển, uống bia, ăn sáng và phì phèo thuốc lá Jet.
Chu Lai, Ðình Kính
hút thử một hơi và ho sặc sụa. Cả hai đều
không biết hút. Còn Nguyễn Quang Thân hút vào lại thở ra, không có tí
khói nào
lọt tới họng, phì phò như một cái bễ. Thân hút thuốc lào, Thân chịu
được, không
ho. Thân nhận trách nhiệm thỉnh thoảng làm một điếu trước đám nhân viên
khách
sạn. Ba phòng làm việc của ba nhà văn lúc nào cũng có ba bao thuốc lá
bóc dở và
có tàn thuốc trong ba cái gạt tàn. Nguyễn Quang Thân chẳng viết được
một dòng
nào, nhưng bù lại, Thân bập bập thuốc lá chăm chỉ. Cứ xuất hiện giữa
đám nhân
viên khách sạn là Thân bật lửa châm thuốc. Ác cái là loại thuốc Jet này
quá
nặng. Chẳng hiểu căn cứ vào đâu mà ông giám đốc anh hùng kia lại tuyên
bố là
các đồng chí ấy chỉ hút thuốc lá Jet. Ðừng có mang Ba số đến. Ðừng
tưởng cứ Ba
số là hay đâu. Không. Ba số hay lắm chứ đồng chí giám đốc ơi. Ba số có
bập bập
thế này cũng không ho. Ba số dễ bán. Giá cao. Bán ở đâu cũng được. Ba
người đã
đi chung quanh khu nghỉ mát, rụt dè hỏi han xem người ta có mua thuốc
lá Jet
không. Họ đều lắc. Ở đây không ai hút Jet. Ở đây người ta chỉ hút thuốc
thơm.
Ba số, Dunhill, bét ra cũng Capstan. Jet không bán cho ai được.
Không bán được, không
hút nhưng vẫn nhận thuốc đều đặn. Một
tháng đầu đã 90 bao thuốc Jet. Trừ ba bao để ở ba phòng cho Nguyễn
Quang Thân
hút nghi binh còn 87 bao. Chỉ trông cái túi du lịch phồng căng cũng đủ
sốt
ruột. Cho nên thật tỉnh người khi Chu Lai nguyên chiến sĩ đặc công nước
từ đâu
chạy về khách sạn:
- Mình đã tìm được
nơi bán thuốc lá Jet rồi. Chỗ này nó
không mua thuốc gì khác ngoài thuốc Jet.
Chuyện cứ như đùa. Cứ
như thần thoại.
- Thật không ?
- Ở đâu ?
Chu Lai nhấn mạnh:
- Nó không mua thuốc gì! Nó chỉ mua
thuốc Jet! Nó đang chờ
mình ở cuối bãi tắm! Ði nhanh!
Thế thì thật rồi! Ðặc công có khác!
Giỏi thật! Cả ba ôm túi
du lịch chứa đầy thuốc lá ra khỏi khách sạn. Ông chủ nhiệm khách sạn
đang ngồi
trong phòng Reception tươi cười :
- Vừa tắm rồi các nhà văn đã lại tắm
nữa à? Máu thế?
Ðình Kính cười tít mắt:
- Biết làm sao. Lại thích bơi!
Cả ba bước nhanh ra bãi tắm, còn nghe
tiếng trầm trồ của ông
chủ nhiệm :
- Chịu mấy ông. Giữa trưa nắng thế này
mà cũng rủ nhau đi
tắm biển. Ðúng là văn nghệ sĩ!
Ba nhà văn cuốc thẳng ra bãi tắm, cười
rinh rích về phẩm
chất nghệ sĩ của mình.
- Ðâu? Nó đâu?
Chu Lai chỉ tay về một chấm đen ở cuối
bãi. Tới nơi, một
thanh niên ngồi trên xe 67 chờ sẵn. Chu Lai ôm túi du lịch nhẩy lên
ngồi sau
xe, vênh mặt nhìn hai người, đắc thắng. Xe vút nhanh phóng ngược trở
lại. Cát
bay mù mịt. Nguyễn Quang Thân, Ðình Kính đứng nhìn theo mãi chiếc Honda
67 rũi
bụi dọc bãi tắm và khuất vào khu khách sạn. Hai người rất ngạc nhiên
thấy chiếc
xe quay về ngay, lần này phóng nhanh hơn lần trước, tiếng rú rít lên
giận dữ.
Từ trên xe, Chu Lai xách túi du lịch
nhẩy xuống, cái túi vẫn
căng phồng như thế. Dừng lại một tí. Hình như là để cãi cọ. 67 phóng
đi. Rồ ga.
Thổi bụi vào mặt Chu Lai.
- Sao ? Sao lại quay lại ?
- Không bán được
à ?
Chu Lai nhăn nhó:
-Tưởng bán ở đâu. Ai ngờ nó lại bán
cho đúng khách sạn ba
thằng mình ở!
*
Thuốc lá rồi cũng bán được. Ði xa hơn.
Bán ít một. Giá rẻ.
Thế thôi.
Còn lại là viết. Nhưng chỉ Chu Lai,
Ðình Kính viết. Nguyễn
Quang Thân không. Không được chữ nào. Lại còn hay sang quấy nhiễu:
- Cách đây mấy năm tớ
đi dự tổng kết của một ngành. Trong
hội nghị có lựa ra một số ít cốt cán tin cậy cho đi xem vi đê ô. Vi đê
ô ngày
ấy còn là của hiếm. Mấy ai được xem. Mình được chọn. Nhà văn nhé. Ðảng
viên
nhé. Không được đi thì còn ai vào đấy. Mình vẫn ức cái dạo xem phim
Chiến tranh
và hoà bình. Cán sự ba mới được xem. Mình mới cán hai. Lần này thì
không trệch
được. Ðúng giờ các đồng chí cốt cán xếp hàng một đi xem trước bao con
mắt thèm
thuồng ghen tị của các đại biểu khác. Bọn này hồi hộp đi không một
tiếng động.
Tới một cầu thang đã có người đứng chờ sẵn. Kéo rèm. Bấm đèn. Hất hàm
ra hiệu
để chỉ lối. Tới một thang gác khác. Lại kéo rèm. Lại đèn pin lập loè,
thì thầm:
Các đồng chí đi lối này. Tối tối rợn rợn đến nỗi có lúc mình tưởng như
đang đi
xem thử bom nguyên tử.
Thân cười khặc khặc:
- Mà hôm ấy chiếu một
phim rất vớ vẩn. Một băng tâm lý sướt
mướt của Ðài Loan.
Hôm khác Thân lại
sang, mồm phì phèo điếu Jet:
- Này. Tớ kể cho các
cậu chuyện này...
Lần này bị cự tuyệt
thẳng thừng:
- Thôi. Ông về cho
người ta viết. Ông có muốn vỡ hợp đồng
không thì bảo.
Thân về nhưng lại
sang. Không cười mà cứ ấp úng:
- Mình muốn nói với
các cậu. Nhưng không biết có nên không.
Mình cứ nói nhé.
Ðược khuyến khích,
Thân mạnh dạn :
- Mình nhớ Dạ Ngân
quá. Không biết có cách nào kéo Dạ Ngân
ra đây được không?
Ðề nghị ấy được cả
nhóm ủng hộ ngay. Có Dạ Ngân, chắc chắn
Thân sẽ để yên cho hai người viết. Kính đặt vấn đề với chủ nhiệm khách
sạn. Ô
kê. Nguyễn Quang Thân toại nguyện. Chu Lai, Ðình Kính không bị quấy
rầy, năng
suất tăng hẳn.
Cứ thứ bẩy ông giám
đốc lại từ rừng xuống biển. Tiếng ông
oang oang giữa đám nhân viên dưới quyền.
- Chuẩn bị nhé. Hôm
nay làm việc khuya đấy.
Ông về duyệt những
trang bản thảo vừa được viết trong tuần.
Ông có tác phong làm việc dứt điểm. Duyệt từng phần. Và cuối cùng duyệt
lại một
lượt toàn bộ là xong.
- Tuần trước ăn gì
rồi nhỉ. Cháo chim à? Hôm nay thay món
khác đi. Làm món gì nhẹ nhưng lại có thể lai rai được. Gà à? Không. Có
đồ biển
gì không? Mới ăn cua xong à? Ðồ biển ăn nhiều rồi à? Hay là ăn thịt nai
rừng ?
Cả khách sạn sôi động
lên khi sếp từ rừng về với những mệnh
lệnh oang oang. Họ biết thế là lại bao nhiêu trang sách, những dòng văn
chương
viết về họ, bạn bè họ, tuôn chẩy từ những bộ óc nhà văn hẳn là rất đặc
biệt và
khác thường kia. Ðã bao lần họ nín thở nhìn trộm qua cánh cửa khép,
thấy những
cái lưng cong cong, cái đầu bù xù cúi xuống và bàn tay cầm bút bò chậm
chạp
trên trang giấy. Ôi! Thật là cao cả thiêng liêng! Lại còn những lúc các
nhà văn
ngồi thừ thượi nhìn vào những dòng vừa viết. Nhìn như muốn xuyên thủng
giấy.
Nhìn, mắt rỗng không. Nhìn đấy nhưng chẳng nhìn thấy gì. Cả khi họ đẩy
cửa đem
vào phích nước sôi mới. Viết văn, quả là ghê. Lao tâm khổ tứ, vắt óc,
bại
người, tổn thọ. Bây giờ mình đã nhìn thấy người ta viết văn rồi. Mấy ai
được
như vậy!
Vốn là chuyên gia
trong việc viết thuê, Ðình Kính, Chu Lai
biết phải viết như thế nào. Phải có tình hình gay go. Phải có lúc tưởng
như bế
tắc. Phải có những đêm khuya trằn trọc trăn trở. Phải có những ngày dài
bức
xúc. Phải có tinh thần trách nhiệm. Những cuộc họp. Những phút giây loé
sáng.
Những dám nghĩ dám làm. Phải có đối thoại. Phải có tả cảnh. Không ai
bảo ai, cả
hai cùng thống nhất một văn phong. Ðó là thứ văn không phải để xem bằng
mắt mà
để nghe bằng tai. Bởi vì ông sếp không xem. Ông sếp chỉ nghe đọc lại.
Tối nay làm việc đến
khuya. Ba nhà văn quốc gia của chúng ta
tề tựu đông đủ. Chu Lai ngồi cầm xếp bản thảo vừa hoàn thành trong
tuần, rỗ rỗ
xuống mặt bàn cho ngay ngắn, lật lật vài trang, nhíu mày chăm chú, hoặc
cầm bút
chữa một chữ nào đấy, có khi chỉ là tô lại một nét mờ, hoặc xem lại chỗ
nào cần
uốn giọng, cần nhấn mạnh, cần ngẩng đầu lên. Nguyễn Quang Thân khoanh
chân vòng
tròn, bắn một điếu thuốc lào, móp má kéo cho thật đã, để rồi sau đó có
thể chăm
chỉ thực hiện nhiệm vụ bật lửa bập bập thuốc lá Jet. Ðình Kính hết nhìn
mấy cô
phục vụ bưng vào những bia, những nước ngọt, lại nhìn ông giám đốc tanh
tách
bật lửa ma nhê tô hút ba số. Sếp toàn hút ba số. Thế mà lại đi tuyên bố
bọn
mình chỉ hút thuốc lá Jet. Chẳng ra làm sao! Cũng may đã tìm được nơi
bán. Ở
đây người ta ít hút thuốc này lắm. Chỉ mấy anh xích lô, mấy chú xe lam.
Mỗi
ngày bán được vài bao là nhiều. Có, các chú cứ mang ra đây. Vài bao.
Vài là ba.
Vừa quá. Mỗi ngày bọn mình cũng chỉ ba bao.
Dù tiết mục duyệt bản
thảo này đã được tiến hành mấy lần rồi
nhưng vẫn cứ căng thẳng. Vẫn cứ hồi hộp. Căng thẳng hồi hộp cho đến khi
sếp
tuyên bố ta bắt đầu làm việc thôi các đồng chí nhé. Như chỉ đợi có vậy,
Ðình
Kính tóm tắt những đoạn đã được duyệt kỳ trước và sau đó giọng đọc của
Chu Lai
bắt đầu một tối làm việc tới khuya.
Ðình Kính kéo Chu Lai
đi đánh thuê là có cân nhắc kỹ lưỡng.
Không phải chỉ vì Chu Lai là một nhà văn đã thành danh, dễ dàng gây nên
cú sét
mến phục từ cái nhìn đầu tiên, cũng không phải Chu Lai từng là đặc công
đã lăn
lộn ở vùng này. Ðiều chủ yếu Ðình Kính chấm Chu Lai là ở giọng đọc.
Không chỉ
lão luyện ở những chiêu văn hùng tráng, là một diễn viên kịch nói, Chu
Lai có
một giọng đọc không chê vào đâu được. Ấm. Vang. Âm. Sang sảng. Lăn vào
lòng
người.
Cái trò đọc truyện
đêm khuya không là cái đinh gì với Chu
Lai. Nhưng không được chủ quan. Dù chính là người viết ra nó, anh vẫn
đọc kỹ
lại một hai lần, để thể hiện đúng tình cảm. Chu Lai như đã nhìn thấy
trước hiệu
quả của từng chữ phải nhấn mạnh, những chỗ tạm ngừng, những từ phải đọc
uốn
cong lên mà anh hình dung ra ngay từ khi còn đang cầm bút viết.
Ông giám đốc im lặng đốt ba số. Lắng
nghe. Ðình Kính, Nguyễn
Quang Thân cúi đầu, thỉnh thoảng lại liếc trộm ông giám đốc, dò tìm
phản ứng
trên nét mặt đăm chiêu của ông. Sao ông ta lại chau mày. Ðoạn này có gì
không
ổn đâu. Chỉ là nói về nghị quyết đảng bộ lâm trường thôi. Sao ông ta
lại ngả
hẳn người ra ghế lim dim mắt thế kia nhỉ? Hay ông ta ngủ. Kìa. Sếp đã
cười. Sếp
còn gật gật nữa. Chắc ăn rồi. Thắng rồi. Chắc chắn sản phẩm của mình đã
làm vừa
lòng sếp, đã được sếp duyệt, sếp OTK rồi. Mà không ưng sao được khi
giọng oanh
vàng của Chu Lai ngân nga: Rừng xưa lá úa. Nhưng những con người đến
cùng rừng
hôm nay đã thay lá cho rừng. Không phải đất trời, sự vận động của thời
tiết,
của bốn mùa đã làm nên điều kỳ diệu ấy. Mà chính là những con
người(...) (...)
Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc. Trước hết nó
được
làm bằng trí tuệ, bằng tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước yêu chủ
nghĩa xã
hội của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến, lặng lẽ
giản dị như
những gốc cây rừng (...) (...) Ngồi trên
chiếc xe lu lăn trên con đường xuyên rừng đang được hoàn thiện, họ có
cảm giác
đây là con đường tiến vào thế kỷ 21 và thả tâm hồn vào thiên niên kỷ
tới. Giám
đốc không ưng sái cổ sao được khi vẫn cái giọng tuyệt vời của một diễn
viên đã
bao lần chinh phục khán giả trên sàn diễn tiếp tục: Rừng thay lá. Rừng
sống
lại. Rừng lại hát khúc ca hùng tráng của rừng. (Ðọc đến đây Chu Lai
ngừng lại,
ngước nhìn lên mà chẳng nhìn ai, với cặp mắt thẫn thờ thăm thẳm chiều
sâu.) Ðình Kính cha đẻ của những dòng
văn ấy và cả Nguyễn Quang Thân không đóng góp một chữ nào cũng thấy sởn
hết cả
gai ốc vì xúc động. Giám đốc kêu lên :
- Tốt! Tốt! Cứ như vậy là rất tốt!
Và quay ra cửa hét to:
- Các đồng chí chuẩn bị ăn khuya đến
đâu rồi? Xin phép các
nhà văn, tôi ra xem anh em họ làm ăn ra sao.
Ngồi trong buồng còn nghe thấy giám
đốc nói với chủ nhiệm
khách sạn ngay phía ngoài cánh cửa (rõ ràng đủ to cho bên trong nghe
thấy):
- Ðồng chí có trách nhiệm hỏi ba nhà
văn xem có cần giải trí
không? Nhà văn cũng là người chứ! Cũng cần giải trí chứ! Ðả thông các
đồng chí
ấy đừng ngại. Các đồng chí ấy giải trí không phải vì các đồng chí ấy,
mà vì
chúng ta, vì công việc, vì lâm trường!
*
Hai tháng qua nhanh. Bản thảo đã hoàn
thành. Hợp đồng đã kết
thúc. 180 bao Jet trừ ba bao để ở ba phòng, còn lại một trăm bẩy bẩy
bao đã
được bán, tiền đã được cho vào túi. Tên tác phẩm đã được đặt. Ðứa con
tinh thần
ấy được các ông bố thống nhất đặt tên là RỪNG XƯA XANH LÁ. Nhưng lại
xẩy ra một
trục trặc nhỏ: Những ai là tác giả, những ai đứng tên ngoài bìa sách?
Nguyễn
Quang Thân tự xét mình không đóng góp một chữ nào cho tập sách này,
nhất định
không chịu ký tên:
- Bỏ tên
tớ ra. Tớ
không muốn là kẻ đạo văn.
Chu Lai trừng mắt:
- Ông đã được ở đây hai tháng. Ăn
uống. Bia bọt. 59 bao
thuốc Jet. Lại đón Dạ Ngân ra. Không ký tên là không xong đâu!
Ðình Kính ôn tồn:
- Ông Thân không ký tên cũng được.
Thôi thì tiền thuốc lá
Jet chúng tôi cho ông. Nhưng cái khoản một chỉ vàng ông phải để lại.
Hai thằng
tôi cưa đôi.
Ðòn ấy làm Thân choáng. Coup décisif! Thân đành chấp nhận ký tên, chấp nhận làm kẻ
đạo văn.
Sau bữa liên hoan chia tay có cả sâm
banh, có cả bia và đủ
thứ sơn hào hải vị, ba nhà văn được ông giám đốc trực tiếp nong vào
ngón tay
mỗi người một chiếc nhẫn một chỉ vàng kết thúc hợp đồng. Nguyễn Quang
Thân tút
về Cần Thơ với Dạ Ngân. Chu Lai, Ðình Kính về thành phố Hồ Chí Minh. Từ
bến xe,
hai người hai chiếc xe đạp khung dựng guồng về khu nhà nghỉ của Hải
Quân. Ðình
Kính vừa đạp xe vừa ngắm chiếc nhẫn vàng óng trên ngón tay nắm ghi
đông. Một
chiến công. Một thắng lợi dòn dã. Ðây là chiếc nhẫn vàng thứ hai trong
đời Ðình
Kính. Chiếc nhẫn vàng thứ nhất mua cách đây không lâu. Biết bao phấn
đấu, tằn
tiện của hai vợ chồng mới có được. Mua về, gói vào vải, bọc túi ni
lông, cho
vào tủ rồi, nằm ngủ rồi, lại tung chăn, dậy mở tủ lấy nhẫn ra ngắm, rồi
lại gói
lại bọc lại cất, mới vào màn ngủ được. Chỉ vàng to lắm, mấy ai có...
Ðang ngẫm ngợi như vậy thì đã tới Thảo
cầm viên. Một đám
đông con gái trẻ măng ríu rít ùa ra, vây lấy hai đồng chí bộ đội. Một
cuộc tập
kích bất ngờ. Người nắm ghi đông. Người nắm tay. Người ôm vai. Người
bóp đùi.
Người kéo áo. Hoảng. Hoảng quá. Không còn biết ra sao nữa. Dù họ trẻ.
Dù họ
đẹp. Họ nũng nịu. Họ tươi như hoa. Dù họ ríu rít như chim:
- Hai anh. Ði đâu mà vội thế?
- Dừng lại. Ði
chơi với chúng em.
- Ði. Chút xíu
thôi mà, anh Hai.
- Anh Hai. Xem
em nè.
Vội xuống xe, kẻo ngã. Họ nài nỉ. Họ
thơm tho. Họ nưng nức
nước hoa. Họ phụng phịu như dỗi. Họ nắm chân nắm tay, họ ôm lấy hai
người.
Cố gắng gạt bầy tiên nữ ấy ra, hai nhà
văn thoát khỏi vòng
vây, lên xe guồng một mạch về nhà nghỉ. Vừa đặt ba lô xuống, thoáng
nhìn bàn
tay đeo nhẫn, Ðình Kính rụng rời: Chiếc nhẫn vàng trên ngón tay không
còn nữa!
- Chu Lai ơi! Cái
nhẫn của mình mất rồi!
Giọng Ðình Kính thất
thanh. Chu Lai giật mình giơ tay lên.
Nhẫn vẫn còn.
Ðình Kính nằm vật
xuống giường không nói được một lời. Tiếc
đã hẳn. Nhưng giận. Giận điên lên, cái lũ con gái khốn nạn ấy. Và cuối
cùng thì
phục. Cái nhẫn khi ông giám đốc đeo vào ngón tay mình còn chật cơ mà.
Không hiểu
nó lấy cách nào nhanh thế.
Lại phải cười vì Chu
Lai cứ giơ bàn tay có nhẫn ra trước mặt
như khiêu khích. Ðình Kính bảo:
- Mất. Tức thì tức
thật nhưng phải công nhận chúng nó tài.
Nó đã nâng lên hàng nghệ thuật.
Một lúc sau lại:
- Tài thật! Tài thật!
Chu Lai tiếp:
- Tài đến thế là
cùng! Tiên sư em Tào Tháo!
Ðang đau như hoạn
cũng phải cười. Ðang cười bỗng im bặt.
Giật mình. Sục vội tay vào túi quần. Thở phào. Chỗ tiền bán thuốc lá
Jet vẫn
còn.
Lời cuối truyện: Xin
lỗi các bạn Ðình Kính, Chu Lai, Nguyễn
Quang Thân và cả Dạ Ngân nữa. Nếu các bạn không bằng lòng, hãy cứ coi
đây là
chuyện...bịa.
Nhà xuất bản Hải
Phòng, 2003
Tiếp theo (phần 2) ►
Tôi
là bạn của ông Dương Tường
Chuyện ở thành phố Hồ Chí
Minh: Một lần Dương
Tường đưa nhóm hoạ sĩ 5 người (gang of five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ
Chí
Minh mở triển lãm. Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi.
Dương Tường
đi xích lô, tay cầm tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người
gác cửa
khách sạn to lớn, mặc sắc phục nắm chặt vai anh đẩy ra vỉa hè:
- Không được bán báo
ở trong ấy! Ði ra
ngoài kia mà bán!
Chuyện ở Hà Nội: Một ngày
giáp tết, nghe mấy hoạ
sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp
nơi để
chọn bằng được một cành đào ưng ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua
đại một
cành đào, vác ra ngoài cổng chợ đứng chờ. Ðang cầm cành hoa mới mua, xo
ro
trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn tay nắm lấy vai anh, đẩy anh vào
trong chợ:
-Không được bán hoa ở đây!
Mang vào trong chợ mà
bán!
Ðó là người bảo vệ chợ.
Người ta nhầm Dương
Tường là người bán báo, người bán hoa. Nhưng học theo cách nói của
Nguyễn Tuân,
tôi nghĩ chưa ai nhầm Dương Tường là nhà thơ, nhà văn hoá cả...
Buổi biểu diễn kết thúc,
đèn bật sáng trong
những tràng vỗ tay ran và khán giả đứng dậy ra về, gặp tôi trong hành
lang nhà
hát, lối thông lên sân khấu, bà Lorelle Browning vẫn giữ nguyên nụ cười
trước
thành công của buổi diễn. Thấy tôi, bà tiến sĩ người Mỹ này dừng lại,
chắp hai
tay trước ngực, xá tôi một xá và cúi đầu chào tôi một cách rất phương
Ðông:
-Chào ông. Tôi là bạn của
ông Dương Tường.
Tất nhiên bà phát âm lơ
lớ, kiểu phát âm của một
người ngoại quốc đang tập nói những câu giao tiếp tiếng Việt. Và một
trong
những câu đầu tiên bà học để có thể tự nói bằng tiếng Việt là câu nói
trên. Tôi
là bạn của ông Dương Tường. Trong câu chuyện giữa chúng tôi đó là câu
duy nhất
bà nói không phải qua phiên dịch. Còn cứ là phải nhờ "phiên dịch" Thu
Hà, một nữ nghệ sĩ sân khấu xinh đẹp, người vừa từ sàn diễn trong vai
một phu
nhân lộng lẫy quyền quý của Giấc mộng đêm hè bước xuống. Hồi
chiều, khi
đoàn kịch nói Việt-Mỹ (tôi cứ tạm đặt tên như vậy) vừa từ Hà Nội về Hải
Phòng,
còn đang nhận phòng tại khách sạn Hoà Bình trước cửa ga, tới thăm nữ
nghệ sĩ
Thu Hà, tôi đã gặp bà Lorelle Browning tại đó. Bà cùng ông chồng ở
phòng gần
bên. Thu Hà giới thiệu tôi với bà một cách vắn tắt nhất:
-Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, bạn
của nhà thơ Dương
Tường.
Bà reo lên:
-A!
Và đứng thẳng người, chắp
hai bàn tay trước
ngực, xá tôi một xá:
-Chào ông. Tôi là bạn của
ông Dương Tường.
Ðó là một cách nói: Tôi
với ông là bạn. Bởi
chúng ta cùng có một người bạn chung: Ông Dương Tường. Nó cũng đồng
thời như
một chứng chỉ bà là người bạn của nghệ thuật Việt Nam.
Chúng ta còn nhớ năm 1999, một
đoàn kịch nói Việt Nam
đã sang Mỹ diễn Hồn Trương Ba da hàng thịt. Một tháng rưỡi đoàn
lưu diễn
ở các trường đại học. Diễn tiếng Việt nhưng phụ đề màn hình bằng tiếng
Anh.
Tưởng như sẽ khó khăn cho việc tiếp nhận nghệ thuật, cho việc giao lưu
tình cảm
giữa sàn diễn và người xem. Nhưng kết quả có thể nói là vượt sự mong
đợi. Dư
luận Mỹ rất hoan nghênh. Hoan nghênh về nghệ thuật. Hoan nghênh về một
hình
thức giao lưu văn hoá mới, về sự hiểu nhau thêm giữa hai dân tộc. Mặc
cho một
số Việt kiều quá khích ở Los
Angeles
biểu tình phản đối, những buổi biểu diễn của đoàn kịch Việt Nam
vẫn cứ đầy
ắp người xem. Diễn xong khán giả còn đứng dậy hoan hô (đứng dậy hoan hô
là một
hình thức hoan nghênh đặc biệt tại Mỹ).
Một năm sau, năm 2000,
chương trình hợp tác sân
khấu Việt Mỹ lại có những sáng kiến mới. Không chỉ là đoàn kịch nói
Việt Nam
sang Mỹ như trước, hay ngược lại, một đoàn nghệ sĩ sân khấu Mỹ tới biểu
diễn ở
Việt Nam, mà là các diễn viên Mỹ và Việt Nam cùng diễn chung một vở,
diễn viên
Việt nói tiếng Việt, diễn viên Mỹ nói tiếng Anh, tất nhiên là phải dùng
đến phụ
đề trên màn hình vi tính. Vở được chọn là Giấc mộng đêm hè của
Sêch-xpia. Và Những con thú thuỷ tinh (The glass menagerie) của
Tennessee Williams, Mỹ. Tôi gặp bà Lorrelle trong dịp đoàn về Hải Phòng
công
diễn hai vở trên trước khi bay vào thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lorrelle
là chủ
nhiệm chương trình. Diễn ở các thành phố lớn Việt Nam
rồi sẽ sang Mỹ biểu diễn. Chắc
chắn chương trình giao lưu nghệ thuật này có tác dụng góp phần vào việc
nhân
dân hai nước hiểu nhau hơn, một bước tiến trong quá trình hai dân tộc
cùng nhau
hướng tới tương lai.
Nhưng thật ít người biết
được rằng sáng kiến gây
tiếng vang này lại nẩy sinh trong một buổi trò chuyện về sân khấu giữa
Dương
Tường với bà Lorrelle. Là tiến sĩ văn khoa, giảng dạy ở trường đại học
Pacific
University, bà tới Việt Nam giảng dạy về Sêch-xpia ở trường Ðại học Huế
và
trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Những lúc rỗi rãi bà muốn có người trò
chuyện.
Một hôm bà ngỏ ý ấy với cô Diana, một người nước ngoài làm phóng viên
cho tờ
Vietnam News: Giá có ai ở Hà Nội mà nói chuyện về Sêch xpia được thì
thích quá
nhỉ? Cô Diana tươi cười bảo bà:
- Có chứ. Sao lại không?
Cô Diana đưa bà Lorrelle
Browning đến nhà Dương
Tường, 3B Phan Huy Chú. Thế là chuyện dứt không ra. Rất tâm đầu ý hợp.
Tường
nói cho bà biết Tường đã dịch Sêch-xpia, sân khấu Việt Nam đã
từng
dựng Sêch-xpia: Rô-mê-ô và Juy-li-et, vua Lia. Ô-ten-lô thì đang dựng
dở... Bà
Lorrelle nói về Sêch-xpia bên Mỹ, về những nhà hát đã công diễn
Sêch-xpia, về
sự mãi mãi say mê của công chúng Mỹ đối với nhà viết kịch vĩ đại...
Bỗng nhiên
Tường hỏi:
-Sao bây giờ chúng ta
không làm một cuộc trao
đổi sân khấu giữa Việt Nam
và Mỹ nhỉ?
Ðó là một ngẫu hứng, một
ngẫu hứng "nhiều
khi không phải xuất phát từ những kế hoạch định sẵn, mà nảy ra từ sự
gặp gỡ
giữa con người với con người cụ thể" như một bài báo đã viết về anh.
Lorrelle Browning im lặng. Bà suy nghĩ và như đang cân nhắc những vấn
đề gì đó.
Rồi bảo:
-Tôi phải xem sân khấu
Việt Nam
thế nào đã.
Dương Tường đưa bà khách
Mỹ, một chuyên gia về
Sêch xpia của nước Mỹ tới gặp những người có trách nhiệm trong Hội Nghệ
sĩ sân
khấu. Trọng Khôi, Nguyễn Ðình Nghi vốn từ lâu đã là những người bạn của
anh.
Ðôi bên thống nhất trước tiên hãy cử một đoàn nghệ sĩ Việt Nam
sang Mỹ
công diễn một vở kịch Việt Nam,
tất nhiên là diễn bằng tiếng Việt. Bà Lorrelle đề xuất sáng kiến khắc
phục rào
cản ngôn ngữ bằng phụ đề. Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu
Quang Vũ
được chọn. Nhạc sĩ Xuân Oanh dịch kịch bản. Dương Tường hiệu đính.
Tường cùng
Trọng Khôi làm dự toán. Bà Lorrelle không biết mỏi mệt trong việc chạy
thủ tục,
chạy kinh phí. Cuối cùng ông Oscar người Thuỵ Ðiển đại diện quỹ
Ford-Foundation
tại Việt Nam
đồng ý tài trợ cho cả chuyến đi.
Dương Thụ nói rằng Dương
Tường là người của giao
tiếp.Vợ con anh bảo anh ham vui, thích lang bang nơi này nơi khác. Ngay
từ thập
kỷ 60, thời gian rất căng thẳng, mặc dù đã bị công an thẩm vấn nhiều
lần, mỗi
bước đi đều bị giám sát chặt chẽ, anh vẫn cứ lang bang. Anh tin rằng
rồi người
ta sẽ hiểu anh, anh chỉ đến với nghệ thuật và như vậy chẳng có gì để
sợ. Với
lại cảm giác "nhồn nhột sau gáy"[1], anh đã quen rồi. Như anh quen
với việc một số người, trước đây từng là bạn, lảng tránh anh. Những
người anh
đến chơi cũng đều là những người đã quen "giật mình một cái vỗ
vai"[2] như quen với sự hiện diện của anh. Thế giới giao tiếp của anh
thật
đa dạng. Từ ông chủ tịch hội nghệ sĩ sân khấu tới các diễn viên trẻ, từ
những
ông tổng biên tập báo tới các phóng viên mới vào nghề, từ những hoạ sĩ
còn hàn
vi, vẽ tranh bảo hộ lao động kiếm sống đến những nhân vật tiếng tăm như
Nguyễn
Tuân, Sĩ Ngọc, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên... Anh chơi thân với Văn
Cao, với
Trịnh Công Sơn. Nhà anh giống một câu lạc bộ. Câu lạc bộ đa ngành đa
nghề.
Trong đám khách đánh tá lả thâu đêm trên tầng gác mới xây thêm ở Mai
Gallery
ngõ số 3B Phan Huy Chú ta dễ dàng bắt gặp nhóm hoạ sĩ trẻ Hà Trí Hiếu,
Ðinh
Quân, Ðặng Xuân Hoà, Ðỗ Phấn...Cũng có khi là một đám khách "tạp"
nhiều ngành nghề uống bia chuyện gẫu: Hoàng Cầm, Nguyễn Quân, Bảo Ninh,
Dương
Thu Hương. Và đoàn xe nổ máy ầm ầm đang ngoặt vào nhà anh mời anh đi ăn
cơm cá
bống kho phố Lò Ðúc kia là Thanh Sơn, nữ phóng viên báo Tuổi Trẻ Thuý
Nga vừa
từ thành phố Hồ Chí Minh ra, Ngô Hà Thái và Phạm Xuân Nguyên. Lại nữa,
một ông
già tuổi trên 90 nhưng còn rất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh và cả vui tếu nữa:
hoạ sĩ
Hoàng Lập Ngôn đang dán mũi vào một tập tranh in. Vợ chồng Ðỗ Minh Tâm,
Vũ Bích
Thuỷ về nhà "chú Tường" như về nhà mình. Hoàng Ðức Nhuận từ Huế xuống
ga Hàng Cỏ tới thẳng nhà Tường, quẳng ba lô trèo lên giường ngủ vùi,
ngủ như
chưa bao giờ được ngủ. ở Sài gòn anh có không biết bao nhiêu bạn : Cao
Xuân
Hạo, Nguyễn Thanh Bình, Lưu Công Nhân, Trịnh Cung, Trần Tiến, Hồ Thu
Hồng,
Tường Vân...Tôi nhớ vào buổi sáng sau khi bế mạc đại hội nhà văn một
ngày,
Nguyễn Thị Minh Thái và con gái lại nhà Dương Tường kéo chúng tôi đi ăn
sáng
tại một nhà hàng Lý Thường Kiệt và gặp Phú Quang ở đó, Phú Quang mời
Dương
Tường vào thành phố Hồ Chí Minh dự một chương trình biểu diễn ca khúc
của anh,
Dương Tường nhận lời và hôm sau bay cùng Phú Quang tắp lự.
Châu Diên đã viết một bài
về Dương Tường mà ngay
đầu đề cũng đã nói đúng cái chất Dương Tường: Rồng rắn lên
mây...Ông Tường
có nhà không? Với ông Tường thì cẩn thận réo lên như thế cũng không
thừa.
Vì ông ... không bao giờ có nhà, ông vắng nhà ngay cả khi ông có nhà
theo cái
nghĩa dung tục đời thường. Ông đang vớ vẩn đâu đó... Ta cứ việc réo lên
rồi ta
cứ xộc đến với ông. Ông không từ chối ai hết.
Giờ đây người ta đã hiểu
toàn bộ con người anh
là thuộc về nghệ thuật. Câu nói hơi có vẻ to tát này chỉ để nói một
điều: Ðã
bớt đi những câu hỏi đặt ra về sự giao du phức tạp, đáng ngờ của anh và
sự phức
tạp đáng ngờ của chính bản thân anh. Bớt đi thôi vì ngoài những người
"có
vấn đề" lại còn cánh tây đầm cứ ra vào nhà ông Tường tơi tới. Luôn có
những người châu Âu châu Mỹ, cao mét tám, hai mét, tóc vàng, tóc bạch
kim, mắt
xanh, mũi lõ, quần bò, quần soóc, váy dài, váy ngắn, đàn ông, đàn bà
khoác ba
lô, mang túi đi từ ngõ vào, hỏi những người trong ngõ bằng một giọng lơ
lớ mà
chỉ về sau mới quen, mới hiểu còn lúc đầu nghĩ mãi không ra: -Tôi hoi
nha ôn
duôn tuôn. Vào nhà ông Tường một lúc. Rồi ra. Chẳng biết chuyện với
nhau những
gì. Chỉ biết khi vào, tay xách một gói vuông vắn. Khi ra tay không. Xóm
phố
nhìn anh bằng cặp mắt soi mói ngờ vực. Anh được mời ra đồn làm việc. Và
không
quên phải cầm theo cái gói nhỏ người nước ngoài tặng anh: Một gói sách.
Ðầu năm 1990 Joren
Gerhart, nhà nhiếp ảnh người
Thuỵ Ðiển từ Hồng Kông tới Hà Nội và tìm đến Dương Tường do nữ phóng
viên
Shelly Goll giới thiệu. Chàng trai (bằng tuổi Hải Âu con trai anh) cao
một mét
chín tám này làm ảnh cho một số tạp chí của Hồng Kông, trong đó có
chuyên mục
chân dung nghệ sĩ cho tờ Asian art News. Anh ta ngỏ ý muốn được chụp
ảnh một số
văn nghệ sĩ Việt Nam.
Rất vui vẻ, Tường kéo anh ta đi ăn cơm bụi, đi chơi, đến nhà những
người bạn
của anh ở Hà Nội, toàn những người Gerhart sẽ phải chụp ảnh. Anh chàng
phóng
viên nhiếp ảnh rất phấn khởi: -Shelly Goll đã đúng. Cô ấy bảo cứ đến
ông là gặp
đủ mọi người. Trần Phương Mai, con gái anh đưa Gerhart đến những địa
chỉ phải
đến. Chỉ ít ngày sau, Gerhart đã có trong tay chân dung những văn nghệ
sĩ nổi
tiếng của Hà Nội. Rồi Mai đưa Gerhart vào Huế gặp Bửu Chỉ, Hoàng Phủ
Ngọc
Tường, tổ chức chụp ảnh các văn nghệ sĩ Huế. Chưa hết, Mai còn đưa
Gerhart vào
thành phố Hồ Chí Minh... Kết quả chuyến đi của Gerhart là collection
ảnh những
văn nghệ sĩ tiêu biểu của Việt Nam.
Và...Mai Gallery. Chính Gerhart gợi ý với anh là nên mở phòng tranh.
Ðến nhà
Dương Tường, đi cùng hai bố con anh, hiểu được kiến thức của anh đối
với hội
hoạ nói riêng và nghệ thuật nói chung cũng như sự quen biết rộng rãi
của anh và
bằng con mắt của một người am hiểu sinh hoạt văn hoá khu vực Ðông Nam
Á,
Gerhart cả quyết Gallery không chỉ giải quyết những khó khăn về kinh tế
của gia
đình anh mà còn giới thiệu được hội hoạ Việt Nam ra thế giới. Mai
Gallery ra
đời.
Rồi Stephen Mac Guinness
chủ Gallery Plum Bossoms được Trịnh
Cung và Thi Uyên đưa từ thành phố
Hồ Chí Minh ra Hà Nội đến thăm anh. Lại một phút giây xuất thần loé
sáng: Dương
Tường, Trịnh Cung cùng Nguyễn Quân làm việc với Gallery 7 Hàng Khay (do
Việt
Hải phụ trách) và Stephen, đề xuất một kế hoạch giới thiệu có hệ thống
hội hoạ
Việt Nam
ra nước ngoài. Thế là năm 1991 lần đầu tiên hội hoạ Việt Nam
được giới
thiệu với một quy mô lớn ra quốc tế. Gallery Uncorked Soul (có nghĩa
Tâm hồn
bộc bạch) Hồng Kông đã giới thiệu và trưng bầy tranh Bùi Xuân Phái,
Nguyễn Tư
Nghiêm, Lê Công Thành, Phạm Việt Hải, Trần Lưu Hậu, Trịnh Cung, Nguyễn
Trung,
Hoàng Ðăng Nhuận, Ðỗ Thị Ninh, Bửu Chỉ, Nguyễn Quân, Nguyễn Thân, Buì
Suối Hoa,
Ðặng Xuân Hoà, Trần Trọng Vũ... Ðể đạt kết quả trên, Nguyễn Quân, Trịnh
Cung,
Dương Tường đã làm việc không mệt mỏi. Tường tập hợp cánh hoạ sĩ để họ
chọn
tranh. Nhà Tường lúc nào cũng đông hoạ sĩ. Jeffry nhà phê bình hội hoạ
Mỹ được Plum thuê sang Việt Nam
giám định tranh. Lúc đầu không
có Trần Trọng Vũ. Tường đưa Plum đến nhà Trần Dần. Jeffry quyết định
chọn Vũ.
Lần đầu tiên, tác phẩm của Vũ được ra nước ngoài. Cùng với triển lãm,
một
catalogue được phát hành. Ðó là một cuộc triển lãm mang tính đột phá
trong quá
trình hội nhập của hội hoạ Việt Nam.
Ở Hồng Kông sau này có một
gallery chuyên giới
thiệu tranh và bán tranh của hoạ sĩ Việt Nam: Gallery Lã Vọng. Chủ
gallery, bà
Shirley Hui, một tiến sĩ người Mỹ gốc Hoa tới Việt Nam và đến Dương
Tường. Gallery
Lã Vọng là kết quả của những lần anh dắt bà Hui đến chơi Ðặng Xuân Hoà,
Nguyễn
Tư Nghiêm, nhóm 5 người (gang of five). Trong tập sách đầu tiên của
Gallery Lã
Vọng có đoạn viết:" Ông này (Dương Tường), nhà thơ và nhà phê bình lỗi
lạc
đã soi sáng cho tôi rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam"
(The
latter, eminent poet and critic, has enlightened me greatly on many
aspect of
Vietnamese culture). Bà Shirley Hui còn kéo thêm bà Judith Day cộng tác
và sau
này khi bà Judith Day rời Hồng Kông về Mỹ, chưa có điều kiện mở
gallery, bà lập
salon tranh, triển lãm tranh Việt Nam ở Si-ca-gô, Nữu Ước và
vài nơi
khác.
Khi David Thomas, cựu
chiến binh, giáo sư hoạ sĩ
trường đại học Emmanuel, người đầu tiên tổ chức triến lãm mỹ thuật
Việt-Mỹ mang
tên "Nhìn từ hai phía" sang Hà Nội tìm đến Dương Tường, cảm phục
nhiệt tình và kiến thức sâu rộng của anh đối với hội hoạ đã tới Hội
đồng Văn
hoá Châu Á (Asian cultural council) xin tài trợ để có thể mời anh cùng
với
Nguyễn Quân, Ðặng Xuân Hoà sang Mỹ, dự triển lãm thứ hai do David tổ
chức với
tên gọi "Cách nhau một đại dương". Ðó là vào năm 1995. Hộ chiếu đòi
hỏi nhiều thủ tục không đơn giản. Một trong những thủ tục bắt buộc: anh
phải là
người của Hội Nghệ sĩ tạo hình. Mà Tường thì chưa ở trong bất kỳ một
hội nghệ thuật
nào (Cho đến tận bây giờ anh vẫn chưa có chân trong Hội Nhà văn). Anh
phải làm
đơn xin vào Hội Nghệ sĩ tạo hình, ngành lý luận phê bình. Hội đồng lý
luận
không giới thiệu anh lên ban chấp hành, mặc dù đơn của anh được Trần
Lưu Hậu,
chủ tịch Hội Ðồng nghệ thuật và Thái Bá Vân nhà lý luận hàng đầu ký tên
giới
thiệu. Mà thời hạn đi Mỹ đã gần kề. Bà Vũ Giáng Hương khi đó là Tổng
thư ký Hội
biết chuyện phát biểu:
-Anh Dương Tường viết
những bài phê bình, giới
thiệu hội hoạ rất có chất lượng, và viết nhiều hơn bất cứ một nhà phê
bình
chuyên nghiệp nào. Hai anh Thái Bá Vân, Trần Lưu Hậu đã giới thiệu. Nếu
cần tôi
xin là người thứ ba giới thiệu anh Dương Tường.
Dương Tường được kết nạp
vào Hội Nghệ sĩ tạo
hình. Anh được cấp hộ chiếu đi Mỹ với tư cách là nhà phê bình nghệ
thuật.
"Tường đã sang thăm Hoa
Kỳ, đã tới Boston
-Châu Diên viết
như vậy- đã đi nhiều ngả, đã đến bên đài kỷ niệm có tên Bức tường Việt Nam.
Một ngày
cuối tháng chạp năm 1995, Tường ngồi thụp xuống chân đài kỷ niệm viết
vội những
dòng thơ bằng tiếng Anh, vẫn như mọi lúc, không bao giờ có ý định công
bố, thơ
viết vội cho chính mình, đơn giản là thơ, thế thôi. Tuy chỉ là ghi vội
cho
mình, song bài thơ đã lọt vào mắt xanh một chuyên san đại học Yale. Nữ
nhiếp
ảnh Ellen Kaplowitz đã xin phép viết bài thơ lên một tấm pa nen lớn đặt
ngoài
cửa ra vào triển lãm của chị. Còn hoạ sĩ Rodney Dickson thì in bài thơ
của
Tường vào thiếp mời triển lãm của mình có tên là Life~Death (Sống~Chết)
đầu
tháng 2-2001 ở New York".
Tên Dương Tường cùng ngôi
nhà của anh đã trở thành
quen thuộc với nhiều người làm văn hoá nghệ thuật ở nhiều nước. David
về Mỹ nói
với bạn bè:
-Gia đình Hà Nội của tôi
là nhà Dương Tường.
Anh được Cộng đồng Pháp
ngữ mời sang Pháp. Anh
sang Ðức trong Festival Gặp Việt Nam của Ðức. Tôi nói đùa
với Dương
Tường:
- Chỉ vì ham vui mà ông
làm được khối việc ra
đấy. Có thể gọi ông là Vụ văn hoá đối ngoại nghiệp dư. Ðược không? Dù
lúc đầu
có hơi phiền phức, nguy hiểm. Tường cười:
-Cũng là do cái tính của
mình. Báo Lao Ðộng cũng
đã phỏng vấn anh về đề tài này, tất nhiên không như chúng tôi đùa bỡn
cùng
nhau. Bài báo viết: ... không thể là ngẫu hứng, nó là kết quả của những
tình
bạn thâm giao với các văn nghệ sĩ tài năng từ lúc họ còn hàn vi, đến
các hoạ sĩ
trẻ thời mở cửa được "lăng xê" một cái là lên như diều...Ông được
tiếng là người chu đáo tận tình với bạn bè. Và Tường đã bộc bạch: "Tôi
yêu
quý các nghệ sĩ, ở thế hệ đàn anh, đó là phẩm chất mà người Pháp gọi là
"intégrité morale", tức là một sự toàn vẹn "nguyên khôi"
hết mình, trung thực không thể chê trách. Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư
Nghiêm, Bùi
Xuân Phái, Trần Dần là những người như thế. Ðáng buồn là những con
người như
thế ngày càng ít. Với thế hệ trẻ tôi "sướng" lây cái sướng của họ:
Không mặc cảm, không ràng buộc, với người đi trước họ không đạp đổ, vẫn
kính
trọng nhưng không bị đè...Tôi yêu văn hoá Việt Nam,
nghệ thuật Việt Nam.
Và tôi yêu
tấm lòng đối với văn hoá Việt Nam của những người nước ngoài đến với
Việt Nam,
đến với tôi, một cô hoạ sĩ Hà Lan tôn thờ Trần Trung Tín của mình còn
hơn Van
Gogh, một David Thomas lặn lội gõ cửa các nơi để giới thiệu "Bẩy cột
trụ
hội hoạ Việt Nam" cho dân Mỹ.
Nói Tường ham chơi, ham
vui là một cách nói yêu.
Anh là người lao động nghiêm túc. Anh đã dịch hơn 50 đầu sách từ tiếng
Anh,
tiếng Pháp ra tiếng Việt. Ðó là những tác phấm nổi tiếng của văn học
thế giới,
những tác phẩm luôn gợi mở cho những người cầm bút Việt Nam những suy
nghĩ mới
mẻ về sáng tác, những tác phẩm mà Nguyễn Quang Thân nói đọc xong thay
đổi cả
nhận thức như Anna Karenina (Lev Tolstoi), Alexis Zorba (Nikos
Kazantzaki, Hy
lạp). Và Ðất dữ ( Jorge Amado, Brazil), Cuốn theo chiều gió (Margarret
Mitchel,
Mỹ), Ðồi gió hú (Emily Bronte, Anh), Cội rễ (Alex Haley, Mỹ), Con đường
xứ
Flandres (Claude Simon, Pháp), Bức thư của người đàn bà không quen
(Stefan
Zweig, áo), Người dưng (Albert Camus, Pháp), Truyện ngắn Tchekhov,
nhiều vở
kịch của Shakespeare như Othello, Anthony và Cleopatra, Ðêm thứ 12
v.v...Hiện
Tường đang đánh vật với tiểu thuyết Trống thiếc của Gunter
Grass, nhà
văn Ðức, Nobel văn học 1999.
Không chỉ chọn sách dịch,
Tường luôn cố gắng hết
sức mình để đạt được một chất lượng chuyển ngữ tốt nhất. Những bản dịch
của anh
đọc thật sướng. Rất nước ngoài nhưng cũng rất Việt Nam.
Và đặc biệt, rất Dương Tường.
Anh quan niệm dịch văn học như sau: "Tôi muốn người dịch là đồng tác
giả,
làm sao vượt lên định kiến "dịch là phản", bản dịch phải là kết quả
trong đó có 100 phần trăm tác giả và 100 phần trăm dịch giả, làm sao có
thể ký
tên (nói cho vui) Nguyễn Du-Dương Tường dưới bản dịch Truyện Kiều. Nói
cách khác,
bản dịch phải thể hiện cá tính của dịch giả trong từng chữ. Ðiều đó
cũng tựa
như trong âm nhạc, biểu diễn nhạc là "dịch" một tác giả theo cách của
mình; cũng là Chopin, nhưng Chopin do Ashkenazy đánh là ký tên
Ashkenazy,
Chopin do Ðặng Thái Sơn đánh là ký tên Ðặng Thái Sơn...Tôi thích làm
cái khó,
làm cái gì hơn mình một tý, như người kiễng chân từng mi-li-mét. Tôi
muốn mình
phải dịch những gì có thể tác động đến văn học Việt Nam,
đến người làm nghề văn thì mới
bõ. Ðối với văn học đương đại, vấn đề không phải là viết khó hay dễ, mà
cần
phải biết có bao nhiêu con đường khác nhau, đó là gợi ý để mình thám
hiểm. Ðừng
ăn sẵn, dù là ăn sẵn của ông cha hay ăn sẵn của thiên hạ, phải phăng
những con
đường mới."
Một trong những tác phẩm
tiêu biểu cho những
điều anh nói trên là tập "Những con đường xứ Flandres" của Claude
Simon, Nobel văn học. Tường nói với tôi:
- Những con đường xứ
Flandres chưa đến 400 trang
mà tôi dịch lâu gấp đôi "Cuốn theo chiều gió" dầy cả ngàn trang. Tôi
dịch vì nghĩ đến anh em viết mà chưa được đọc quyển này thì thiệt quá.
Nhiều
lúc rất mệt nhưng cố.
Trong lời giới thiệu in
đầu sách, Tường viết:
Tôi dám khẳng định: cuốn sách này sẽ chỉ có một công chúng hạn hẹp. Nó
không
dành cho những người tìm khoái thú dễ dàng ở một cốt truyện nhiều tình
tiết ly
kỳ hay éo le hấp dẫn theo cách thông thường. Chúa chứng giám là tôi
tuyệt nhiên
không có ý làm nản lòng độc giả, mà quả thực là ngay cả ở Pháp, quê
hương của
tác giả, thái độ của nhiều trí thức trung bình đối với sách của Claude
Simon
cũng chỉ "kính nhi viễn chi" mà thôi. Song tôi lại dám nói những ai
tìm đến cuốn sách này với lòng ham muốn khám phá đích thực sẽ như bị
bùa mê và
sẽ đọc lại nó chí ít vài lần nữa. Lời giới thiệu này dành cho loại độc
giả đó.
Hy vọng nó sẽ cung cấp được một số đường dây khả dĩ giúp họ tìm được
lối trong
mê cung kỳ thú trong thi pháp tiểu thuyết của Simon. "Những con đường
xứ
Flandres" đúng là một mê cung. Mê cung đối với người đọc, mê cung đối
với
người dịch vì nó là mê cung ngay cả đối với Claude Simon, người viết ra
nó.
Chính tác giả đã làm việc 8 tháng ròng trên từng đoạn nhỏ, trên từng
dòng lẫn
lộn không phân biệt, đến nỗi ông phải dùng những sợi chỉ mầu đánh dấu
mới có
thể định hướng được trong cái mê cung do chính ông tạo ra. Ðánh giá
đúng công
sức cố gắng của anh chuyển ngữ mê cung "Con đường xứ Flandres", Hội
Nhà văn đã trao giải thưởng về văn học dịch cho anh.
Tổng kết về Dương Tường,
Phạm Xuân Nguyên viết:
Ông là nhà báo? dịch giả? nhà phê bình văn học? nhà phê bình mỹ thuật?
nhà phê
bình âm nhạc? nhà phê bình sân khấu? nhà thơ? Ðúng cả. Sau khi dẫn
chứng về nhà
báo, nhà dịch thuật của Dương Tường, Phạm Xuân Nguyên chứng minh anh là
nhà phê
bình văn học: "Hãy nghe ông Tường giải một nỗi buồn của Nguyễn Tuân:
"Xưa nay, người ta ưa nhìn Nguyễn Tuân như một mặc khách không ngừng bị
ám
ảnh bởi nỗi khát khao xê dịch, luôn luôn thèm đi, cuồng đi.
L'invitation au
voyage -mà anh dịch rất hay là Thỉnh Du- đó là một khúc nhạc quyến rũ
nhất đối
với lòng chàng lãng tử họ Nguyễn. Nhưng những năm cuối đời, những
chuyến đi xa
dường như không cám dỗ anh nữa. Phải chăng nỗi cuồng đi đã nguội lạnh
trong
anh? Tôi, tôi nghĩ thế này: Có lẽ, như Celine làm cuộc viễn du đến tận
cùng
đêm, anh cũng thấy cần dành thời gian còn lại để hoàn thành cuộc viễn
du đến
tận cùng lòng mình. Vả chăng, theo tôi, cuộc hành trình lớn nhất, dài
nhất
trong đời anh- mà anh chưa đi hết- đó là cuộc hành trình chữ. Với anh,
mỗi lần
động bút là một chuyến phiêu du-du lịch trên địa đồ chữ nghĩa." Còn
đây,
ông viết về Raymond Carver-một Chekhov của nước Mỹ hậu hiện đại: Truyện
ngắn
của Carver tựa như những mẩu giáo khoa về phân huỷ. Làm thế nào để đánh
hỏng
đời mình và đời người khác, để nẩy sinh hằn thù điên loạn và tội ác?
Carver đã
tạo ra một thế giới thiếu vắng tình yêu, thiếu vắng đến độ dã man.
"Chúng
tôi nói gì khi bàn về tình yêu" là đầu đề một kiệt tác ngắn của ông.
Thật
kỳ lạ, từ lâu lắm rồi người ta đã quên hẳn không còn biết nói gì, nói
thế nào
về tình yêu. Trái tim bị xâm thực bởi quá nhiều tham vọng nhỏ nhoi đã
trở nên
khô héo cằn cỗi không còn biết đến nhịp đập yêu thương."
Cùng với Phạm Xuân Nguyên,
tôi dẫn ở đây một
Dương Tường phê bình hội hoạ bằng những gì tôi có trong tay: Một trích
đoạn anh
viết về Nguyễn Quân "Hành trình vào cái không nhìn thấy": (...)Những
tác phẩm gần đây của Nguyễn Quân vẫn lúa túa hình sắc, vẫn ươm những
mảng mầu
mát rượi như da thịt người con gái vừa tắm, song có phần u trầm hơn,
vẫn chan
chứa nhục cảm song chín mọng tịch lặng hơn. Xem tranh Quân, có lúc tôi
tự nhủ:
Này đừng mắc lừa! Lật cái lớp sum suê rực rỡ bên trên, ta sẽ thấy ở
tầng sâu
cái mà các nhà hiện tượng học hiện sinh gọi là "cô đơn bản thể". Nói
cách khác là cái tâm thái bơ vơ lạc lõng mà vì nó, người nghệ sĩ cần
đến nghệ
thuật để hoà nhập trở lại vào âm dương vũ trụ...
Và những dòng anh viết về
Hà Trí Hiếu: Hà Trí Hiếu
có nỗi đam mê vừa cuồng nhiệt vừa e ấp, thể hiện ở độ ào ạt của mầu sắc
và sự
tinh tế của ánh sáng dường như được cổ vũ bởi sức sống bao lâu bị nén
lại nay
bỗng một lúc vọt trào: những bộ mặt không có nét với những cái hốc
trắng thay
vì miệng từ đó cất lên những khúc ca im lặng. Những con bò có khi dài
ngoằng mà
vẫn gợi một cảm giác vuông vức, thường là một mầu đất trầm tĩnh như
cuộc đời
người nông dân. Ở Hiếu, dạt dào cái trữ lượng đồng quê của một tâm hồn
thôn dã
chưa kịp thành thị hoá. Bút pháp và mảng mầu ngày càng thiên về xuất
biểu của
hoạ sĩ, nghịch lý thay, chẳng những không đối chọi mà còn bổ sung cho
cái trữ
tình của những Quê Việt, Khúc ca quê, Thôn nữ và Bò, cái trữ tình ngăn
ngắt
xanh trong đó lời ru của Mẹ quyện với giếng nước luỹ tre làng và trăng
ca dao
tưới sầu lên nỗi tủi phận của những cô gái lỡ thì.
Dương Tường là nhà báo
(hẳn rồi vì anh là phóng
viên Thông Tấn xã Việt Nam) là nhà dịch thuật, là nhà phê bình hội hoạ,
Phạm
Xuân Nguyên còn khuyên chúng ta hãy lắng cùng Tường Văn Cao và xung
động Icare,
để thấy anh là một nhà phê bình âm nhạc, hãy nhìn cùng anh Vua Lear n
chiều để
thấy anh là nhà phê bình sân khấu. Và chắc chắn Dương Tường còn là một
nhà thơ.
Báo Lao Ðộng đã phỏng vấn anh: Liệu có quá nhiều "nhà" trong một ông
Dương Tường? Hay dùng một hình ảnh trong câu thơ ông (được bạn bè sửa
đi một
chữ): "những ngón tay mưa, Dương Tường trên mái", ông thích nhất ngón
tay nào của mình? Dương Tường đã trả lời : Thích nhất là ngón tay...
thơ.
Thơ. Ðấy mới là điều chủ
yếu. Ðấy mới là nghiệp
chính của anh. Ngay từ những năm 60 tôi đã thấy thơ anh khác lạ. Rõ
ràng anh
luôn tìm tòi, phăng những con đuờng mới:
Rười rượi xanh mà ai xui em bùng khói tóc Ðể tôi sai nhịp tôi tiếng tiêu buồn thổi vào đêm mộc
Và:
Những ngón tay mưa dương cầm trên mái
Những ngón tay mưa
kéo dài tai quái một nỗi nhớ
siêu hình nhạc nhoè đường xanh đêm lập thể
Một bài thơ một câu của
anh tôi đã nghe nhiều
người đọc như một tuyên ngôn của chính họ:
Ðể ghi trên mộ chí sau này Tôi đứng về phe nước mắt
Vâng. Dương Tường là rất
nhiều "nhà".
Dù đã nhiều "nhà" như thế, tôi vẫn muốn thêm vào ở anh một nhà hoạt
động văn hoá đối ngoại và một nhà văn xuôi nữa. Văn xuôi của anh tràn
đầy chất
thơ. Những người đọc sách anh dịch bao giờ cũng rất thú vị khi đọc
những trang
in ngả của anh viết lời giới thiệu ở đầu sách. Một tập tạp văn dầy 500
trang
của Tường đang chờ để ra mắt công chúng: Ai đầu tiên gọi chích choè
là chích
choè. Tên sách là tên một bài tiểu luận của anh, trong đó anh nói
lên quan
niệm của mình về thơ:
Một trong những đặc thù
của cái đẹp nơi chữ thơ,
tôi nghĩ, là sự lên ngôi của con âm thay vì con nghĩa. Hãy một lần nữa
nghe bà
cô tổ Hồ Xuân Hương của chúng ta biểu âm sự nứt ra của một động Hương
Tích:
Bày đặt khen ai khéo
khéo phòm
Cái động từ phòm
(hình như chỉ được dùng
hai lần trong thơ Hồ Xuân Hương, ngoài ra không gặp ở đâu khác) cũng
thuộc loại
từ "bịa" phi ngữ nghĩa mà biểu năng trực cảm của nó kỳ diệu đến nỗi
ai cũng hiểu tác giả định nói gì. Không có khả năng như tạo hoá "bịa"
ra, chẳng hạn, một động Hương Tích thì nhà thơ "bịa" ra chữ! Những
chữ tinh khôi tự nhiên như bản thân sự sống, vừa ra đời đã trở thành
những thực
thể.
Thi sĩ, tôi quan niệm, là
kẻ đầu tiên kéo thế
giới ra khỏi vùng khuyết danh. Mà khuyết danh có nghĩa là chưa tồn tại.
Thi sĩ
cho sự vật một cái tên mà trước đó nó chưa có -- tức là đưa nó vào tồn
tại. Ai
đầu tiên gọi chích choè, khi nó còn khuyết danh, là chích choè,
người ấy
đích thị là một nhà thơ. Loài chim ấy ắt đã có từ rất lâu trước đó,
người ta
hẳn đã nhiều lần thử đặt cho nó một cái tên nhưng không đậu và chỉ đến
khi ai
đó, trong một loé chớp thần hứng, bật thốt ra hai âm tiết chích choè
trúng pắp
không gì thay thế nổi, thì nó mới thực sự tồn tại, thêm cho trời đất
một cái gì
không chỉ đơn thuần là một loài chim.
Văn xuôi của anh là như
thế đấy. Một thứ văn
xuôi khi đọc, không cần xem tên tác giả cũng biết ngay là của Dương
Tường!
Phạm Xuân Nguyên thốt lên:
Tôi lạ lắm ông Dương
Tường. Nguyên mới quen Tường, lạ đã hẳn. Tôi chơi với Dương Tường nửa
thế kỷ
rồi mà cũng vẫn cứ lạ về anh. Người bạn nhỏ thó của tôi lấy đâu ra sức
lực và
tích tụ từ bao giờ những kiến thức cũng như khả năng làm việc như vậy?
Lại càng
lạ khi Mạc Lân nói với tôi rằng chính Dương Tường là người dắt Lân vào
con
đường bán máu. Chỉ tới cuối năm 2001, khi hai chúng tôi vào thành phố
Hồ Chí
Minh, rỗi rãi thời gian, trò chuyện tôi mới vỡ nhẽ ra được một số điều
về anh.
Vợ chồng tôi vào thành phố
Hồ Chí Minh chơi với
con gái và con rể tôi sống ở trong ấy. Tôi điện ra mời Dương Tường vào.
Vốn
"ham vui" anh mua vé máy bay vào ngay. Ðó là những ngày nghỉ tuyệt
vời. Chúng tôi để cả nửa ngày trời câu cá ở nhà Dương Thụ. Tường câu
được một
con cá quả bằng cái chuôi liềm, mặt cứ tái đi vì xúc động, vì đã câu
được một
con cá to như thế, vì nó giẫy dụa đầu cần, vì sợ nó vuột khỏi lưỡi câu
rơi
xuống ao mất. Ðó là con cá đầu tiên anh câu được trong đời. Rồi chúng
tôi đi
Long Hải chơi trò phóng máy bay trực thăng với Nguyễn Thanh Bình. Chúng
tôi
chuyện với Hồ Thu Hồng. Ăn sáng với vợ chồng nhà báo trẻ Tường Vân.
Chúng tôi
đến nhà Hoàng Hưng dự một bữa cơm do cháu Ly Hoàng Ly, con gái anh trổ
tài nấu
nướng...Những giây phút thư giãn, hoàn toàn không lo lắng suy nghĩ.
Chắc sẽ khó
có được một lần thứ hai như thế, một lần thứ hai cả hai chúng tôi cùng
vào Sài
gòn nghỉ ngơi.
Tường kể về tuổi trẻ của
anh, về những ngày anh
học lớp sixième hệ secondaire trường Louis Pasteur ở Nam Ðịnh. Rồi bỏ
học theo
bố mẹ lên Me, Vĩnh Yên vì gia đình vỡ nợ. Tham gia tổng khởi nghĩa ở
Me. Rồi về
Hà Nội học trường tư thục Nguyễn Thượng Hiền do Ðặng Thái Mai mở. Tường
cười:
-Kháng chiến mình ra học ở
vùng tự do. Học nhẩy
lớp đệ tứ. Mình thi trung học phổ thông ba lần không đỗ. Như bây giờ là
chưa
tốt nghiệp hệ lớp bẩy. Năm 1950, 18 tuổi mình đi bộ đội.
- Thế ông lấy đâu ra vốn
ngoại ngữ như vậy?
-Ông quên mất trận đánh
đồn Hói Ðào tôi đã kể
cho ông à? Chiếm được đồn, anh em tìm chiến lợi phẩm. Còn mình tìm
sách. Vớ
được quyển " À l'Ouest rien de nouveau " (Phía Tây không có gì lạ)
thế là đọc. Ông có biết không, khi thấy "Phía Tây không có gì lạ" ở
phòng thằng đồn trưởng mình mới hiểu vì sao đánh cái đồn này dễ thế.
Tường cười, nói tiếp:
-Ðánh đồn nào mình cũng
tìm sách. Trong ba lô bộ
đội bao giờ cũng có hai quyển từ điển nặng trịch, một tiếng Anh, một
tiếng
Pháp, dù hành quân mang nặng đến đâu cũng không vất bỏ. Vừa đánh nhau
vừa đọc
vừa học. Thế là mình nâng dần được trình độ. Về nhạc, hoạ, sân khấu
cũng là do
mình chơi với Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Ðình Nghi, với bè bạn các
ngành.
Chơi và học họ. Rồi suy nghĩ, đọc thêm sách...
Vậy là bí quyết của anh
quá giản đơn: Không
ngừng học. Học trong sách vở. Học trong bè bạn anh em. Học cả đời.
Tường đã nói
Tường muốn làm việc khó, làm cái gì hơn mình một tí, như người phải
kiễng chân
từng mi-li-mét để nâng trình độ mình lên. Sực nhớ đến Mạc Lân, tôi hỏi:
-Ông Lân ông ấy bảo tôi là
chính ông...
Tường hiểu ngay điều tôi
định nói:
- Chuyện bán máu ấy à? Tôi
là thằng bán máu đầu
tiên trong số anh em mình. Không ai giới thiệu cả. Tình huống những năm
64, 65
ông biết là khó khăn thế nào rồi. Tôi còn nhớ giỗ ông nội tôi mà cả nhà
chỉ còn
tiền mua rau, không thể nào kiếm được mấy lạng thịt chui làm giỗ. Ðang
bí thì
gặp ông Ngô Quốc Hạnh, bạn mình. Hạnh làm giám đốc Sở Công Thương thành
phố Hà
Nội. Hạnh cho một cái phiếu mua vịt. Mừng quá đem về đưa Trinh. Thế là
có giỗ.
Ông bố mình lúc bấy giờ còn sống. Cụ cứ cám ơn Hạnh mãi. Cả năm sau vẫn
thấy cụ
nói: Anh Hạnh tốt thật đấy. Thì giỗ bố cụ, cụ không nhớ ơn sao được.
Tình thế
mỗi ngày một căng. Khó khăn quá. Tôi có nghe người ta nói chuyện bán
máu. Nghĩ
hay là cứ thử xem sao. Tôi vào bệnh viện Việt Ðức tìm hiểu. Ðúng vào
cái hồi
tôi xuống ông, gặp ông Hiên cũng đưa cả gia đình xuống, rồi chúng tôi
đi nghỉ
Ðồ Sơn, sau đợt ấy về là bắt đầu đấy. Tôi đội cái mũ sùm sụp để không
ai nhận
ra mình. Vào bệnh viện quan sát. Thấy cũng không có gì ghê gớm, mình
làm được.
Thế là hôm trước thăm dò, hôm sau vào đăng ký bán máu luôn. Hôm bán máu
phải
nhịn ăn, chỉ uống cà phê sữa thôi. Máu của tôi thuộc nhóm máu O, nhóm
máu xã
hội chủ nghĩa được chuộng lắm. Số cân của tôi chỉ được bán 150 cc thế
mà đề
nghị bán 200cc cũng gật đầu ngay tắp lự. Ðược tiền và được nhiều phiếu
lắm.
Thịt, đường, sữa, đậu. Ra cổng các ông bà phe xúm lại hỏi mua phiếu.
Ông Lân
bán phiếu chứ mình không bán. Mình cầm về đưa cho bà Trinh mà chưa biết
giải
thích nguồn gốc mấy cái phiếu ra sao. Sực nhớ đến Ngô Quốc Hạnh đã một
lần cho
phiếu mua vịt, mình bảo: "Anh Ngô quốc Hạnh cho phiếu đây này." Lần
sau cũng lại anh Ngô Quốc Hạnh cho phiếu đây này. Ngô Quốc Hạnh biến
thành
tiên, thành bụt ở nhà mình. Ông bố mình càng nhắc chuyện năm nọ không
có anh
Hạnh cho cái phiếu mua vịt thì nguy, mấy bố con không làm nổi cái giỗ
cho cụ.
Ðưa tiền cho bà Trinh dễ hơn đưa phiếu, cứ nói đại là tiền nhuận bút,
mặc dù
dạo ấy có được in gì đâu mà có nhuận bút.Về sau những lúc khó khăn quá
bà ấy cứ
giục mình: "Anh đến anh Hạnh xin ít phiếu đi." Có lần bí quá mà còn
hai tuần lễ nữa mới đến kỳ bán máu, tôi than thở với Lê Phát. Ông có
nhớ Lê
Phát không nhỉ. Lê Phát đài Tiếng Nói Việt Nam
cùng dịch Sê-khôp với tôi. Lê
Phát bảo: "Thằng trưởng phòng huyết học là bạn tôi. Ðể tôi viết thư cho
nó." Tường cười. Anh vừa cười vừa thuật lại câu chuyện "đáng buồn
cười" cách đây non nửa thế kỷ ấy. Tối hôm ấy anh cầm thư giới thiệu của
Lê
Phát tới nhà ông trưởng phòng huyết học. Ðọc thư tiến cử của Phát, ông
trưởng
phòng gật đầu xởi lởi:
-Ðược. Sáng mai anh đến.
Tôi sẽ bảo chúng nó ưu
tiên lấy nhiều cho anh.
Ðó là lần Tường bán được
nhiều nhất: 280cc! Ðại
thắng trở về đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Lê Phát đã đứng chờ ở cổng,
hồi hộp:
-Ðược không?
Tường ăn mừng thắng lợi
với Phát bằng một bữa
bia hơi Cổ Tân. Phát hai vại. Tường một vại. Uống xong, Phát nói một
câu xanh
rờn làm các bàn bia khác cùng quay cả lại:
-Hôm nay tao uống máu
thằng Tường!
Bán máu thành công, Tường
nghĩ ngay đến Mạc Lân.
Mạc Lân bán được. Bán đều. Thừa thắng xông lên, Tường kéo Châu Diên đi.
Nhưng
đến Châu Diên thì thất bại. Máu Châu Diên không đông. Mới chọc kim lấy
máu để
thử, rút mũi kim ra máu đã chẩy đầy bắp tay, chẩy xuống nền nhà lênh
láng đỏ
lòm. Mọi người nhìn vào đều sợ. Châu Diên hoảng, vớ vội nắm bông băng
chạy vào
nhà vệ sinh cho khuất rồi băng ở trong ấy. Thế là chúng tôi chuyện về
Mạc Lân,
về Châu Diên, về những công việc phải làm sau khi ra Bắc. Tường bảo:
-Kỳ này về phải tập trung
làm cho dứt điểm
"Cái trống thiếc". Dạo này tốc độ làm việc không được như trước. Chậm
đi. Sức khoẻ yếu rồi. Bẩy mươi, sắp bẩy mốt rồi. Lại qua bao gian khổ.
Làm gì
không yếu đi. Làm được thế đã là tốt lắm. Tôi muốn nói với Tường như
vậy. Nhưng
tôi bảo anh:
- Ừ. Cố lên. Mình thấy ông
đánh vật với nó cũng
lâu rồi đấy.
Tôi biết để có thể ngồi
dịch Grass, Tường đã mất
biết bao thời gian. Anh làm việc với nhà xuất bản, anh liên hệ với
Grass, với
đại sứ quán Ðức tại Việt Nam.
Anh xin tiền tài trợ để có thể trả bản quyền cho Grass theo đúng luật
xuất bản,
một số tiền vài trăm Ðê Mác hoàn toàn mang tính tượng trưng. Và anh
dịch. Anh
cặm cụi trước cái máy vi tính xách tay Dell mới tinh giá 2500 đô mà
Nguyễn
Thanh Bình gửi từ thành phố Hồ Chí Minh theo đường bưu điện ra tặng
anh. Công
việc trôi chẩy. Nhưng nhà anh quá nhiều khách, quá nhiều bạn. Nên làm
cứ bị
ngắt quãng. Thế là Trọng Khôi, chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu cảm cái
tình anh
đã đóng góp với hội về "cái vụ sân khấu Việt-Mỹ", kéo anh lên Tam Ðảo
dự trại sáng tác kịch bản sân khấu để anh... dịch Grass. Anh là người
trại viên
nghiêm túc nhất, lúc nào cũng ngồi trước máy vi tính. Cả trại nhiều khi
kéo
nhau đi dã ngoại, chỉ có một mình anh xuống nhà ăn với một suất cơm.
Một tháng
trời, được thêm 200 trang. Bế mạc trại, anh về nhà. Lại kém hiệu quả
...
Tường bay ra trước tôi.
Khi về Hải Phòng, gọi
điện lên cho anh, tưởng anh đang ở Hà Nội thì đầu dây bên kia tiếng
Trinh, vợ
anh:
- Anh Tấn đấy à. Anh Tường
em đi lên trại sáng
tác Ðại Lải rồi. Ði từ mồng 1 đầu tháng cơ. Giáp tết mới về.
Tôi biết vào cái tháng
chạp rét đại hàn chi cực
này chắc chắn Hội Nhà văn không mở trại sáng tác. Anh nộp tiền ăn và tự
giam
mình cô đơn một mình một bóng trong một căn buồng ở Ðại Lải, dốc sức
làm việc.
Dù giáp tết, người ta tất bật, đâm sấp dập ngửa với bao công việc lo
toan. Dù
nhiệt độ xuống từ 8 đến 13 độ kéo dài cả tháng. Với lại cho dù có ở nhà
vị tất
anh đã giúp vợ con được việc gì. Anh là người lơ lửng trên mây, ngu ngơ
vụng về
với mọi thứ của đời thường, là người của một thế giới tinh thần, nói
đúng hơn
luôn đắm mình trong nghệ thuật, "đi vắng ngay cả khi đang có ở nhà"
như Châu Diên nói. Tôi biết vợ anh đã phải sắc thuốc bắc cho anh, để
anh tăng
thêm sức khoẻ, để anh im lặng đánh vật với từng con chữ. Dịch cả ngàn
trang sách
đâu phải dễ dàng gì. Một công việc cực nhọc. Tường luôn làm những cái
gì hơn
mình một tí. Anh lại đang kiễng chân từng mi-li-mét. Từ bôn tập hành
quân, đeo
thêm quyển từ điển đi hết chiến dịch này tới chiến dịch khác thời chống
Pháp
cách đây hơn nửa thế kỷ. Ðến thập niên 60 hoà bình nhưng còn căng thẳng
hơn
thời chiến tranh, đe doạ cả an toàn cuộc sống. Và trong sáng tác, dịch,
phê
bình nghệ thuật. Ngay bán máu cũng cố bán vượt chỉ tiêu một ít xê xê.
Bây giờ
là vượt lên sức khoẻ, tuổi tác. Vượt lên. Phương châm sống của cả đời
anh.
Cho nên chơi với anh đã
nửa thế kỷ, lúc nào tôi
cũng rất sung sướng khi nói:
-Tôi là bạn của ông Dương
Tường. Như bà Lorrelle
Browning đã nói cùng tôi.
Mùng 3 Tết Nhâm Ngọ 13 - 2
- 2002
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
Rừng xưa
xanh lá
(kỳ 3)
(kỳ 3)
Thời gian gấp ruổi
Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi...
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi...
Quang Dũng
Trong một lần tới thăm
Nguyễn Khải tại thành phố
Hồ Chí Minh, đang vui câu chuyện, tôi hỏi anh có biết Mạc Lân không.
Hỏi để mà
hỏi. Hỏi vì câu chuyện đang xoay quanh thế hệ những người cầm bút chúng
tôi
trước và sau hoà bình 54. Tôi không nghĩ rằng Khải biết Lân, vì Lân
chưa một
ngày ở Văn nghệ Quân đội. Và cái tên Mạc Lân chỉ xuất hiện duy nhất có
một lần
trong một tập sách mỏng mà từ lâu người ta đã quên nó. Thật không ngờ,
Nguyễn
Khải trả lời:
- Biết chứ. Sao không
biết. Mạc Lân. Lê Mạc Lân.
Con cả Lê Văn Trương. Chí lớn và tính nết ngang tàng lắm. Khi anh ấy ở
quân khu
tôi còn đang ở tỉnh. Anh ấy phải hơn tuổi tôi. Không biết dạo này ra
làm sao.
Có khoẻ không.
Tôi kể cho Khải nghe những
thông tin mới nhất về
Lân. Có một chuyện vui:
-Lâu lâu không thấy tôi
gọi điện lên, ông Lân
ông ấy lại gọi xuống tôi, ông ấy bảo: Sao ông không gọi điện cho tôi,
ông sợ
đau hào à. Tôi bảo không phải sợ đau hào đâu mà chán lắm ông ơi. Tôi có
cảm
giác ai đó đang nghe câu chuyện của chúng mình nên tôi không muốn gọi.
Ông ấy
gắt: Ai nghe. Ông cứ thần hồn nát thần tính. Ð. mẹ thằng nào nghe trộm.
Ðấy.
Tôi chửi rồi đấy. Ông cứ nói đi.
Chúng tôi cùng cười. Khải
bảo:
-Tính nết vẫn y như thế.
Tôi thống kê những bệnh
tật Lân mang trong
người. Nhồi máu cơ tim hơn 20 năm , từ năm 1982 đến nay, sỏi thận, tiểu
đường,
hai lần gẫy chân nhưng lại phải mổ ba lần...Khải lắc đầu sợ hãi. Không
chỉ
Nguyễn Khải. Ai biết bệnh của Lân đều sợ. Nhưng Lân là người kiên
cường. Rất
kiên cường chiến đấu với bệnh tật cũng như kiên cường sống. Ðến nhà
Lân, một
căn hộ cấp 4 ở khu tập thể ngoại thành, nhìn anh nặng nề ngồi dậy, nặng
nề cà
nhót cà nhắc ra bàn nước pha nước, tôi không thể không nhớ đến những
ngày chúng
tôi mới quen nhau, những ngày sau hoà bình 54, khi tôi 20 tuổi còn Mạc
Lân 26
tuổi. Một Mạc Lân trẻ trung, cao to, sôi nổi, yêu đời, huy hiệu Ðiện
Biên sáng
ngực áo. Một Mạc Lân kể chuyện văn công lên Ðiện Biên phục vụ tận chiến
hào,
con Hồng Ngọc nó hát bài Qua miền Tây Bắc như thế này này. Và
cao hứng
Lân hát. Lân bắt chước cô văn công Hồng Ngọc nào đó hát. Cái giọng
thuốc lào,
ống bơ rỉ của Lân rè rè cố bắt chước cô Hồng Ngọc làm chúng tôi không
nín được
cười. Hôm nay nhìn ông già ngoài bẩy mươi tuổi bạn tôi nét mặt sáng
ngời lên vì
có bạn đến thăm, tôi hiểu được thế nào là thời gian, thế nào là cuộc
đời. Tôi
đọc Mai-a-kôp-xki, những vần thơ thời tuổi 20 chúng tôi thường hay đọc
để nói
về nhau:
Dáng anh đi cao lớn thiên tài Từng bước một trong đầu em nổi sấm
Và Lân đọc tiếp với giọng
hào hùng của một chàng
trai ngày trước:
Nhưng vẫn vô công không tài nào anh cướp được em đi Ông vua An-be đã mất mọi thành trì
Cũng nhiều của hơn tôi nhiều lắm
Một cách đọc của Lân. Vẫn
là Mai-a. Nhưng anh đã
lắp đoạn này vào đoạn khác. Có hề chi. Miễn là những vần thơ ấy làm
chúng tôi
trẻ lại, làm chúng tôi sống lại quãng thời gian đẹp nhất của chúng tôi.
Hơn nữa
nếu bây giờ mà có một ông vua An-be bất hạnh nào đó đã mất mọi thành
trì thì
đúng là ông ta cũng vẫn giầu hơn Mạc Lân rất nhiều. Tôi nói cho Lân
nghe những
đêm ít ngủ của tuổi già, tôi nằm tổng kết lại cuộc đời mà thấy rằng
những ngày
chúng tôi ở báo Tiền Phong với nhau là những năm tháng đẹp nhất. Lân
cũng đồng
ý với tôi như vậy:
-Nhớ lắm ông ạ. Một cảm
giác đau như nhớ lại
những ngày thơ ấu. Ðúng là một cảm giác đau.
Ngày ấy tôi mới bước vào
đời. Tôi mới 20 tuổi...
Sau tiếp quản Thủ Ðô,
khoảng tháng 12 năm 1954,
đơn vị thanh niên xung phong chúng tôi có ba người được chuyển về báo
Tiền
Phong: Vũ Lê Mai, Lê Thị Tuý và tôi. ít ngày sau từ bộ đội lại chuyển
về ba
người nữa: Mạc Lân, Tất Vinh và Vũ Lê. Rồi tiếp theo là Nguyễn Trí
Tình, Vũ
Công Luận, Mai Cát, Văn Kim Kim, Phan Mai... Tất cả đều còn rất trẻ.
Ðội ngũ
phóng viên Tiền Phong lúc đó chưa ai tới 30. Chỉ có Mạc Lân là lớn tuối
nhất:
26 tuổi. (Tôi không kể Vũ Lê, vì chỉ nửa năm sau, khi hoàn tất việc tập
kết
quân đội 300 ngày, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Vũ Lê chuyển về Hải
Phòng,
nhóm bộ đội chỉ còn Mạc Lân, Tất Vinh.) Ðó là một lớp thanh niên tuyệt
vời, có
học thức, có khát vọng, có lý tưởng, có nhiệt tình, sẵn sàng hoàn thành
mọi
nhiệm vụ và tràn đầy niềm vui sống, niềm vui làm việc. Tiền Phong là
một tờ báo
có uy tín lúc đó và phóng viên Tiền Phong luôn được bạn đồng nghiệp các
báo
kính nể. Ở Tiền Phong tôi đã được hưởng niềm sung sướng của người lần
đầu tiên
được đọc tin của mình viết in trên báo, sự xúc động đến lặng người khi
giở báo
ra thấy bài phóng sự của mình chạy dài ba cột , chiếm cả góc trang báo.
Chúng
tôi không được dự một lớp đào tạo nghiệp vụ nào.Chúng tôi học nghề chủ
yếu qua
những buổi sinh hoạt rút kinh nghiệm trong nội bộ cơ quan, phân tích ưu
khuyết
điểm hàng tháng hàng quý. Riêng tôi, tôi đọc thêm. Ðọc báo và đọc cả
truyện.
Không chỉ đọc. Tôi còn đóng một quyển sổ, ghi chép, phân tích những
sáng tác
mình đang đọc.
Khi mới về báo Tiền Phong,
thấy trong tủ sách cơ
quan có một tập truyện viết về Ðiện Biên Phủ, lập tức tôi chiếm giữ nó,
cất
trong ngăn kéo. Ðó là tập Bảo vệ đường lên mặt trận của Hồ Phương, Mạc
Lân, Ðại
Ðồng, tập sáng tác duy nhất cho đến lúc đó viết về Ðiện Biên, một tập
sách được
giải thưởng trong cuộc thi sáng tác về Ðiện Biên Phủ, gần như cùng với
quân đội
ta tiến vào tiếp quản Thủ đô, bởi vì lúc đó Trần Dần còn chưa viết dòng
đầu
tiên của bộ tiểu thuyết Người người lớp lớp. Tôi ghi chép, tôi phân
tích, tôi
ghi vào sổ tay những điều sẽ giúp ích cho tôi trên con đường làm báo và
sáng
tác sau này. Dễ hiểu rằng khi Mạc Lân về cùng làm phóng viên, tôi thân
thiết và
quý trọng anh ngay. Một tình bạn có thể gọi là vong niên được, dù cùng
trong
tuổi 20. Giờ đây khi đã trên dưới 70, chênh nhau 6 tuổi chẳng đáng kể
gì, nhưng
ngày ấy một người 20 và một người 26 tuổi, khoảng chênh lệch quả là rất
lớn.
Hơn hẳn một phần ba thời gian mình đã sống đâu phải chuyện đùa. Mà
không phải
chỉ là năm tháng. Hơn tôi 6 tuổi, có nghĩa là Lân bắt gặp cách mạng
đúng vào
tuổi trưởng thành. Khi tôi còn ở Nhi đồng cứu vong hội, còn đang đẽo
súng gỗ,
đánh trận giả, đánh trống cà rùng và hát Nhanh bước nhanh nhi đồng
thì
anh đã tham gia cướp chính quyền ở Thủ Ðô, đã đi Nam tiến, người anh đã
nhuốm
mùi lửa đạn. Trong tập Chi Ðội 3 Giải phóng quân Nam
tiến của Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam
do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000 có một đoạn viết về
một
trận đánh ở Phan Rang như sau:
Kế hoạch tiến công nhà Công sứ, dinh luỹ cuối cùng của
bọn Nhật lúc bấy giờ
nghe có vẻ quy mô: Toàn bộ lực lượng vũ trang và phục vụ các nơi dùng trống, chiêng, thùng, chậu...gây tiếng động lớn để uy hiếp tinh thần địch, đồng thời đẩy "đại bác" vào chiếm lĩnh trận địa, ngắm thẳng vào tường chính diện toà Công sứ. Dự kiến bắn khoảng 20 phát, tạo một lỗ hổng to rồi lăn hai phuy xăng vào phóng hoả, tạo điều kiện cho quân ta xung phong.
Một vài cán bộ và chiến sĩ suy nghĩ và lo lắng kế hoạch khó thực hiện nhưng không ai có chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu nào hay hơn, vũ khí cũng chỉ có vậy.
Ngày bao vây toà Công sứ
cuối cùng, Lê Văn Lân
(tức Thuận Lân) một chiến sĩ của trung đội Nguyễn Tiệp đang bắn kiềm
địch thì
tiểu đội trưởng Lê Văn Cử (tức Thái) phái đi rỡ cọc rào có chằng dây
thép gai,
để chuẩn bị cho đơn vị có đường xuất kích. Bọn Nhật từ trên cao phát
hiện. Một
tràng liên thanh bắn làm cho Thuận Lân bị thương. Nhanh như cắt, Lê
Chân, một
chiến sĩ cùng tổ đã xông ra vác bạn trên vai, chạy ẩn vào mép tường.
Các đồng
chí Phấn và Hạnh hai nữ cứu thương băng bó cho Lân và đưa về hậu
phương, sau đó
về bệnh viện nơi sơ tán ở gần Cầu Mống (nay thuộc phường Bảo An) gần
Tháp Chàm.
Mấy phút sau Cử vào "lỗ" bắn của Thuận Lân, mới bắn được một phát đã
bị bọn Nhật bắn trúng mắt và khiêng về bệnh viện thì hy sinh. (Sách đã
dẫn,
trang 121, 122). Cũng ở trang 122 có chú thích như sau: Thuận Lân tức
Lê Văn
Lân hiện ở nhà A5, phòng 102, khu tập thể Liên Cơ Dịch Vọng Hà Nội. Lê
Văn Lân
chính là Mạc Lân. Ðó là tên khai sinh của anh. Lớn lên, anh thay chữ
Văn đệm
giữa bằng tên người anh yêu quý. Thuận là tên một cô bạn học mà anh yêu
vụng
dấu thầm suốt thời gian anh cắp sách tới trường. Ngày ấy anh là Lê
Thuận Lân.
Sau này vào bộ đội, một đồng đội thân thiết của anh tên Mạc hy sinh,
anh có tên
Lê Mạc Lân. Trận Thuận Lân bị thương vừa kể là trận đánh tại Phan Rang,
tháng
11 năm 1945, thời cách mạng còn đang trứng nước. Ðơn vị Nam tiến của
anh đã sớm
có mặt tại mặt trận Sài gòn, đánh địch ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, Phan
Thiết,
Phan Rang, Nha Trang, Buôn ma thuột...
Bị thương, Lân trở về Hà
Nội, thành phố của thời
thơ ấu, của tuổi học trò, thành phố anh đã gia nhập đoàn Thanh niên Cứu
quốc,
tham gia tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền. Hà Nội khi Lân từ Phan Rang
trở ra
giống như một thùng thuốc súng. Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng phát
bất cứ
lúc nào và cuối cùng đã bùng phát. Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã
nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì
chúng
quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không, chúng ta thà hy sinh tất cả
chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Lân tham
gia bộ đội
Thủ đô với chức vụ tiểu đội trưởng. Anh lại cùng đồng đội đào giao
thông hào,
dựng chướng ngại vật và cầm súng chiến đấu giữ từng góc phố, từng mét
vỉa hè Hà
Nội. Ðánh nhau ở phố Huế, Ô Cầu Dền, đê Thanh Lương. Chiến đấu ở Trại
Vệ quốc
đoàn trung ương (trước cửa rạp Majestic). Ðánh vào toà Ðại sứ Pháp, lúc
đó là
nhà đại tá La-mi, trưởng phái đoàn Liên Kiểm Pháp, viên sĩ quan Pháp có
vinh dự
được có mặt trong một bài thơ Việt Nam, bài Hải Phòng 19-11-1946,
kiệt
tác của Trần Huyền Trân:
Miệng La-mi ngọt bên
tiếng súng
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Ðầu năm 1947, quân ta rút
khỏi Thủ Ðô, bắt đầu
cuộc trường kỳ kháng chiến. Lân đã là cán bộ đại đội. Anh được kết nạp
Ðảng và
đi học lớp bí thư chi bộ. Rồi làm phái viên kiểm tra của bộ tư lệnh
quân khu.
Năm ấy anh mới 19 tuổi. Ðồng chí phái viên kiểm tra của quân khu này
không chỉ
quá trẻ, mà còn có tác phong lính tráng xuề xoà, hay kể chuyện tiếu
lâm, hứng
lên còn kể cả chuyện cô đầu Khâm Thiên, theo nhận xét của trên rõ ràng
không
thích hợp với công tác kiểm tra. Ông Văn Phác bảo Lân:
-Thôi, cậu về làm báo.
Thì làm báo. Ðó cũng là
nguyện vọng vủa anh. Về
tờ Vệ quốc quân khu 2. Gặp Yên Thao, Văn Thân, Nguyễn Phúc Nghiệp ở đó.
Ít lâu
sau khu 2 sáp nhập với khu Tả Ngạn thành Liên khu 3, Lân về báo Quân
Bạch Ðằng
của quân khu 3. Liên miên những ngày đi chiến dịch: Quang Trung, đường
6, Hà Nam
Ninh... Và
vào địch hậu. Rồi theo một đơn vị pháo binh lên Ðiện Biên phủ. Tập Bảo
vệ đường
lên mặt trận là kết quả của bao ngày đêm cùng đơn vị pháo ăn bom trên
đèo Lũng
Lô, mưa dầm cơm vắt, mịt mù khói lửa, cái sống cái chết chỉ trong gang
tấc...
Chiến dịch Ðiện Biên kết
thúc thắng lợi. Một nửa
đất nước hoàn toàn giải phóng. Cha anh, nhà văn Lê Văn Trương di tản
vào Sài
gòn. Cái gánh nặng lý lịch anh mang suốt thời gian kháng chiến giờ đây
càng
nặng nề hơn. Cấp trên mời anh lên nói anh sẽ được xuất ngũ. Trần Dần
biết tin
ấy, nhắn gọi Lân về phòng Văn nghệ Quân đội, nhưng Lân không về. Chính
anh cũng
muốn rời quân ngũ dù phải phục viên như người bạn Tạ Phương Hiển "tuổi
hăm
ba treo ấn từ quan" cũng được. May sao ông Trương Công Cẩn, chính uỷ sư
đoàn là người có trách nhiệm và thông cảm với anh em văn nghệ sĩ, viết
thư cho
ông Nguyễn Lam khi đó là bí thư trung ương đoàn Thanh Niên Cứu quốc:
"Ðây
là những đồng chí có công nhưng cấp bậc thấp vì chính sách đối với văn
nghệ sĩ
của chúng ta chưa rõ ràng, nhờ đồng chí giúp đỡ tạo điều kiện cho các
đồng chí
ấy công tác bên đoàn thể, dân sự..." Thế là Mạc Lân, Tất Vinh, Vũ Lê về
báo Tiền Phong, Dương Tường về Việt Nam Thông tấn xã. Những bộ quân
phục cùng
với những huy hiệu Ðiện Biên của các anh làm sáng cả cơ quan báo, càng
thêm sức
hút đối với những thông tín viên, cộng tác viên khi họ đến toà báo.
Cũng xin
nói thêm một chút về những bộ quần áo đại quân này. Chỉ có Mạc Lân, cán
bộ đại
đội (anh ở cái cấp bậc này suốt 8 năm trường kỳ kháng chiến, từ năm
1947 tới
năm 1954) là có áo bốn túi, hai túi trên ngực và hai túi dưới vạt. Còn
Tất
Vinh, Vũ Lê cán bộ trung đội, Dương Tường cán bộ tiểu đội thì áo chỉ có
hai túi
ngực và vai áo can vá thêm hai miếng để mang vác áo vẫn bền, không
rách, loại
áo Phùng Quán đã viết thành thơ:
Nhưng áo tôi nàng không
mặc được
áo lính vá vai xanh mầu quân phục
áo lính vá vai xanh mầu quân phục
*
Ngày mới về Tiền Phong,
Lân được làm trưởng ban
Văn Nghệ nhưng phải nói rằng cái chức ấy chẳng có sức hấp dẫn chúng
tôi, kể cả
chính Lân. Ðiều hấp dẫn chúng tôi là lao vào cuộc sống, lao vào thực
tế, vừa
viết được những bài đặc sắc cho báo vừa tích luỹ cho sáng tác văn
chương sau
này. Vũ Lê Mai đi sâu vào công nghiệp, Nguyễn Trí Tình rực lửa anh hùng
sẵn
sàng đến tất cả những mũi nhọn của công cuộc xây dựng. Văn Kim Kim với
vốn
Trung văn giầu có, áp cặp kính cận xuống những tạp chí Trung Quốc,
dịch, lấy
tài liệu viết về những hoả tiễn, những loại máy bay đời mới và mục Khoa
học và
Tuổi trẻ của anh bao giờ cũng hấp dẫn bạn đọc. Tôi đi về nông thôn, hết
nghiêng
sông đổ nước vào đồng (chống hạn) lại nghiêng đồng đổ nước ra sông
(chống úng).
Nhà báo già nhất cơ quan khi đó, anh Vương Mộ Thanh, bố hoạ sĩ Ðỗ Phấn
sau này
(ngày ấy Ðỗ Phấn bé tí hin, tôi hay bế Ðỗ Phấn đi chơi và dạy Phấn
những điều
ba lăng nhăng nhất, như chân thì gọi là đầu, đầu thì lại là đít, và tên
cháu là
gì? là Ông Bách Khoa, khiến anh chị Mộ Thanh phải van các chú, các chú
đừng dạy
cháu như thế nữa) cũng như trẻ lại với chúng tôi. Mạc Lân, Tất Vinh
cùng ở tổ
văn nghệ. Dễ hiểu rằng các anh phải cáng đáng những phần việc nặng nề
nhất cho
những số đặc biệt, nhất là số báo Tết: Thơ và truyện ngắn. Thơ cũng
không khó.
Tất Vinh có thể đi đặt được. Vỡ kế hoạch thì chính anh sáng tác. Nhưng
không
chỉ có vậy. Còn tuỳ bút, còn điểm thơ. Và Mạc Lân còn phải đẻ ra truyện
ngắn.
Chúng tôi, cánh trẻ mới vào nghề nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của
mình cho
số báo Tết một cách rất nghiêm túc và nộp bài cho biên tập. Và khi
đường phố đã
lác đác hoa đào, mậu dịch đã xe về cửa hàng những mứt, những rượu,
những lá
dong, gạo nếp và lòng người ai cũng náo nức cả lên, thì trong bữa cơm
tập thể,
đồng chí tổng biên tập nói lời cuối cùng: Tất cả bài đã đầy đủ, chỉ còn
thiếu
của tổ văn nghệ. Tối nay cứ làm ma-két và đầu giờ sáng mai, hai đồng
chí ban
văn nghệ phải có bài. Ðấy là thời hạn chót.
Ðồng chí nói vẻ nghiêm
khắc nhưng không có ý gì
bực bội. Ai cũng biết sáng mai tổ văn nghệ sẽ nộp đủ bài. Ai cũng biết
"hai ông tướng văn nghệ" là cứ phải nước đến đít mới viết được ra.
Ðêm ấy Lân, Vinh thức khuya, hẳn rồi. Tôi chong đèn ra sân chơi bóng
bàn. Ðã
khuya, anh em đã mệt, đi nghỉ cả, tôi ghé lên gác nhìn hai anh đang
miệt mài
cặm cụi. Cả hai cùng quay mặt vào tường im lặng viết, nhưng khi tôi lên
các anh
biết ngay. Mạc Lân quay ra nhìn tôi cười. Anh gọi Tất Vinh:
-Vinh. Nghỉ đã. Ði uống cà
phê.
Tất Vinh đứng lên, khoái
chí ngâm nga mấy câu
thơ cửa miệng tả vẻ đẹp của người con gái bằng những vật dụng ăn uống
phổ thông
dễ hiểu nhất:
Môi em mọng đỏ cà chua.
Mắt em ngọt kẹo vừng kẹo lạc.
Em cười dòn phàn xôi, phá sa.
Mắt em ngọt kẹo vừng kẹo lạc.
Em cười dòn phàn xôi, phá sa.
Ðó là dấu hiệu các anh
đang làm việc có kết quả.
Ba chúng tôi đi bộ ra phố Huế. Ra phố mới thấy rét. Gió đã hẳn. Còn
sương.
Ðường phố vắng. Lá khô lăn dưới lòng đường, trên vỉa hè. Chúng tôi ôm
lấy nhau
đi. Ba chàng phóng viên Tiền Phong chưa vợ cảm thấy cuộc đời sao đáng
yêu đến
thế. Chúng tôi uống cà phê vỉa hè. Ông cà phê vỉa hè ngã tư Hàm Long
phố Huế
hình như bán hàng suốt đêm. Hàng ông lúc nào cũng đông khách. Càng rét
càng
đông. Bởi vì các quán cà phê vỉa hè khác người ta thường pha cà phê bít
tất
nghĩa là cho cà phê vào túi vải rồi đem ninh lên. Còn ông, ông pha phin
theo
kiểu Pháp. Cốc đựng cà phê đặt vừa trong một cái ống bơ sữa bò có nắp
đậy, có
quai giây thép quấn vải cầm cho đỡ nóng. Khách hàng mỗi người một phin,
một ống
bơ, quây quanh cái bếp lò than quả bàng. Chung quanh bếp và ngay trên
những hòn
than miệng bếp, chen sát nhau là những ống bơ đen khói đựng nước lúc
nào cũng
sôi sùng sục để làm nóng cà phê theo lối cách thuỷ. Ngồi dưới sương rơi
buốt
vai, buốt lưng nhưng da mặt ửng hồng, rát lên vì lửa, huơ huơ hai bàn
tay quanh
bếp, xì xụp thứ cà phê nóng bỏng đậm đặc bắt môi bắt lưỡi, vai chen vai
dù
không quen biết, dù rì rầm câu chuyện hay yên lặng, khách hàng cũng
hoàn toàn
hiểu nhau. Nhấc lên đặt xuống cái ống bơ, lấy kẹp gắp một hòn than đặt
đúng chỗ
cho ngọn lửa lên vừa phải, cho ống bơ của mình không bị cập kênh, lấy
một cái
đóm giấy lách vào khe than hồng rồi mồi lên điếu thuốc, im lặng nhả
khói, mọi
người cùng hưởng những giây phút thư dãn tuyệt vời quanh bếp lửa. Ông
chủ hiệu
cũng hoàn toàn yên lặng. Ông chỉ nói khi phải tính tiền với khách. Và
giọng nói
của ông. Ðúng là giọng nói của người quanh năm ngồi bên bếp lửa. Nó có
mùi
khói. Nó ngàn ngạt khê khê, ấm áp vô cùng. Ba chúng tôi đứng lên. Rời
xa bếp,
rét. Chúng tôi lại khoác vai nhau. Vẫn im lặng. Chỉ có tiếng lá khô gió
thổi
lăn dưới lòng đường, lăn trên vỉa hè. Bỗng Lân reo lên:
-Tao nghĩ ra được cái kết
của truyện rồi. Cô gái
sang đò về đến đầu làng thì trời đã tối. Cô leo lên bờ đê và thấy sao
đã mọc.
Càng nhìn lâu càng thấy nhiều sao. Những ngôi sao như những hạt ngô mẹ
tẽ ra phơi
nắng ngày mùa.
*
Cái truyện ngắn số báo Tết
ấy cũng như tất cả
các bài trên báo khác của Mạc Lân đều ký tên Hoàng Hoan. Hình như đó là
cái tên
đã được đặt trước cho con anh dù nó chưa sinh, dù nó là trai hay gái.
Về Tiền
Phong ít lâu Mạc Lân lấy vợ. Sinh cháu gái Hoàng Hoan. Mặc dù Lân đã
chạy sang
hàng ngũ có vợ có con nhưng cánh chưa vợ chúng tôi vẫn cứ coi anh như
một thành
viên. Chúng tôi xem vợ chồng anh tắm cho cháu. Chúng tôi quây quanh
Hoàng Hoan
reo hò động viên Hoàng Hoan tênh tênh. Bật cười khi thấy Lân với cái cù
dìa bột
chạy theo cháu ép cháu ăn và cằn nhằn:
-Tao nuôi mày thế này mà
mày ngày sau lại cứ em
yêu nhất anh.
Và khi cháu bốn năm tuổi,
chúng tôi có xoa đầu
vuốt tóc Hoàng Hoan thì Hoàng Hoan hất tay chúng tôi ra, nói với giọng
con nít
gần như nhăn nhó:
-Ðầu để nghĩ. Không phải
để xoa.
Tất cả chúng tôi cười ầm.
Hoàng Hoan cũng cười
toe toét. Mạc Lân sung sướng xốc con lên vai đi quanh phòng:
-Ðúng. Ðầu để nghĩ! Con
gái bố giỏi lắm. Ðầu để
nghĩ.
Mạc Lân muốn con bé con có
cái đầu không phải để
xoa, mà có cái đầu để nghĩ. Và tất nhiên, cái đầu của anh cũng là để
anh suy
nghĩ. Nói đúng ra kiểu dạy con như vậy là đùa chơi nhưng cũng chỉ có
Lân dạy
con kiểu ấy. Ðó là phản ứng của anh với tình trạng có những cái đầu chỉ
nghĩ
theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình.
Chẳng phải vì là bạn với
Trần Dần, Phùng Quán mà
anh tán thành những quan điểm của báo Nhân Văn. Không chỉ trong suy
nghĩ anh
còn phát biểu thành lời. Tất nhiên anh không được tin tưởng nữa. Ðang
là trưởng
ban Văn nghệ, anh sang làm trưởng ban bạn đọc, rồi xuống làm phóng
viên. Lương
từ bậc 11 hạ xuống còn bậc 7. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vốn không
thích ở nhà
duyệt bài, giữ gôn, mà muốn đi cơ sở. Bắt đầu cuộc chiến tranh leo
thang Giôn
xơn. Miền Bắc mới được 10 năm im tiếng súng và đang tận lực chi viện
cho miền Nam
giờ đây
phải trực tiếp chiến đấu. Những nơi chiến sự ác liệt nhất đều có Mạc
Lân. Cơ
quan cử anh đi vì anh là người xông xáo, không ngại hiểm nguy, nắm bắt
vấn đề
nhanh, viết bài nhanh, hơn nữa trước đây anh từng là phóng viên mặt
trận. Yên
Vực, Hàm Rồng, Nam Ngạn, Ðò Cấm, Cầu Hổ,
Cầu
Vằn... đều có anh. Những địa danh giờ đây không gợi một ý niệm gì nhưng
ngày ấy
là lương tâm của toàn dân tộc. Ðó là quyết tâm của một bên là khoa học
kỹ thuật
hiện đại tối tân nhất, sức mạnh quân sự hùng hậu nhất của Mỹ và đồng
minh với
một bên là ý chí gang thép, của quân và dân miền Bắc giữ vững mạch máu
giao
thông đưa người và súng đạn của cải vào miền Nam chiến đấu. Ðời làm báo
của Mạc
Lân từ đó là những chuyến đi đột xuất tới những vùng lửa đạn, vất vả,
gian khổ,
nhịn đói, đêm hôm, nguy hiểm. Lân đã tận mắt chứng kiến nhiều chuyện.
Những
chiếc cầu bị đánh sập. Những chiếc máy bay bị bắn đứt ngang đâm thẳng
xuống gần
trận địa. Những trận địa pháo bị trúng bom, những cô gái đi thăm chồng
là pháo
thủ bỗng trở thành những người tiếp đạn trên trận địa, ẩn hiện trong
khói lửa,
quần áo, da tóc khét mùi thuốc đạn. Trận chiến đấu kết thúc, sau khi
thay phiên
trực chiến, sau khi đã xuống sông tắm gội và ăn uống, nghỉ ngơi, hai vợ
chồng
người chiến sĩ nọ tràn đầy tình yêu bước vào căn buồng của riêng họ:
căn buồng
hạnh phúc. Lân kể lại chuyện ấy cho tôi nghe trong một lần anh xuống
Hải Phòng
(tôi đã từ báo Tiền Phong chuyển về báo Hải Phòng hồi cuối năm 1959)
viết về nhưng
con tầu mở đường mòn trên biển. Anh sôi nổi:
-Giá ông nhìn thấy hai vợ
chồng người chiến sĩ
nông dân chân chất ở trận địa cầu Hàm Rồng. Buổi chiều còn tơi bời khói
lửa,
gần như không phải con người bằng xương bằng thịt nữa mà là sắt thép,
cái sống
cái chết liền nhau mà buổi tối thì trẻ trung tươi tắn thế. Cô cậu
ngượng chưa
muốn vào nhà hạnh phúc ngay, còn đi la cà buồng nọ buồng kia nhưng đi
đến đâu
cũng bị xua đuổi. Người ta không muốn cô cậu mất thì giờ vì họ. Thời
gian quý
lắm. Nhất là thời gian giữa hai trận đánh.
Và gật gù:
-Tôi sẽ viết một cái
truyện ngắn về cái lực Việt
Nam.
Về một đôi vợ chồng chiến sĩ như tôi vừa kể cho ông. Chiến đấu suốt
buổi chiều,
đến tối, khi cửa phòng hạnh phúc khép lại, chị vợ hỏi chồng: Mệt thế
anh có
chiều em được không? Anh chồng cười: Ðược chứ, sao lại không? Nhưng anh
chiều
ít hay chiều nhiều? Chiều nhiều. Chẳng thể nào diễn đạt được hai tiếng
chiều
nhiều Lân nói. Quai hàm bên dưới trẹo đi. Vừa âu yếm vừa nũng nịu mà
chỉ Mạc
Lân mới có.
Tôi không biết anh đã đặt
bút viết cái truyện
ngắn ấy chưa. ý tưởng về truyện ngắn này nẩy sinh trong lần về trận địa
Hàm
Rồng nhưng nó bắt nguồn từ những suy nghĩ sâu xa hơn. Ngày ấy người ta
sợ viết
về tình yêu trai gái. Ngày ấy những con người chiến đấu được giản lược
đi đến
mức tối đa. Lân bảo: Bọn Liên Xô sang đây nó bảo nhân vật của các anh
không có
bộ phận sinh dục à? Cứ đọc sách của mấy ông viết thì đúng như thế thật.
Nhưng
tôi cam đoan với ông rằng trong Nam
đang chiến đấu gay go như thế nhưng người ta vẫn yêu nhau, vẫn ghen
tuông, vẫn
ngoại tình, vẫn ngủ với nhau. Cuộc sống ông ạ. Không có gì dập tắt được
cuộc
sống. Chỉ có chúng ta dập tắt nó trong sách thôi.
Những suy nghĩ kiểu như
vậy ngày ấy cũng là lạc
lõng, cần phải uốn nắn. Lân biết rằng thật khó mà viết được một cái gì
đó chân
thực. Nhưng anh vẫn đi. Vẫn đến với những nơi nguy hiểm nhất. Những tấm
gương
chiến đấu của quân dân ta ở tuyến lửa động viên anh. Khi bom Mỹ đánh
trúng trại
hủi Quỳnh Lập, anh đang ở khu 4. Lấy xe đạp đạp suốt đêm tới Trại hủi,
lấy tài
liệu viết bài ngay, nghĩ tới anh em trong toà soạn đang ở Hà Nội, Lân
tự thấy
mình là "ghê", nhưng ý nghĩ ấy biến mất ngay khi anh đến phòng mổ của
các bác sĩ: Vi trùng hủi Hansen lây bằng đường máu mà các bác sĩ mổ cho
những
người hủi bị trúng bom không có găng tay! Ðến những mũi nhọn trong
chiến đấu,
đó là lương tâm -và cũng có thể là tự ái nghề nghiệp- của anh, là máu
mê của
anh nữa, chứ anh hoàn toàn không tin là anh sẽ được lãnh đạo báo tin
tưởng. Cho
nên mỗi khi thấy lãnh đạo tươi cười với anh là anh cảnh giác. Như một
hôm, một
uỷ viên biên tập thân mật vỗ vai anh, anh hiểu ngay là sắp có nhiệm vụ
đột
xuất. Quả nhiên, người uỷ viên biên tập nói với anh: -Nó đánh Nam Ðịnh
rồi. Thế
là ba lô xe đạp guồng suốt đêm về Nam Ðịnh viết Thành phố dệt nổ súng.
*
Năm 1967 Mạc Lân rời khỏi
báo Tiên Phong. Lê Bầu
sau khi đi học phiên dịch ở Trung Quốc, công tác ở ngành bưu điện đã
xin chuyển
được về Hội Văn Nghệ Hà Nội. Bầu kéo Lân về đó. Lân về Hội Văn Nghệ Hà
Nội vì
hai lý do: Anh không thể ở báo Tiền Phong được nữa mà Hội Văn Nghệ Hà
Nội lại
có báo, có nhà xuất bản, nghĩa là có đất dụng võ như lời tán của Bầu.
Nhưng cái
đất dụng võ ấy đâu có phải là của Mạc Lân mà cũng chẳng phải của Lê
Bầu. Có một
ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh hơn văn bản mà tất cả
các báo,
các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt để và nghiêm chỉnh là không in
bài của
Mạc Lân, Lê Bầu. Nếu hãn hữu có in cũng không được ký tên hai người.
Người ta
thực hiện triệt để tới mức tập Người Hà Nội có bài của Mạc Lân, Lê Bầu
thế mà
tên không được in đã hẳn, nhuận bút cũng không có nốt. Túng thiếu. Mà
phải có
tiền. Phải sống.
Ðang loay hoay với kế mưu
sinh thì Dương Tường
đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết
cho Mạc
Lân vấn đề cực kỳ khó khăn ấy: Ði bán máu. Lân tròn xoe mắt, sửng sốt
và bất
ngờ. Bán máu? Bán ở đâu? Bán như thế nào? Ai mua? Ông lại sáng tác ra
chuyện gì
nữa thế? Không phải chuyện sáng tác, hư cấu. Người thực việc thực một
trăm phần
trăm. Chuyện của chính tôi. Chính tôi đã đi bán rồi đây ông ạ. Có mà
trời tin.
Ðừng bịp nhau. Người một tay xách nặng như ông mà đi bán máu. Trông
thấy ông
người ta cũng đủ ngán rồi. Ông không tin thì thôi. Bốn hai cân như tôi
mà bán
được máu đấy. 200 xê xê đàng hoàng. Ông ăn chắc mỗi kỳ 250 xê xê. Thế
thì đúng
rồi. Nhưng bán ở đâu? Thủ tục ra sao? Lân mừng như người chết đuối vớ
được cọc.
Thế là Tường giảng giải. Và để kết luận, Tường bảo: "Tôi sẽ đưa ông
đi." Lân không nhờ Tường đưa đi. Anh tự đi. Tường động viên: Cũng nhiều
chuyện phức tạp, lôi thôi lắm, chứ không đơn giản đâu. Không biết gan
của ông
có vấn đề gì không. Có vi trùng sốt rét không. Ở bộ đội thằng nào chẳng
sốt
rét. Thôi cứ đi. Ðược hay không thì cũng là một lần tổng kiểm tra sức
khoẻ. Từ
bé đến giờ chúng mình đã kiểm tra sức khoẻ bao giờ đâu.
Nghe lời Tường dặn, Lân
mua nửa cân chè Thái đến
gặp phó phòng huyết học bệnh viện Việt Ðức như một cái lễ ra mắt. Anh
được
khám, được X quang tim phổi, thử máu, thử nước tiểu không mất tiền.
Không bệnh
truyền nhiễm. Không viêm gan. Không có vi trùng sốt rét. Lại còn được
nghe
giảng về huyết học. Cho đến bây giờ anh mới biết thì ra hồng cầu ba
tháng chết
một lần, và cũng cứ ba tháng tuỷ sống lại sản sinh ra một thế hệ hồng
cầu mới.
Hồng cầu chết nằm trong lá lách. Ðó là nghĩa địa hồng cầu. Máu thì có
bốn nhóm
tất cả. A, B, O, AB. Nhóm máu AB là nhóm máu ích kỷ, rất ít người có
nên bệnh
viện không mua, khó bán. Nhưng khi cần người ta đến tận nhà mua và lại
bán được
đắt. Còn nhóm máu O được gọi là nhóm máu xã hội chủ nghĩa, tiếp được
cho các
nhóm máu khác. Nhóm máu của Lân thuộc nhóm B, chẳng ích kỷ cá nhân chủ
nghĩa mà
cũng chẳng xã hội chủ nghĩa. Lấy máu theo trọng lượng cơ thể. Tường
chắc mỗi
lần bán chỉ được 150 cc. Lấy 200cc có thể do cảm tình gì đó. Lân 60 ki
lô mới
được lấy 200cc. Về sau những lần cần tiền Lân đeo thêm chì vào người để
đạt
trọng lượng 70 ki lô và bán được 250, 300cc, anh nghĩ chắc Dương Tường
cũng giở
trò gian lận này. Lấy xong máu, cầm biên nhận đến tài vụ lĩnh tiền,
nhận phiếu
bồi dưỡng. Tiền tính theo xê xê còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người
được
lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất
đi một ít
máu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán
máu rất
vui. Con người mình bỗng nhiên tăng thêm giá trị trước gia đình và
trước bao
cặp mắt của cánh phe vé, bỗng nhiên mình được bao bọc quấn quít giữa
những cái
nhìn trìu mến, tình cảm, hò hẹn của đám đàn ông đàn bà chuyên sống bằng
buôn
bán tem phiếu lúc nào cũng có mặt ngoài cổng bệnh viện. Ðội ngũ phe vé
cũng
đông xấp xỉ đội ngũ những người bán máu. Giá cả dễ thống nhất. Giá
làng. Người
trao tiền, người trao phiếu là xong. Ðiều gay go nhất là tiêu chuẩn bồi
dưỡng
còn được một bát phở tái bò, nhưng phải xếp hàng ăn ngay tại hành lang
bệnh
viện. Những lần đầu đứng ngồi xì xụp bát phở ngoài hành lang ngượng
lắm. Cắm
mặt mà và, mà xụp xoạp cho nhanh. Nhưng rồi quen. Nghĩ mình lương
thiện. Quá
lương thiện. Lương thiện gấp trăm lần những người khác. Chẳng có gì mà
xấu hổ.
Thế là dần dần cứ ăn bình tĩnh nhẩn nha. Chẳng nuốt vội nuốt vàng như
trước. Ðể
thấy chất bổ ngấm vào người, vào máu. Ðể thấy mình đang hồi phục. Ðể
thấy máu
mình lại đang nẩy nở sinh sôi. Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn
giật mình.
Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy
bỗng bật
ra những cái tên bất ngờ nhất:
-Chính Yên!
-Phan Kế Bảo!
-Phan Kế Bảo!
Hay đang bưng bát phở lên
ăn, nghe tiếng gọi
giật giọng:
-Phương Nam!
Toàn những người quen.
Toàn những trí thức.
Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là
lương
thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng. Người bán máu nuôi con đi
học.
Người lương hưu ít ỏi không đủ sống. Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn
gàng. Mặt
mũi sáng sủa, đi lại rón rén nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có
học. Ðấy
là một loại. Loại này đông nhất. Loại thứ hai ít hơn: Những nam nữ
thanh niên
còn rất trẻ, quần áo bít dít cười nói trò chuyện ồn ào. Ðó là cánh
thanh niên
đua đòi ăn chơi tung tẩy rủ nhau đi bán máu lấy tiền mua nhẫn vàng mua
đồng hồ
quần bò áo phông. Còn dân bán máu chuyên nghiệp lại khác. Giống cánh
trí thức.
ít nói. Có nói cũng rất khẽ. Khuôn mặt đầy lo lắng ưu tư. Họ có nhiều
sổ, bán ở
nhiều nơi. Có khi lên cả Sơn Tây, Thái Nguyên. Về cả Thái Bình. Họ chưa
đến hạn
được bán. Họ sợ máu họ loãng. Họ sợ bệnh viện nhận ra sự gian dối của
họ. Dân
chuyên nghiệp bán máu xong là đổ xô đi mua viên sắt, uống nước cua
sống. Hy
vọng như vậy sẽ có đủ huyết sắc tố cho đợt bán sau. Dân chuyên nghiệp
vén ống
tay áo lên nhìn biết ngay. Chằng chịt vết kim. Lân bán máu sau Tường.
Nhưng Lân
là người theo đuổi cái công việc này lâu nhất. Khi kẻ viết bài này lang
thang
từ các miền rừng núi trở về, đã sẵn có nghề trong tay, Lân đi bán máu
đột xuất,
chiêu đãi y một bữa bún chả, ăn trong căn buồng hẹp nhà Lê Bầu phố
Phùng Hưng.
Một bữa ăn vĩnh viễn nằm trong trí nhớ.
*
Năm 1971 Mạc Lân xin nghỉ
hưu non. Tình thế bắt
buộc, mặc dầu anh không muốn. Thật không ngờ: Nghỉ hưu, anh lại có
nhiều việc
để làm. Cái chuyện anh không được viết, hoặc được viết nhưng không được
in hay
được in nhưng không được ký tên cũng không được nhận nhuận bút cả bàn
dân thiên
hạ đều biết. Và nhiều người tìm đến anh . Ðó là những người đang đi vào
con
đường viết lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người
đang muốn
có một cái truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo
và giờ đây
đang giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những người đã
có một
vài sáng tác được in và đang muốn được kết nạp vào hội văn nghệ địa
phương, kể
cả hội nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ. Hoặc muốn vây vo
với một em
nào đó. Ðể chinh phục. Ðể có thể yêu, và không loại trừ cả chuyện hôn
nhân.
Cũng nhiều khi đơn giản chỉ là một cách kiếm ăn, phe phẩy, nhận việc,
không
phải làm mà vẫn có tiền tiêu, hơn nữa có tiếng tăm. Thời ấy mọi đơn đặt
hàng
đều là truyện ký. Một thứ người thực việc thực được văn nghệ hoá, có tả
cảnh,
tả tình, có đối thoại, một thứ văn chương tổ đội. Cái khoản ấy Lân
rành. Chẳng
cứ Lân rành. Bầu cũng rành.(Và cả tôi nữa. Cũng rành.) Bầu và Lân làm
thành một
tổ viết văn chui. Nghĩa là viết văn không cho người khác biết, trừ
người đặt
hàng mình. Việc nhiều khi không có. Nhưng cũng có lúc làm không hết. Do
người
ta tự tìm đến. Mà cũng do bè bạn khơi nguồn, tìm việc mang đến cho anh,
anh chỉ
việc viết mà không biết người sẽ đứng tên sách anh viết, người sẽ phải
trả tiền
cho anh là ai. Ðủ các đề tài. Chuyện chiến đấu trong Nam.
Chuyện nhà máy, cải tiến kỹ
thuật, mỗi người làm việc bằng hai, chuyện chăn nuôi trong hợp tác xã
nông
nghiệp. Chuyện phong trào hai tốt (dạy tốt, học tốt) ở các trường học.
Ðề tài
gì cũng được. Nhưng các ông phải cung cấp tài liệu. Bọn này chỉ biết có
viết
thôi. Ðảm bảo đúng thời hạn, đúng số trang số chữ, đảm bảo chất lượng.
Hợp đồng
chỉ thảo miệng như vậy. Còn nữa. Nhuận bút chia đôi. Cũng là thống nhất
miệng.
Nhiều khi gặp khách hàng rắn quá, Lân nhận theo tỷ lệ bốn mươi, sáu
mươi. Người
đứng tên sách ăn sáu, còn Lân ăn bốn. Chung quanh cái việc viết văn
chui của
Lân thật nhiều chuyện li kì. Có những người nhận nhuận bút rồi nhưng
định quịt,
không thanh toán tiền cho kẻ viết. Ði lại nhiều lần. Ngọt nhạt. Mềm
mỏng. Căng
thẳng. Người ta cũng không định quịt của mình. Chẳng qua là vì quá bốc
với tác
phẩm đầu tay, lỡ liên hoan hết cả tiền nhuận bút. Cuối cùng đành phải
tháo đồng
hồ Pôn-giốt đưa Lân. Làm ăn phải giữ cái mối chứ nhiều lúc nhục lắm ông
ơi. Anh
chồng bảo cô vợ thế này: Anh Lân anh ấy túng quá, anh thuê anh ấy chép
bản
thảo, tạo điều kiện cho anh ấy thêm tý thu nhập, em đến xem anh ấy chép
xong
chưa cầm về cho anh, nhà xuất bản họ giục. Tiền nong cứ kệ anh. Anh sẽ
thanh
toán với anh ấy sau. Chị vợ phục tấm lòng ăn ở của chồng sát đất. Chồng
mình
quan tâm đến bạn như thế chứ còn gì nữa. Một tấm lòng vàng! Thật may
cho cái số
của mình... Chị vợ đến gặp mình nói lại ý kiến của chồng. Mình khất.
Nói rằng
mấy hôm nay tôi bận quá chưa chép được. Chị về nói lại với anh hộ. Chị
vợ lại
hỏi: Chữ anh ấy nhà tôi khó xem lắm đấy. Tôi đọc còn khó, anh có đọc
được
không. Mình vội bảo: Tôi đã công tác ở toà soạn chị ạ, chữ viết kiểu gì
tôi
cũng đọc được. Lần đầu tiên vui vẻ. Lần thứ hai bà vợ đến mình vẫn chưa
chép
được, bà ta đã có vẻ bực nhưng cố nén. Và lần thứ ba cũng vẫn bận quá
chưa chép
được cho anh thì bà vợ không chịu được nữa. Dắt xe ra cửa còn nói đổng:
"Ðã đói còn lười. Người ta thông cảm giao việc cho làm mà không chịu
làm." Lân cười. Kể đến đây Lân cười. Rồi anh nghiêm mặt quát lên với
tôi:
"Những công việc ấy làm sao viết trước, viết sẵn được. Ông cũng viết
văn
ông còn lạ gì. Cứ là phải nước đến đít rồi mới nhẩy!" Và nhắc lại châm
ngôn anh đã nói cùng tôi: "Làm ăn phải giữ lấy cái mối. Ðành chịu. Họ
muốn
nói thế nào tuỳ họ." Bỗng cười phá lên: "Nhưng anh chồng là người
tuyệt vời. Cuối cùng thì bản thảo cũng xong. Sách in trước Tết. Nhuận
bút có
trước Tết. Ông cũng biết Tết mà có nhuận bút thì tuyệt như thế nào.
Mình đến
nhà anh ta. Hí hửng sẽ mang được tiền về cho vợ. Nhưng chị vợ anh ta
cũng có
nhà. Hai thằng chỉ nhìn nhau mà không nói. Không có cách nào đưa tiền
được.
Truyện trò giữa hai thằng tri kỉ gượng đến chín giờ tối thì mình rút.
Nhưng
thật không ngờ. Mười giờ bà vợ đạp xe tới nhà mình: -Anh Lân có mất cái
gì
không? Mình ngơ ngác: -Không. Không mất gì cả chị ạ. Chị vợ rút ra một
xếp tiền
đưa cho mình: -Anh đánh rơi tiền ở nhà tôi đây này. Khi anh về, nhà tôi
thấy ở
gầm ghế anh ngồi chỗ tiền này, hỏi tôi tiền nào đây. Chồng không mất,
vợ không
mất. Anh ấy bảo thế thì chỉ có tiền anh Lân đánh rơi thôi. Mình hiểu
ngay tất
cả. Sáng kiến ứng xử thông minh của ông chồng, sự thông cảm của ông ta
đối với
thói cần tiền của mình trong những ngày giáp Tết. Mình giả vờ lục túi
quần và
reo lên: "Chết rồi. Ðúng rồi. Tiền vợ tôi nó vừa lĩnh họ đưa cho tôi
lúc
chiều. May quá. Cám ơn anh chị."
-Nhưng sao toàn thấy bà vợ
đến nhà ông mà ông
chồng không đến?
-Ông ấy bị đau chân. Ði làm sao được.
-Ông ấy bị đau chân. Ði làm sao được.
Như mọi thứ hợp đồng khác,
hợp đồng viết thuê
của Lân có nhiều chuyện phát sinh. Chẳng hạn chuyện Lân viết (ký tên
người
khác) bỗng dưng lại ăn một cái giải thưởng nào đó. Như có một năm ba
truyện
ngắn Lân viết cho ba người được giải thưởng (của Hà Nội và của Tổng
công đoàn).
Người ta có thể quên hẳn Lân. Nhưng những người trúng giải thường là
những
người rộng rãi biết điều. Lộc bất khả hưởng tận. Ba cái giải thưởng ấy
Lân đều
được chia 50 phần trăm. Trần Dần, Phùng Quán đem tiền đến cho Lân. Hai
người
này nhận việc cho Lân. Người nhận giải chẳng biết Lân là ai. Họ chỉ
biết có ông
Dần, ông Quán.
Có một điều Lân lấy làm lạ
là cái người chỉ đứng
tên cho văn bản mà không hề viết lấy một dòng khi sách đã được in, gặp
Lân là
người đã viết ra nó lại cứ trò chuyện với Lân theo cái kiểu như chính
anh ta là
người đã sáng tác ra nó, chính anh ta là tác giả. Hoặc nói một cách rất
bề
trên: "Ðoạn ấy viết được. Mình đi đến đâu người ta cũng khen. Dư luận
tốt
lắm." Anh lắc đầu: Cũng nhiều lúc muốn tống một quả đấm vào mặt họ
nhưng
lại cố nén. Rồi cười: Làm ăn phải giữ lấy cái mối.
Nghề viết thuê có nhiều
lúc nhục nhưng cũng có
lúc vinh. Ấy là cái lần Lân đi viết lịch sử đảng bộ Thuận Hải, tên gọi
chung
cho hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận thời còn đang sáp nhập làm một.
Chưa bao
giờ anh có một công việc quy mô như vậy. Nó hứa hẹn với anh nhiều tháng
có công
ăn việc làm và do đó thu nhập cũng khá hơn. Người dắt mối cho anh là Tạ
Văn
Bảo, trưởng ban công nghiệp báo Tiền Phong vào cái hồi anh làm trưởng
ban văn
nghệ. Tạ Văn Bảo đã vào biên uỷ báo rồi chuyển sang làm giám đốc nhà
xuất bản
Thanh Niên. Khi đó nhà xuất bản Thanh Niên đang có một chương trình
liên kết
kinh tế gì đó với tỉnh uỷ Thuận Hải. Biết tỉnh uỷ Thuận Hải muốn có một
bộ lịch
sử tỉnh đảng bộ, Bảo đã đưa từ Hà Nội vào một cây bút có tín nhiệm để
viết.
Nhưng bản thảo đổ. Không đạt. Mà không thể không có bản thảo, không thể
không
xuất bản tập lịch sử Ðảng bộ. Bảo nghĩ đến Lân, một người chắc chắn sẽ
có bản
thảo, hơn thế, một bản thảo tốt. Lân nói với Tạ Văn Bảo: -Nhưng ông
cũng biết
rồi đấy. Tôi không phải đảng viên, viết lịch sử Ðảng có được không? Với
lại tôi
chỉ viết giai đoạn từ khi thành lập Ðảng tới Tổng khởi nghĩa thôi đấy.
Bảo nói
không có vấn đề gì, thu xếp vào trong ấy càng sớm càng tốt. Vợ chồng
Lân vay
giật được 200 đồng. Hằng, vợ Lân khâu vào mỗi cái quần lót của Lân một
cái túi
con, để cho tiền vào đó, miệng túi cài ghim băng cẩn thận. Mùa hè năm
1982 Lân
vào Phan Thiết với 200 đồng, 200 điếu thuốc lá cuốn, một quyển sổ tay,
vài cái
bút bi, anh gặp các đồng chí trong tỉnh uỷ. Lân thấy cần trực tiếp nói
rõ nhân thân
của mình với tỉnh uỷ: - Trước đây tôi là đảng viên, nhưng từ lâu tôi
không sinh
hoạt Ðảng nữa. Các anh xem tôi có đủ tiêu chuẩn làm việc không. Và tôi
cũng báo
cáo với các anh là tôi chỉ viết lịch sử Ðảng bộ từ năm 45 trở về trước
thôi.
Nói rõ như vậy để các anh quyết định... Ðồng chí đại diện tỉnh uỷ nói
với Lân:
- Việc đó là của chúng tôi. Không phải việc của anh. Việc của anh là
viết. Còn
lại là việc của tỉnh uỷ. Chỉ đến khi công việc chắc chắn rồi Lân mới
dám mở
ghim băng lấy tiền khâu trong quần lót ra tiêu.
Hẳn là bản thảo tốt nên
khi hoàn thành, tỉnh uỷ
hỏi Lân về giá cả, Lân rụt rè nói con số mười lăm nghìn đồng, một con
số mà
chính anh cũng hoảng lên nhưng anh còn nhận được số tiền cao hơn thế:
hai mươi
nghìn đồng! Tỉnh uỷ còn nói sẽ có một tặng phẩm cho Lân. Lân nghĩ ngay
đến vợ.
Anh mạnh dạn đề nghị cái tặng phẩm mà tỉnh uỷ ưu ái dành cho anh sẽ là
một suất
tầu khứ hồi Nam Bắc để vợ anh có thể vào Sài gòn, tới Phan Thiết cùng
với anh.
Vấn đề quá đơn giản. Ðề nghị của anh được chấp nhận ngay. Ít ngày sau
Hằng vào
Sài gòn, ra Phan Thiết. Hai vợ chồng sống như những cặp vợ chồng nhàn
cư đi du
lịch. Ðó là anh trả cái ơn, cái nghĩa đối với vợ mà nếu không có chuyến
đi viết
này anh sao làm được.
Ôi! Một khi cái vận nó đã
đến thì như vậy đấy.
Cứ tự nó đến thôi. Khi nó không đến thì muốn cũng chẳng được. Vừa hoàn
công
việc với tỉnh uỷ đã lại có công việc mới: Ký hợp đồng viết lịch sử tỉnh
đoàn.
Chưa xong lịch sử tỉnh đoàn đã ngấp nghé lịch sử huyện đoàn. Cứ như vậy
mà thừa
thắng xông lên.
Nhưng cuộc đời luôn dành
cho anh nhiều vố. Khi
anh đã hút hết 200 điếu thuốc lá cuộn, khi Hằng đã trở ra Hà Nội, khi
anh đang
ngồi viết lịch sử tỉnh đoàn, anh bỗng thấy như có ai đánh rất mạnh vào
ngực.
Mặt mũi sây sẩm. Choáng váng như muốn ngất. Ngực thắt lại, đau nhói.
Nghẹt thở.
Có một cái gì cứ cắn trong lồng ngực... Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên
của anh mà
anh không biết. Từ Phan Thiết, anh trở vào thành phố Hồ Chí Minh khám
bệnh ở
bệnh viện Gia Ðịnh. Huyết áp 170 trên 100. Bác sĩ bảo đối với người
già, huyết
áp như vậy bình thường. May sao anh gặp Vấn, một bác sĩ bạn anh từ hồi
còn ở Hà
Nội. Vấn khám, kết luận anh nhồi máu cơ tim và đưa đến bệnh viện Ðiện
Biên Phủ
(Saint Paul
cũ). Thở ô-xi. Truyền máu. Tiếp nước. Các bà xơ rất tận tình phục vụ
nâng giấc
đêm hôm. Quý ngài xa gia đình, mắc bệnh hiểm nghèo, chúng tôi xin được
chăm
sóc. Bẩy ngày sau Hằng mới có mặt tại bệnh viện. Hai vợ chồng bay ra Hà
Nội
bằng chuyên cơ của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Cũng là trúng số hên. Lân nằm
bệnh
viện với giấy giới thiệu của tỉnh uỷ Thuận Hải gửi tới T78, nghĩa là
Văn phòng
Trung Ương Ðảng phía Nam. Chuyên cơ của Thủ Tướng còn thừa hai chỗ. Hai
chỗ ấy
được dành cho vợ chồng một người bệnh nặng thuộc T78!
*
Ðầu năm 2002 tôi gọi điện
cho Lân. Chúng tôi duy
trì cách liên lạc này để vẫn biết tin về nhau, được nghe giọng nói của
nhau, dù
nó hơi đau hào, bởi vì có bao giờ nhấc máy mà chúng tôi nói với nhau
dưới năm
phút đâu. Mà lương hưu của hai đứa chúng tôi sau bao kỳ tăng -mỗi kỳ 25
phần
trăm- đều không quá 250 nghìn, nghĩa là vừa đủ cho hai cái đám cưới và
một cái
đám ma. Mà ở tuổi chúng tôi, con bạn lấy vợ lấy chồng nhiều, còn bạn
thì cũng
đã có hiện tượng lần lượt nằm xuống.
Tiếng của Lân qua ống nghe
áp vào tai tôi đã
khác trước nhiều. Giọng nói của anh qua mỗi lần điện thoại một khác.
Thều thào,
mệt mỏi. Lần này lại càng mệt mỏi. Ðứt quãng, nghe cả tiếng thở dốc.
Nghe mà lo
mà thương cho anh. Vụ rét cuối năm Tân Tỵ đầu năm Nhâm Ngọ này khủng
khiếp quá.
Tám đến mười lăm độ kéo dài cả tháng.
-Tôi lại mới bị viêm thực
quản, viêm môn vị.
Phiền quá. Bệnh này khiến mình cứ phải ở nhà không đi đâu được. Chứ
không thì
cũng cố bỏ ra mười nghìn đi xe ôm đến ông Bầu, đến chỗ ông Tường chơi .
Lại thêm bệnh mới. Nghe
tiếng anh tôi lo. Anh
mệt mỏi lắm rồi. Anh là người kiên cường chiến đấu với tật bệnh. Năm
1982, lần
đầu tiên bị nhồi máu cơ tim, bác sĩ đã nói riêng với chúng tôi có cầm
cự giỏi
lắm cũng chỉ được từ năm năm đến bẩy năm, mà anh đã chiến đấu với nó,
đã cầm cự
hai mươi mốt năm rồi. Ðâu có phải chỉ nhồi máu cơ tim. Còn bao bệnh
khác, bệnh
nào cũng là trọng bệnh.
-Tôi định vào bệnh viện
nhưng bệnh viện hết
giường rồi. Với lại cũng không có người trông nom. Bà Hằng nhà tôi còn
phải đi
làm. Không đi lấy gì mà sống.
Tôi lên Hà Nội thăm Lân.
Qua nút cổ chai Cầu
Giấy đang được giải toả, nơi trước đây Lân bị tông xe và bị gẫy chân
lần thứ
hai. Rẽ vào nhà Lân. Anh đang nằm trên chiếc giường một, chăn đệm đầy
người.
Một cháu gái xinh xẻo tóc xoã đang ngồi trước bàn với những trang giấy
để mở.
Tôi biết cháu. Ðó là một sinh viên khoa báo chí trường đại học Khoa học
xã hội
và Nhân văn. Cháu ở gần nhà anh. Những lúc rỗi rãi cháu sang cơm nước,
phục vụ
anh và anh đọc cho cháu chép tập sách anh đang viết, tập sách của đời
anh. Thấy
tôi cả hai bác cháu reo lên. Cháu gái xếp bản thảo vào trong một cái
cặp, đi
pha nước. Lân hất chăn đệm ra, ngồi dậy bảo cháu:
-Hôm nay có bác Tấn, chúng
ta nghỉ làm việc.
Cháu ra ngoài kia mua cho hai bác thứ gì ăn trưa. Hai ổ bánh mì này,
mấy quả
táo này. Ông uống gì nhỉ. Bia à. Còn tôi nước ngọt.
Cháu cầm tiền ra đi và một
lát sau đã quay lại
với những thứ đó trong túi ni-lông. Cháu lấy cốc lấy đĩa bầy các thứ ra
bàn
nước và lễ phép chào chúng tôi, ra về. Chỉ còn hai chúng tôi. Vừa ăn
vừa nhìn
nhau. Lần nào lên Hà Nội gặp Lân tôi cũng cứ sờ sợ rằng đây là lần cuối
cùng tôi
nhìn thấy anh dù tôi biết bệnh tật có xúm nhau lại vật được anh cũng
còn lâu.
Tôi bỗng nhớ đến một câu của Pau-tốp-xki mà tôi đã đọc khi còn đang
tuổi hai
mươi: "Tôi viết cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít đần đi."
Ðến bây giờ tôi mới ngấm câu nói ấy. Lân xếp xếp chồng bản thảo đã được
làm vi
tính, cất vào hộc tủ:
-Cũng được một nửa rồi ông
ạ. Mình định viết bốn
cái truyện vừa độc lập. Nhưng khi ghép lại với nhau nó thành một quyển
tiểu
thuyết... Mắt anh ánh lên một nỗi khát khao. Giọng anh lại vang vọng
sắc thái
ngày nào. Tôi cầu mong anh hoàn thành dự định. Nhưng phải gấp lên Lân
ơi. Mà
không chỉ Lân. Cả mình, cả Bầu, cả Tường, cả Bão... Tất cả anh em mình.
Thời
gian gấp lắm rồi.
Ngã Sáu 29- 1- 2002 Mùa
rét năm Tân Tỵ
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
Rừng xưa
xanh lá
(kỳ 3)
(kỳ 3)
Thời gian gấp ruổi
Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi...
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi...
Quang Dũng
Trong một lần tới thăm
Nguyễn Khải tại thành phố
Hồ Chí Minh, đang vui câu chuyện, tôi hỏi anh có biết Mạc Lân không.
Hỏi để mà
hỏi. Hỏi vì câu chuyện đang xoay quanh thế hệ những người cầm bút chúng
tôi
trước và sau hoà bình 54. Tôi không nghĩ rằng Khải biết Lân, vì Lân
chưa một
ngày ở Văn nghệ Quân đội. Và cái tên Mạc Lân chỉ xuất hiện duy nhất có
một lần
trong một tập sách mỏng mà từ lâu người ta đã quên nó. Thật không ngờ,
Nguyễn
Khải trả lời:
- Biết chứ. Sao không
biết. Mạc Lân. Lê Mạc Lân.
Con cả Lê Văn Trương. Chí lớn và tính nết ngang tàng lắm. Khi anh ấy ở
quân khu
tôi còn đang ở tỉnh. Anh ấy phải hơn tuổi tôi. Không biết dạo này ra
làm sao.
Có khoẻ không.
Tôi kể cho Khải nghe những
thông tin mới nhất về
Lân. Có một chuyện vui:
-Lâu lâu không thấy tôi
gọi điện lên, ông Lân
ông ấy lại gọi xuống tôi, ông ấy bảo: Sao ông không gọi điện cho tôi,
ông sợ
đau hào à. Tôi bảo không phải sợ đau hào đâu mà chán lắm ông ơi. Tôi có
cảm
giác ai đó đang nghe câu chuyện của chúng mình nên tôi không muốn gọi.
Ông ấy
gắt: Ai nghe. Ông cứ thần hồn nát thần tính. Ð. mẹ thằng nào nghe trộm.
Ðấy.
Tôi chửi rồi đấy. Ông cứ nói đi.
Chúng tôi cùng cười. Khải
bảo:
-Tính nết vẫn y như thế.
Tôi thống kê những bệnh
tật Lân mang trong
người. Nhồi máu cơ tim hơn 20 năm , từ năm 1982 đến nay, sỏi thận, tiểu
đường,
hai lần gẫy chân nhưng lại phải mổ ba lần...Khải lắc đầu sợ hãi. Không
chỉ
Nguyễn Khải. Ai biết bệnh của Lân đều sợ. Nhưng Lân là người kiên
cường. Rất
kiên cường chiến đấu với bệnh tật cũng như kiên cường sống. Ðến nhà
Lân, một
căn hộ cấp 4 ở khu tập thể ngoại thành, nhìn anh nặng nề ngồi dậy, nặng
nề cà
nhót cà nhắc ra bàn nước pha nước, tôi không thể không nhớ đến những
ngày chúng
tôi mới quen nhau, những ngày sau hoà bình 54, khi tôi 20 tuổi còn Mạc
Lân 26
tuổi. Một Mạc Lân trẻ trung, cao to, sôi nổi, yêu đời, huy hiệu Ðiện
Biên sáng
ngực áo. Một Mạc Lân kể chuyện văn công lên Ðiện Biên phục vụ tận chiến
hào,
con Hồng Ngọc nó hát bài Qua miền Tây Bắc như thế này này. Và
cao hứng
Lân hát. Lân bắt chước cô văn công Hồng Ngọc nào đó hát. Cái giọng
thuốc lào,
ống bơ rỉ của Lân rè rè cố bắt chước cô Hồng Ngọc làm chúng tôi không
nín được
cười. Hôm nay nhìn ông già ngoài bẩy mươi tuổi bạn tôi nét mặt sáng
ngời lên vì
có bạn đến thăm, tôi hiểu được thế nào là thời gian, thế nào là cuộc
đời. Tôi
đọc Mai-a-kôp-xki, những vần thơ thời tuổi 20 chúng tôi thường hay đọc
để nói
về nhau:
Dáng anh đi cao lớn thiên tài Từng bước một trong đầu em nổi sấm
Và Lân đọc tiếp với giọng
hào hùng của một chàng
trai ngày trước:
Nhưng vẫn vô công không tài nào anh cướp được em đi Ông vua An-be đã mất mọi thành trì
Cũng nhiều của hơn tôi nhiều lắm
Một cách đọc của Lân. Vẫn
là Mai-a. Nhưng anh đã
lắp đoạn này vào đoạn khác. Có hề chi. Miễn là những vần thơ ấy làm
chúng tôi
trẻ lại, làm chúng tôi sống lại quãng thời gian đẹp nhất của chúng tôi.
Hơn nữa
nếu bây giờ mà có một ông vua An-be bất hạnh nào đó đã mất mọi thành
trì thì
đúng là ông ta cũng vẫn giầu hơn Mạc Lân rất nhiều. Tôi nói cho Lân
nghe những
đêm ít ngủ của tuổi già, tôi nằm tổng kết lại cuộc đời mà thấy rằng
những ngày
chúng tôi ở báo Tiền Phong với nhau là những năm tháng đẹp nhất. Lân
cũng đồng
ý với tôi như vậy:
-Nhớ lắm ông ạ. Một cảm
giác đau như nhớ lại
những ngày thơ ấu. Ðúng là một cảm giác đau.
Ngày ấy tôi mới bước vào
đời. Tôi mới 20 tuổi...
Sau tiếp quản Thủ Ðô,
khoảng tháng 12 năm 1954,
đơn vị thanh niên xung phong chúng tôi có ba người được chuyển về báo
Tiền
Phong: Vũ Lê Mai, Lê Thị Tuý và tôi. ít ngày sau từ bộ đội lại chuyển
về ba
người nữa: Mạc Lân, Tất Vinh và Vũ Lê. Rồi tiếp theo là Nguyễn Trí
Tình, Vũ
Công Luận, Mai Cát, Văn Kim Kim, Phan Mai... Tất cả đều còn rất trẻ.
Ðội ngũ phóng
viên Tiền Phong lúc đó chưa ai tới 30. Chỉ có Mạc Lân là lớn tuối nhất:
26
tuổi. (Tôi không kể Vũ Lê, vì chỉ nửa năm sau, khi hoàn tất việc tập
kết quân
đội 300 ngày, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Vũ Lê chuyển về Hải Phòng,
nhóm bộ
đội chỉ còn Mạc Lân, Tất Vinh.) Ðó là một lớp thanh niên tuyệt vời, có
học
thức, có khát vọng, có lý tưởng, có nhiệt tình, sẵn sàng hoàn thành mọi
nhiệm
vụ và tràn đầy niềm vui sống, niềm vui làm việc. Tiền Phong là một tờ
báo có uy
tín lúc đó và phóng viên Tiền Phong luôn được bạn đồng nghiệp các báo
kính nể.
Ở Tiền Phong tôi đã được hưởng niềm sung sướng của người lần đầu tiên
được đọc
tin của mình viết in trên báo, sự xúc động đến lặng người khi giở báo
ra thấy
bài phóng sự của mình chạy dài ba cột , chiếm cả góc trang báo. Chúng
tôi không
được dự một lớp đào tạo nghiệp vụ nào.Chúng tôi học nghề chủ yếu qua
những buổi
sinh hoạt rút kinh nghiệm trong nội bộ cơ quan, phân tích ưu khuyết
điểm hàng
tháng hàng quý. Riêng tôi, tôi đọc thêm. Ðọc báo và đọc cả truyện.
Không chỉ đọc.
Tôi còn đóng một quyển sổ, ghi chép, phân tích những sáng tác mình đang
đọc.
Khi mới về báo Tiền Phong,
thấy trong tủ sách cơ
quan có một tập truyện viết về Ðiện Biên Phủ, lập tức tôi chiếm giữ nó,
cất
trong ngăn kéo. Ðó là tập Bảo vệ đường lên mặt trận của Hồ Phương, Mạc
Lân, Ðại
Ðồng, tập sáng tác duy nhất cho đến lúc đó viết về Ðiện Biên, một tập
sách được
giải thưởng trong cuộc thi sáng tác về Ðiện Biên Phủ, gần như cùng với
quân đội
ta tiến vào tiếp quản Thủ đô, bởi vì lúc đó Trần Dần còn chưa viết dòng
đầu
tiên của bộ tiểu thuyết Người người lớp lớp. Tôi ghi chép, tôi phân
tích, tôi
ghi vào sổ tay những điều sẽ giúp ích cho tôi trên con đường làm báo và
sáng
tác sau này. Dễ hiểu rằng khi Mạc Lân về cùng làm phóng viên, tôi thân
thiết và
quý trọng anh ngay. Một tình bạn có thể gọi là vong niên được, dù cùng
trong
tuổi 20. Giờ đây khi đã trên dưới 70, chênh nhau 6 tuổi chẳng đáng kể
gì, nhưng
ngày ấy một người 20 và một người 26 tuổi, khoảng chênh lệch quả là rất
lớn.
Hơn hẳn một phần ba thời gian mình đã sống đâu phải chuyện đùa. Mà
không phải
chỉ là năm tháng. Hơn tôi 6 tuổi, có nghĩa là Lân bắt gặp cách mạng
đúng vào
tuổi trưởng thành. Khi tôi còn ở Nhi đồng cứu vong hội, còn đang đẽo
súng gỗ,
đánh trận giả, đánh trống cà rùng và hát Nhanh bước nhanh nhi đồng
thì
anh đã tham gia cướp chính quyền ở Thủ Ðô, đã đi Nam tiến, người anh đã
nhuốm
mùi lửa đạn. Trong tập Chi Ðội 3 Giải phóng quân Nam
tiến của Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam
do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000 có một đoạn viết về
một
trận đánh ở Phan Rang như sau:
Kế hoạch tiến công nhà Công sứ, dinh luỹ cuối cùng của
bọn Nhật lúc bấy giờ
nghe có vẻ quy mô: Toàn bộ lực lượng vũ trang và phục vụ các nơi dùng trống, chiêng, thùng, chậu...gây tiếng động lớn để uy hiếp tinh thần địch, đồng thời đẩy "đại bác" vào chiếm lĩnh trận địa, ngắm thẳng vào tường chính diện toà Công sứ. Dự kiến bắn khoảng 20 phát, tạo một lỗ hổng to rồi lăn hai phuy xăng vào phóng hoả, tạo điều kiện cho quân ta xung phong.
Một vài cán bộ và chiến sĩ suy nghĩ và lo lắng kế hoạch khó thực hiện nhưng không ai có chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu nào hay hơn, vũ khí cũng chỉ có vậy.
Ngày bao vây toà Công sứ
cuối cùng, Lê Văn Lân
(tức Thuận Lân) một chiến sĩ của trung đội Nguyễn Tiệp đang bắn kiềm
địch thì
tiểu đội trưởng Lê Văn Cử (tức Thái) phái đi rỡ cọc rào có chằng dây
thép gai,
để chuẩn bị cho đơn vị có đường xuất kích. Bọn Nhật từ trên cao phát
hiện. Một
tràng liên thanh bắn làm cho Thuận Lân bị thương. Nhanh như cắt, Lê
Chân, một
chiến sĩ cùng tổ đã xông ra vác bạn trên vai, chạy ẩn vào mép tường.
Các đồng
chí Phấn và Hạnh hai nữ cứu thương băng bó cho Lân và đưa về hậu
phương, sau đó
về bệnh viện nơi sơ tán ở gần Cầu Mống (nay thuộc phường Bảo An) gần
Tháp Chàm.
Mấy phút sau Cử vào "lỗ" bắn của Thuận Lân, mới bắn được một phát đã
bị bọn Nhật bắn trúng mắt và khiêng về bệnh viện thì hy sinh. (Sách đã
dẫn,
trang 121, 122). Cũng ở trang 122 có chú thích như sau: Thuận Lân tức
Lê Văn
Lân hiện ở nhà A5, phòng 102, khu tập thể Liên Cơ Dịch Vọng Hà Nội. Lê
Văn Lân
chính là Mạc Lân. Ðó là tên khai sinh của anh. Lớn lên, anh thay chữ
Văn đệm
giữa bằng tên người anh yêu quý. Thuận là tên một cô bạn học mà anh yêu
vụng
dấu thầm suốt thời gian anh cắp sách tới trường. Ngày ấy anh là Lê
Thuận Lân.
Sau này vào bộ đội, một đồng đội thân thiết của anh tên Mạc hy sinh,
anh có tên
Lê Mạc Lân. Trận Thuận Lân bị thương vừa kể là trận đánh tại Phan Rang,
tháng
11 năm 1945, thời cách mạng còn đang trứng nước. Ðơn vị Nam tiến của
anh đã sớm
có mặt tại mặt trận Sài gòn, đánh địch ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, Phan
Thiết,
Phan Rang, Nha Trang, Buôn ma thuột...
Bị thương, Lân trở về Hà
Nội, thành phố của thời
thơ ấu, của tuổi học trò, thành phố anh đã gia nhập đoàn Thanh niên Cứu
quốc,
tham gia tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền. Hà Nội khi Lân từ Phan Rang
trở ra
giống như một thùng thuốc súng. Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng phát
bất cứ
lúc nào và cuối cùng đã bùng phát. Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã
nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì
chúng quyết
tâm cướp nước ta một lần nữa. Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Lân tham gia bộ
đội Thủ
đô với chức vụ tiểu đội trưởng. Anh lại cùng đồng đội đào giao thông
hào, dựng
chướng ngại vật và cầm súng chiến đấu giữ từng góc phố, từng mét vỉa hè
Hà Nội.
Ðánh nhau ở phố Huế, Ô Cầu Dền, đê Thanh Lương. Chiến đấu ở Trại Vệ
quốc đoàn
trung ương (trước cửa rạp Majestic). Ðánh vào toà Ðại sứ Pháp, lúc đó
là nhà
đại tá La-mi, trưởng phái đoàn Liên Kiểm Pháp, viên sĩ quan Pháp có
vinh dự
được có mặt trong một bài thơ Việt Nam, bài Hải Phòng 19-11-1946,
kiệt
tác của Trần Huyền Trân:
Miệng La-mi ngọt bên
tiếng súng
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Ðầu năm 1947, quân ta rút
khỏi Thủ Ðô, bắt đầu
cuộc trường kỳ kháng chiến. Lân đã là cán bộ đại đội. Anh được kết nạp
Ðảng và
đi học lớp bí thư chi bộ. Rồi làm phái viên kiểm tra của bộ tư lệnh
quân khu.
Năm ấy anh mới 19 tuổi. Ðồng chí phái viên kiểm tra của quân khu này
không chỉ
quá trẻ, mà còn có tác phong lính tráng xuề xoà, hay kể chuyện tiếu
lâm, hứng
lên còn kể cả chuyện cô đầu Khâm Thiên, theo nhận xét của trên rõ ràng
không
thích hợp với công tác kiểm tra. Ông Văn Phác bảo Lân:
-Thôi, cậu về làm báo.
Thì làm báo. Ðó cũng là
nguyện vọng vủa anh. Về
tờ Vệ quốc quân khu 2. Gặp Yên Thao, Văn Thân, Nguyễn Phúc Nghiệp ở đó.
Ít lâu
sau khu 2 sáp nhập với khu Tả Ngạn thành Liên khu 3, Lân về báo Quân
Bạch Ðằng
của quân khu 3. Liên miên những ngày đi chiến dịch: Quang Trung, đường
6, Hà Nam
Ninh... Và
vào địch hậu. Rồi theo một đơn vị pháo binh lên Ðiện Biên phủ. Tập Bảo
vệ đường
lên mặt trận là kết quả của bao ngày đêm cùng đơn vị pháo ăn bom trên
đèo Lũng
Lô, mưa dầm cơm vắt, mịt mù khói lửa, cái sống cái chết chỉ trong gang
tấc...
Chiến dịch Ðiện Biên kết
thúc thắng lợi. Một nửa
đất nước hoàn toàn giải phóng. Cha anh, nhà văn Lê Văn Trương di tản
vào Sài
gòn. Cái gánh nặng lý lịch anh mang suốt thời gian kháng chiến giờ đây
càng
nặng nề hơn. Cấp trên mời anh lên nói anh sẽ được xuất ngũ. Trần Dần
biết tin ấy,
nhắn gọi Lân về phòng Văn nghệ Quân đội, nhưng Lân không về. Chính anh
cũng
muốn rời quân ngũ dù phải phục viên như người bạn Tạ Phương Hiển "tuổi
hăm
ba treo ấn từ quan" cũng được. May sao ông Trương Công Cẩn, chính uỷ sư
đoàn là người có trách nhiệm và thông cảm với anh em văn nghệ sĩ, viết
thư cho
ông Nguyễn Lam khi đó là bí thư trung ương đoàn Thanh Niên Cứu quốc:
"Ðây
là những đồng chí có công nhưng cấp bậc thấp vì chính sách đối với văn
nghệ sĩ
của chúng ta chưa rõ ràng, nhờ đồng chí giúp đỡ tạo điều kiện cho các
đồng chí
ấy công tác bên đoàn thể, dân sự..." Thế là Mạc Lân, Tất Vinh, Vũ Lê về
báo Tiền Phong, Dương Tường về Việt Nam Thông tấn xã. Những bộ quân
phục cùng
với những huy hiệu Ðiện Biên của các anh làm sáng cả cơ quan báo, càng
thêm sức
hút đối với những thông tín viên, cộng tác viên khi họ đến toà báo.
Cũng xin
nói thêm một chút về những bộ quần áo đại quân này. Chỉ có Mạc Lân, cán
bộ đại
đội (anh ở cái cấp bậc này suốt 8 năm trường kỳ kháng chiến, từ năm
1947 tới
năm 1954) là có áo bốn túi, hai túi trên ngực và hai túi dưới vạt. Còn
Tất
Vinh, Vũ Lê cán bộ trung đội, Dương Tường cán bộ tiểu đội thì áo chỉ có
hai túi
ngực và vai áo can vá thêm hai miếng để mang vác áo vẫn bền, không
rách, loại
áo Phùng Quán đã viết thành thơ:
Nhưng áo tôi nàng không
mặc được
áo lính vá vai xanh mầu quân phục
áo lính vá vai xanh mầu quân phục
*
Ngày mới về Tiền Phong,
Lân được làm trưởng ban
Văn Nghệ nhưng phải nói rằng cái chức ấy chẳng có sức hấp dẫn chúng
tôi, kể cả
chính Lân. Ðiều hấp dẫn chúng tôi là lao vào cuộc sống, lao vào thực
tế, vừa
viết được những bài đặc sắc cho báo vừa tích luỹ cho sáng tác văn
chương sau
này. Vũ Lê Mai đi sâu vào công nghiệp, Nguyễn Trí Tình rực lửa anh hùng
sẵn
sàng đến tất cả những mũi nhọn của công cuộc xây dựng. Văn Kim Kim với
vốn
Trung văn giầu có, áp cặp kính cận xuống những tạp chí Trung Quốc,
dịch, lấy
tài liệu viết về những hoả tiễn, những loại máy bay đời mới và mục Khoa
học và
Tuổi trẻ của anh bao giờ cũng hấp dẫn bạn đọc. Tôi đi về nông thôn, hết
nghiêng
sông đổ nước vào đồng (chống hạn) lại nghiêng đồng đổ nước ra sông
(chống úng).
Nhà báo già nhất cơ quan khi đó, anh Vương Mộ Thanh, bố hoạ sĩ Ðỗ Phấn
sau này
(ngày ấy Ðỗ Phấn bé tí hin, tôi hay bế Ðỗ Phấn đi chơi và dạy Phấn
những điều
ba lăng nhăng nhất, như chân thì gọi là đầu, đầu thì lại là đít, và tên
cháu là
gì? là Ông Bách Khoa, khiến anh chị Mộ Thanh phải van các chú, các chú
đừng dạy
cháu như thế nữa) cũng như trẻ lại với chúng tôi. Mạc Lân, Tất Vinh
cùng ở tổ
văn nghệ. Dễ hiểu rằng các anh phải cáng đáng những phần việc nặng nề
nhất cho
những số đặc biệt, nhất là số báo Tết: Thơ và truyện ngắn. Thơ cũng
không khó.
Tất Vinh có thể đi đặt được. Vỡ kế hoạch thì chính anh sáng tác. Nhưng
không
chỉ có vậy. Còn tuỳ bút, còn điểm thơ. Và Mạc Lân còn phải đẻ ra truyện
ngắn.
Chúng tôi, cánh trẻ mới vào nghề nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của
mình cho
số báo Tết một cách rất nghiêm túc và nộp bài cho biên tập. Và khi
đường phố đã
lác đác hoa đào, mậu dịch đã xe về cửa hàng những mứt, những rượu,
những lá
dong, gạo nếp và lòng người ai cũng náo nức cả lên, thì trong bữa cơm
tập thể,
đồng chí tổng biên tập nói lời cuối cùng: Tất cả bài đã đầy đủ, chỉ còn
thiếu
của tổ văn nghệ. Tối nay cứ làm ma-két và đầu giờ sáng mai, hai đồng
chí ban
văn nghệ phải có bài. Ðấy là thời hạn chót.
Ðồng chí nói vẻ nghiêm
khắc nhưng không có ý gì
bực bội. Ai cũng biết sáng mai tổ văn nghệ sẽ nộp đủ bài. Ai cũng biết
"hai ông tướng văn nghệ" là cứ phải nước đến đít mới viết được ra.
Ðêm ấy Lân, Vinh thức khuya, hẳn rồi. Tôi chong đèn ra sân chơi bóng
bàn. Ðã
khuya, anh em đã mệt, đi nghỉ cả, tôi ghé lên gác nhìn hai anh đang
miệt mài
cặm cụi. Cả hai cùng quay mặt vào tường im lặng viết, nhưng khi tôi lên
các anh
biết ngay. Mạc Lân quay ra nhìn tôi cười. Anh gọi Tất Vinh:
-Vinh. Nghỉ đã. Ði uống cà
phê.
Tất Vinh đứng lên, khoái
chí ngâm nga mấy câu
thơ cửa miệng tả vẻ đẹp của người con gái bằng những vật dụng ăn uống
phổ thông
dễ hiểu nhất:
Môi em mọng đỏ cà chua.
Mắt em ngọt kẹo vừng kẹo lạc.
Em cười dòn phàn xôi, phá sa.
Mắt em ngọt kẹo vừng kẹo lạc.
Em cười dòn phàn xôi, phá sa.
Ðó là dấu hiệu các anh
đang làm việc có kết quả.
Ba chúng tôi đi bộ ra phố Huế. Ra phố mới thấy rét. Gió đã hẳn. Còn
sương.
Ðường phố vắng. Lá khô lăn dưới lòng đường, trên vỉa hè. Chúng tôi ôm
lấy nhau
đi. Ba chàng phóng viên Tiền Phong chưa vợ cảm thấy cuộc đời sao đáng
yêu đến
thế. Chúng tôi uống cà phê vỉa hè. Ông cà phê vỉa hè ngã tư Hàm Long
phố Huế
hình như bán hàng suốt đêm. Hàng ông lúc nào cũng đông khách. Càng rét
càng
đông. Bởi vì các quán cà phê vỉa hè khác người ta thường pha cà phê bít
tất
nghĩa là cho cà phê vào túi vải rồi đem ninh lên. Còn ông, ông pha phin
theo
kiểu Pháp. Cốc đựng cà phê đặt vừa trong một cái ống bơ sữa bò có nắp
đậy, có
quai giây thép quấn vải cầm cho đỡ nóng. Khách hàng mỗi người một phin,
một ống
bơ, quây quanh cái bếp lò than quả bàng. Chung quanh bếp và ngay trên
những hòn
than miệng bếp, chen sát nhau là những ống bơ đen khói đựng nước lúc
nào cũng
sôi sùng sục để làm nóng cà phê theo lối cách thuỷ. Ngồi dưới sương rơi
buốt
vai, buốt lưng nhưng da mặt ửng hồng, rát lên vì lửa, huơ huơ hai bàn
tay quanh
bếp, xì xụp thứ cà phê nóng bỏng đậm đặc bắt môi bắt lưỡi, vai chen vai
dù
không quen biết, dù rì rầm câu chuyện hay yên lặng, khách hàng cũng
hoàn toàn
hiểu nhau. Nhấc lên đặt xuống cái ống bơ, lấy kẹp gắp một hòn than đặt
đúng chỗ
cho ngọn lửa lên vừa phải, cho ống bơ của mình không bị cập kênh, lấy
một cái
đóm giấy lách vào khe than hồng rồi mồi lên điếu thuốc, im lặng nhả
khói, mọi
người cùng hưởng những giây phút thư dãn tuyệt vời quanh bếp lửa. Ông
chủ hiệu
cũng hoàn toàn yên lặng. Ông chỉ nói khi phải tính tiền với khách. Và
giọng nói
của ông. Ðúng là giọng nói của người quanh năm ngồi bên bếp lửa. Nó có
mùi
khói. Nó ngàn ngạt khê khê, ấm áp vô cùng. Ba chúng tôi đứng lên. Rời
xa bếp,
rét. Chúng tôi lại khoác vai nhau. Vẫn im lặng. Chỉ có tiếng lá khô gió
thổi
lăn dưới lòng đường, lăn trên vỉa hè. Bỗng Lân reo lên:
-Tao nghĩ ra được cái kết
của truyện rồi. Cô gái
sang đò về đến đầu làng thì trời đã tối. Cô leo lên bờ đê và thấy sao
đã mọc.
Càng nhìn lâu càng thấy nhiều sao. Những ngôi sao như những hạt ngô mẹ
tẽ ra
phơi nắng ngày mùa.
*
Cái truyện ngắn số báo Tết
ấy cũng như tất cả
các bài trên báo khác của Mạc Lân đều ký tên Hoàng Hoan. Hình như đó là
cái tên
đã được đặt trước cho con anh dù nó chưa sinh, dù nó là trai hay gái.
Về Tiền
Phong ít lâu Mạc Lân lấy vợ. Sinh cháu gái Hoàng Hoan. Mặc dù Lân đã
chạy sang
hàng ngũ có vợ có con nhưng cánh chưa vợ chúng tôi vẫn cứ coi anh như
một thành
viên. Chúng tôi xem vợ chồng anh tắm cho cháu. Chúng tôi quây quanh
Hoàng Hoan
reo hò động viên Hoàng Hoan tênh tênh. Bật cười khi thấy Lân với cái cù
dìa bột
chạy theo cháu ép cháu ăn và cằn nhằn:
-Tao nuôi mày thế này mà
mày ngày sau lại cứ em
yêu nhất anh.
Và khi cháu bốn năm tuổi,
chúng tôi có xoa đầu
vuốt tóc Hoàng Hoan thì Hoàng Hoan hất tay chúng tôi ra, nói với giọng
con nít
gần như nhăn nhó:
-Ðầu để nghĩ. Không phải
để xoa.
Tất cả chúng tôi cười ầm.
Hoàng Hoan cũng cười
toe toét. Mạc Lân sung sướng xốc con lên vai đi quanh phòng:
-Ðúng. Ðầu để nghĩ! Con
gái bố giỏi lắm. Ðầu để
nghĩ.
Mạc Lân muốn con bé con có
cái đầu không phải để
xoa, mà có cái đầu để nghĩ. Và tất nhiên, cái đầu của anh cũng là để
anh suy
nghĩ. Nói đúng ra kiểu dạy con như vậy là đùa chơi nhưng cũng chỉ có
Lân dạy
con kiểu ấy. Ðó là phản ứng của anh với tình trạng có những cái đầu chỉ
nghĩ
theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình.
Chẳng phải vì là bạn với
Trần Dần, Phùng Quán mà
anh tán thành những quan điểm của báo Nhân Văn. Không chỉ trong suy
nghĩ anh
còn phát biểu thành lời. Tất nhiên anh không được tin tưởng nữa. Ðang
là trưởng
ban Văn nghệ, anh sang làm trưởng ban bạn đọc, rồi xuống làm phóng
viên. Lương
từ bậc 11 hạ xuống còn bậc 7. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vốn không
thích ở nhà
duyệt bài, giữ gôn, mà muốn đi cơ sở. Bắt đầu cuộc chiến tranh leo
thang Giôn
xơn. Miền Bắc mới được 10 năm im tiếng súng và đang tận lực chi viện
cho miền Nam
giờ đây
phải trực tiếp chiến đấu. Những nơi chiến sự ác liệt nhất đều có Mạc
Lân. Cơ
quan cử anh đi vì anh là người xông xáo, không ngại hiểm nguy, nắm bắt
vấn đề
nhanh, viết bài nhanh, hơn nữa trước đây anh từng là phóng viên mặt
trận. Yên
Vực, Hàm Rồng, Nam Ngạn, Ðò Cấm, Cầu Hổ,
Cầu
Vằn... đều có anh. Những địa danh giờ đây không gợi một ý niệm gì nhưng
ngày ấy
là lương tâm của toàn dân tộc. Ðó là quyết tâm của một bên là khoa học
kỹ thuật
hiện đại tối tân nhất, sức mạnh quân sự hùng hậu nhất của Mỹ và đồng
minh với
một bên là ý chí gang thép, của quân và dân miền Bắc giữ vững mạch máu
giao
thông đưa người và súng đạn của cải vào miền Nam chiến đấu. Ðời làm báo
của Mạc
Lân từ đó là những chuyến đi đột xuất tới những vùng lửa đạn, vất vả,
gian khổ,
nhịn đói, đêm hôm, nguy hiểm. Lân đã tận mắt chứng kiến nhiều chuyện.
Những
chiếc cầu bị đánh sập. Những chiếc máy bay bị bắn đứt ngang đâm thẳng
xuống gần
trận địa. Những trận địa pháo bị trúng bom, những cô gái đi thăm chồng
là pháo
thủ bỗng trở thành những người tiếp đạn trên trận địa, ẩn hiện trong
khói lửa,
quần áo, da tóc khét mùi thuốc đạn. Trận chiến đấu kết thúc, sau khi
thay phiên
trực chiến, sau khi đã xuống sông tắm gội và ăn uống, nghỉ ngơi, hai vợ
chồng
người chiến sĩ nọ tràn đầy tình yêu bước vào căn buồng của riêng họ:
căn buồng
hạnh phúc. Lân kể lại chuyện ấy cho tôi nghe trong một lần anh xuống
Hải Phòng
(tôi đã từ báo Tiền Phong chuyển về báo Hải Phòng hồi cuối năm 1959)
viết về
nhưng con tầu mở đường mòn trên biển. Anh sôi nổi:
-Giá ông nhìn thấy hai vợ
chồng người chiến sĩ
nông dân chân chất ở trận địa cầu Hàm Rồng. Buổi chiều còn tơi bời khói
lửa,
gần như không phải con người bằng xương bằng thịt nữa mà là sắt thép,
cái sống
cái chết liền nhau mà buổi tối thì trẻ trung tươi tắn thế. Cô cậu
ngượng chưa
muốn vào nhà hạnh phúc ngay, còn đi la cà buồng nọ buồng kia nhưng đi
đến đâu
cũng bị xua đuổi. Người ta không muốn cô cậu mất thì giờ vì họ. Thời
gian quý
lắm. Nhất là thời gian giữa hai trận đánh.
Và gật gù:
-Tôi sẽ viết một cái
truyện ngắn về cái lực Việt
Nam. Về một đôi vợ chồng chiến sĩ như tôi vừa kể cho ông. Chiến đấu
suốt buổi
chiều, đến tối, khi cửa phòng hạnh phúc khép lại, chị vợ hỏi chồng: Mệt
thế anh
có chiều em được không? Anh chồng cười: Ðược chứ, sao lại không? Nhưng
anh
chiều ít hay chiều nhiều? Chiều nhiều. Chẳng thể nào diễn đạt được hai
tiếng
chiều nhiều Lân nói. Quai hàm bên dưới trẹo đi. Vừa âu yếm vừa nũng nịu
mà chỉ
Mạc Lân mới có.
Tôi không biết anh đã đặt
bút viết cái truyện
ngắn ấy chưa. ý tưởng về truyện ngắn này nẩy sinh trong lần về trận địa
Hàm
Rồng nhưng nó bắt nguồn từ những suy nghĩ sâu xa hơn. Ngày ấy người ta
sợ viết
về tình yêu trai gái. Ngày ấy những con người chiến đấu được giản lược
đi đến
mức tối đa. Lân bảo: Bọn Liên Xô sang đây nó bảo nhân vật của các anh
không có
bộ phận sinh dục à? Cứ đọc sách của mấy ông viết thì đúng như thế thật.
Nhưng
tôi cam đoan với ông rằng trong Nam đang chiến đấu gay go như thế nhưng
người
ta vẫn yêu nhau, vẫn ghen tuông, vẫn ngoại tình, vẫn ngủ với nhau. Cuộc
sống
ông ạ. Không có gì dập tắt được cuộc sống. Chỉ có chúng ta dập tắt nó
trong
sách thôi.
Những suy nghĩ kiểu như
vậy ngày ấy cũng là lạc
lõng, cần phải uốn nắn. Lân biết rằng thật khó mà viết được một cái gì
đó chân
thực. Nhưng anh vẫn đi. Vẫn đến với những nơi nguy hiểm nhất. Những tấm
gương
chiến đấu của quân dân ta ở tuyến lửa động viên anh. Khi bom Mỹ đánh
trúng trại
hủi Quỳnh Lập, anh đang ở khu 4. Lấy xe đạp đạp suốt đêm tới Trại hủi,
lấy tài
liệu viết bài ngay, nghĩ tới anh em trong toà soạn đang ở Hà Nội, Lân
tự thấy
mình là "ghê", nhưng ý nghĩ ấy biến mất ngay khi anh đến phòng mổ của
các bác sĩ: Vi trùng hủi Hansen lây bằng đường máu mà các bác sĩ mổ cho
những
người hủi bị trúng bom không có găng tay! Ðến những mũi nhọn trong
chiến đấu,
đó là lương tâm -và cũng có thể là tự ái nghề nghiệp- của anh, là máu
mê của
anh nữa, chứ anh hoàn toàn không tin là anh sẽ được lãnh đạo báo tin
tưởng. Cho
nên mỗi khi thấy lãnh đạo tươi cười với anh là anh cảnh giác. Như một
hôm, một
uỷ viên biên tập thân mật vỗ vai anh, anh hiểu ngay là sắp có nhiệm vụ
đột
xuất. Quả nhiên, người uỷ viên biên tập nói với anh: -Nó đánh Nam Ðịnh
rồi. Thế
là ba lô xe đạp guồng suốt đêm về Nam Ðịnh viết Thành phố dệt nổ súng.
*
Năm 1967 Mạc Lân rời khỏi
báo Tiên Phong. Lê Bầu
sau khi đi học phiên dịch ở Trung Quốc, công tác ở ngành bưu điện đã
xin chuyển
được về Hội Văn Nghệ Hà Nội. Bầu kéo Lân về đó. Lân về Hội Văn Nghệ Hà
Nội vì
hai lý do: Anh không thể ở báo Tiền Phong được nữa mà Hội Văn Nghệ Hà
Nội lại
có báo, có nhà xuất bản, nghĩa là có đất dụng võ như lời tán của Bầu.
Nhưng cái
đất dụng võ ấy đâu có phải là của Mạc Lân mà cũng chẳng phải của Lê
Bầu. Có một
ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh hơn văn bản mà tất cả
các báo,
các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt để và nghiêm chỉnh là không in
bài của
Mạc Lân, Lê Bầu. Nếu hãn hữu có in cũng không được ký tên hai người.
Người ta
thực hiện triệt để tới mức tập Người Hà Nội có bài của Mạc Lân, Lê Bầu
thế mà
tên không được in đã hẳn, nhuận bút cũng không có nốt. Túng thiếu. Mà
phải có
tiền. Phải sống.
Ðang loay hoay với kế mưu
sinh thì Dương Tường
đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết
cho Mạc
Lân vấn đề cực kỳ khó khăn ấy: Ði bán máu. Lân tròn xoe mắt, sửng sốt
và bất
ngờ. Bán máu? Bán ở đâu? Bán như thế nào? Ai mua? Ông lại sáng tác ra
chuyện gì
nữa thế? Không phải chuyện sáng tác, hư cấu. Người thực việc thực một
trăm phần
trăm. Chuyện của chính tôi. Chính tôi đã đi bán rồi đây ông ạ. Có mà
trời tin.
Ðừng bịp nhau. Người một tay xách nặng như ông mà đi bán máu. Trông
thấy ông
người ta cũng đủ ngán rồi. Ông không tin thì thôi. Bốn hai cân như tôi
mà bán
được máu đấy. 200 xê xê đàng hoàng. Ông ăn chắc mỗi kỳ 250 xê xê. Thế
thì đúng
rồi. Nhưng bán ở đâu? Thủ tục ra sao? Lân mừng như người chết đuối vớ
được cọc.
Thế là Tường giảng giải. Và để kết luận, Tường bảo: "Tôi sẽ đưa ông
đi." Lân không nhờ Tường đưa đi. Anh tự đi. Tường động viên: Cũng nhiều
chuyện phức tạp, lôi thôi lắm, chứ không đơn giản đâu. Không biết gan
của ông
có vấn đề gì không. Có vi trùng sốt rét không. Ở bộ đội thằng nào chẳng
sốt
rét. Thôi cứ đi. Ðược hay không thì cũng là một lần tổng kiểm tra sức
khoẻ. Từ
bé đến giờ chúng mình đã kiểm tra sức khoẻ bao giờ đâu.
Nghe lời Tường dặn, Lân
mua nửa cân chè Thái đến
gặp phó phòng huyết học bệnh viện Việt Ðức như một cái lễ ra mắt. Anh
được
khám, được X quang tim phổi, thử máu, thử nước tiểu không mất tiền.
Không bệnh
truyền nhiễm. Không viêm gan. Không có vi trùng sốt rét. Lại còn được
nghe
giảng về huyết học. Cho đến bây giờ anh mới biết thì ra hồng cầu ba
tháng chết
một lần, và cũng cứ ba tháng tuỷ sống lại sản sinh ra một thế hệ hồng
cầu mới.
Hồng cầu chết nằm trong lá lách. Ðó là nghĩa địa hồng cầu. Máu thì có
bốn nhóm
tất cả. A, B, O, AB. Nhóm máu AB là nhóm máu ích kỷ, rất ít người có
nên bệnh
viện không mua, khó bán. Nhưng khi cần người ta đến tận nhà mua và lại
bán được
đắt. Còn nhóm máu O được gọi là nhóm máu xã hội chủ nghĩa, tiếp được
cho các nhóm
máu khác. Nhóm máu của Lân thuộc nhóm B, chẳng ích kỷ cá nhân chủ nghĩa
mà cũng
chẳng xã hội chủ nghĩa. Lấy máu theo trọng lượng cơ thể. Tường chắc mỗi
lần bán
chỉ được 150 cc. Lấy 200cc có thể do cảm tình gì đó. Lân 60 ki lô mới
được lấy
200cc. Về sau những lần cần tiền Lân đeo thêm chì vào người để đạt
trọng lượng
70 ki lô và bán được 250, 300cc, anh nghĩ chắc Dương Tường cũng giở trò
gian
lận này. Lấy xong máu, cầm biên nhận đến tài vụ lĩnh tiền, nhận phiếu
bồi
dưỡng. Tiền tính theo xê xê còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được
lĩnh
tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một
ít máu
nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu
rất vui.
Con người mình bỗng nhiên tăng thêm giá trị trước gia đình và trước bao
cặp mắt
của cánh phe vé, bỗng nhiên mình được bao bọc quấn quít giữa những cái
nhìn
trìu mến, tình cảm, hò hẹn của đám đàn ông đàn bà chuyên sống bằng buôn
bán tem
phiếu lúc nào cũng có mặt ngoài cổng bệnh viện. Ðội ngũ phe vé cũng
đông xấp xỉ
đội ngũ những người bán máu. Giá cả dễ thống nhất. Giá làng. Người trao
tiền,
người trao phiếu là xong. Ðiều gay go nhất là tiêu chuẩn bồi dưỡng còn
được một
bát phở tái bò, nhưng phải xếp hàng ăn ngay tại hành lang bệnh viện.
Những lần
đầu đứng ngồi xì xụp bát phở ngoài hành lang ngượng lắm. Cắm mặt mà và,
mà xụp
xoạp cho nhanh. Nhưng rồi quen. Nghĩ mình lương thiện. Quá lương thiện.
Lương
thiện gấp trăm lần những người khác. Chẳng có gì mà xấu hổ. Thế là dần
dần cứ
ăn bình tĩnh nhẩn nha. Chẳng nuốt vội nuốt vàng như trước. Ðể thấy chất
bổ ngấm
vào người, vào máu. Ðể thấy mình đang hồi phục. Ðể thấy máu mình lại
đang nẩy
nở sinh sôi. Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như
đang ngồi
nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những
cái tên
bất ngờ nhất:
-Chính Yên!
-Phan Kế Bảo!
-Phan Kế Bảo!
Hay đang bưng bát phở lên
ăn, nghe tiếng gọi
giật giọng:
-Phương Nam!
Toàn những người quen.
Toàn những trí thức.
Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là
lương
thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng. Người bán máu nuôi con đi
học.
Người lương hưu ít ỏi không đủ sống. Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn
gàng. Mặt
mũi sáng sủa, đi lại rón rén nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có
học. Ðấy
là một loại. Loại này đông nhất. Loại thứ hai ít hơn: Những nam nữ
thanh niên
còn rất trẻ, quần áo bít dít cười nói trò chuyện ồn ào. Ðó là cánh
thanh niên
đua đòi ăn chơi tung tẩy rủ nhau đi bán máu lấy tiền mua nhẫn vàng mua
đồng hồ
quần bò áo phông. Còn dân bán máu chuyên nghiệp lại khác. Giống cánh
trí thức.
ít nói. Có nói cũng rất khẽ. Khuôn mặt đầy lo lắng ưu tư. Họ có nhiều
sổ, bán ở
nhiều nơi. Có khi lên cả Sơn Tây, Thái Nguyên. Về cả Thái Bình. Họ chưa
đến hạn
được bán. Họ sợ máu họ loãng. Họ sợ bệnh viện nhận ra sự gian dối của
họ. Dân
chuyên nghiệp bán máu xong là đổ xô đi mua viên sắt, uống nước cua
sống. Hy
vọng như vậy sẽ có đủ huyết sắc tố cho đợt bán sau. Dân chuyên nghiệp
vén ống
tay áo lên nhìn biết ngay. Chằng chịt vết kim. Lân bán máu sau Tường.
Nhưng Lân
là người theo đuổi cái công việc này lâu nhất. Khi kẻ viết bài này lang
thang
từ các miền rừng núi trở về, đã sẵn có nghề trong tay, Lân đi bán máu
đột xuất,
chiêu đãi y một bữa bún chả, ăn trong căn buồng hẹp nhà Lê Bầu phố
Phùng Hưng.
Một bữa ăn vĩnh viễn nằm trong trí nhớ.
*
Năm 1971 Mạc Lân xin nghỉ
hưu non. Tình thế bắt
buộc, mặc dầu anh không muốn. Thật không ngờ: Nghỉ hưu, anh lại có
nhiều việc
để làm. Cái chuyện anh không được viết, hoặc được viết nhưng không được
in hay
được in nhưng không được ký tên cũng không được nhận nhuận bút cả bàn
dân thiên
hạ đều biết. Và nhiều người tìm đến anh . Ðó là những người đang đi vào
con
đường viết lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người
đang muốn
có một cái truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo
và giờ
đây đang giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những
người đã có
một vài sáng tác được in và đang muốn được kết nạp vào hội văn nghệ địa
phương,
kể cả hội nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ. Hoặc muốn vây vo
với một
em nào đó. Ðể chinh phục. Ðể có thể yêu, và không loại trừ cả chuyện
hôn nhân.
Cũng nhiều khi đơn giản chỉ là một cách kiếm ăn, phe phẩy, nhận việc,
không
phải làm mà vẫn có tiền tiêu, hơn nữa có tiếng tăm. Thời ấy mọi đơn đặt
hàng
đều là truyện ký. Một thứ người thực việc thực được văn nghệ hoá, có tả
cảnh,
tả tình, có đối thoại, một thứ văn chương tổ đội. Cái khoản ấy Lân
rành. Chẳng
cứ Lân rành. Bầu cũng rành.(Và cả tôi nữa. Cũng rành.) Bầu và Lân làm
thành một
tổ viết văn chui. Nghĩa là viết văn không cho người khác biết, trừ
người đặt
hàng mình. Việc nhiều khi không có. Nhưng cũng có lúc làm không hết. Do
người
ta tự tìm đến. Mà cũng do bè bạn khơi nguồn, tìm việc mang đến cho anh,
anh chỉ
việc viết mà không biết người sẽ đứng tên sách anh viết, người sẽ phải
trả tiền
cho anh là ai. Ðủ các đề tài. Chuyện chiến đấu trong Nam. Chuyện nhà
máy, cải
tiến kỹ thuật, mỗi người làm việc bằng hai, chuyện chăn nuôi trong hợp
tác xã
nông nghiệp. Chuyện phong trào hai tốt (dạy tốt, học tốt) ở các trường
học. Ðề
tài gì cũng được. Nhưng các ông phải cung cấp tài liệu. Bọn này chỉ
biết có
viết thôi. Ðảm bảo đúng thời hạn, đúng số trang số chữ, đảm bảo chất
lượng. Hợp
đồng chỉ thảo miệng như vậy. Còn nữa. Nhuận bút chia đôi. Cũng là thống
nhất
miệng. Nhiều khi gặp khách hàng rắn quá, Lân nhận theo tỷ lệ bốn mươi,
sáu
mươi. Người đứng tên sách ăn sáu, còn Lân ăn bốn. Chung quanh cái việc
viết văn
chui của Lân thật nhiều chuyện li kì. Có những người nhận nhuận bút rồi
nhưng
định quịt, không thanh toán tiền cho kẻ viết. Ði lại nhiều lần. Ngọt
nhạt. Mềm
mỏng. Căng thẳng. Người ta cũng không định quịt của mình. Chẳng qua là
vì quá
bốc với tác phẩm đầu tay, lỡ liên hoan hết cả tiền nhuận bút. Cuối cùng
đành
phải tháo đồng hồ Pôn-giốt đưa Lân. Làm ăn phải giữ cái mối chứ nhiều
lúc nhục
lắm ông ơi. Anh chồng bảo cô vợ thế này: Anh Lân anh ấy túng quá, anh
thuê anh
ấy chép bản thảo, tạo điều kiện cho anh ấy thêm tý thu nhập, em đến xem
anh ấy
chép xong chưa cầm về cho anh, nhà xuất bản họ giục. Tiền nong cứ kệ
anh. Anh sẽ
thanh toán với anh ấy sau. Chị vợ phục tấm lòng ăn ở của chồng sát đất.
Chồng
mình quan tâm đến bạn như thế chứ còn gì nữa. Một tấm lòng vàng! Thật
may cho
cái số của mình... Chị vợ đến gặp mình nói lại ý kiến của chồng. Mình
khất. Nói
rằng mấy hôm nay tôi bận quá chưa chép được. Chị về nói lại với anh hộ.
Chị vợ
lại hỏi: Chữ anh ấy nhà tôi khó xem lắm đấy. Tôi đọc còn khó, anh có
đọc được
không. Mình vội bảo: Tôi đã công tác ở toà soạn chị ạ, chữ viết kiểu gì
tôi
cũng đọc được. Lần đầu tiên vui vẻ. Lần thứ hai bà vợ đến mình vẫn chưa
chép
được, bà ta đã có vẻ bực nhưng cố nén. Và lần thứ ba cũng vẫn bận quá
chưa chép
được cho anh thì bà vợ không chịu được nữa. Dắt xe ra cửa còn nói đổng:
"Ðã đói còn lười. Người ta thông cảm giao việc cho làm mà không chịu
làm." Lân cười. Kể đến đây Lân cười. Rồi anh nghiêm mặt quát lên với
tôi:
"Những công việc ấy làm sao viết trước, viết sẵn được. Ông cũng viết
văn
ông còn lạ gì. Cứ là phải nước đến đít rồi mới nhẩy!" Và nhắc lại châm
ngôn anh đã nói cùng tôi: "Làm ăn phải giữ lấy cái mối. Ðành chịu. Họ
muốn
nói thế nào tuỳ họ." Bỗng cười phá lên: "Nhưng anh chồng là người
tuyệt vời. Cuối cùng thì bản thảo cũng xong. Sách in trước Tết. Nhuận
bút có
trước Tết. Ông cũng biết Tết mà có nhuận bút thì tuyệt như thế nào.
Mình đến
nhà anh ta. Hí hửng sẽ mang được tiền về cho vợ. Nhưng chị vợ anh ta
cũng có
nhà. Hai thằng chỉ nhìn nhau mà không nói. Không có cách nào đưa tiền
được.
Truyện trò giữa hai thằng tri kỉ gượng đến chín giờ tối thì mình rút.
Nhưng
thật không ngờ. Mười giờ bà vợ đạp xe tới nhà mình: -Anh Lân có mất cái
gì
không? Mình ngơ ngác: -Không. Không mất gì cả chị ạ. Chị vợ rút ra một
xếp tiền
đưa cho mình: -Anh đánh rơi tiền ở nhà tôi đây này. Khi anh về, nhà tôi
thấy ở
gầm ghế anh ngồi chỗ tiền này, hỏi tôi tiền nào đây. Chồng không mất,
vợ không
mất. Anh ấy bảo thế thì chỉ có tiền anh Lân đánh rơi thôi. Mình hiểu
ngay tất
cả. Sáng kiến ứng xử thông minh của ông chồng, sự thông cảm của ông ta
đối với
thói cần tiền của mình trong những ngày giáp Tết. Mình giả vờ lục túi
quần và
reo lên: "Chết rồi. Ðúng rồi. Tiền vợ tôi nó vừa lĩnh họ đưa cho tôi
lúc
chiều. May quá. Cám ơn anh chị."
-Nhưng sao toàn thấy bà vợ
đến nhà ông mà ông
chồng không đến?
-Ông ấy bị đau chân. Ði làm sao được.
-Ông ấy bị đau chân. Ði làm sao được.
Như mọi thứ hợp đồng khác,
hợp đồng viết thuê
của Lân có nhiều chuyện phát sinh. Chẳng hạn chuyện Lân viết (ký tên
người
khác) bỗng dưng lại ăn một cái giải thưởng nào đó. Như có một năm ba
truyện
ngắn Lân viết cho ba người được giải thưởng (của Hà Nội và của Tổng
công đoàn).
Người ta có thể quên hẳn Lân. Nhưng những người trúng giải thường là
những
người rộng rãi biết điều. Lộc bất khả hưởng tận. Ba cái giải thưởng ấy
Lân đều
được chia 50 phần trăm. Trần Dần, Phùng Quán đem tiền đến cho Lân. Hai
người
này nhận việc cho Lân. Người nhận giải chẳng biết Lân là ai. Họ chỉ
biết có ông
Dần, ông Quán.
Có một điều Lân lấy làm lạ
là cái người chỉ đứng
tên cho văn bản mà không hề viết lấy một dòng khi sách đã được in, gặp
Lân là
người đã viết ra nó lại cứ trò chuyện với Lân theo cái kiểu như chính
anh ta là
người đã sáng tác ra nó, chính anh ta là tác giả. Hoặc nói một cách rất
bề
trên: "Ðoạn ấy viết được. Mình đi đến đâu người ta cũng khen. Dư luận
tốt
lắm." Anh lắc đầu: Cũng nhiều lúc muốn tống một quả đấm vào mặt họ
nhưng
lại cố nén. Rồi cười: Làm ăn phải giữ lấy cái mối.
Nghề viết thuê có nhiều
lúc nhục nhưng cũng có
lúc vinh. Ấy là cái lần Lân đi viết lịch sử đảng bộ Thuận Hải, tên gọi
chung
cho hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận thời còn đang sáp nhập làm một.
Chưa bao
giờ anh có một công việc quy mô như vậy. Nó hứa hẹn với anh nhiều tháng
có công
ăn việc làm và do đó thu nhập cũng khá hơn. Người dắt mối cho anh là Tạ
Văn
Bảo, trưởng ban công nghiệp báo Tiền Phong vào cái hồi anh làm trưởng
ban văn
nghệ. Tạ Văn Bảo đã vào biên uỷ báo rồi chuyển sang làm giám đốc nhà
xuất bản
Thanh Niên. Khi đó nhà xuất bản Thanh Niên đang có một chương trình
liên kết
kinh tế gì đó với tỉnh uỷ Thuận Hải. Biết tỉnh uỷ Thuận Hải muốn có một
bộ lịch
sử tỉnh đảng bộ, Bảo đã đưa từ Hà Nội vào một cây bút có tín nhiệm để
viết.
Nhưng bản thảo đổ. Không đạt. Mà không thể không có bản thảo, không thể
không
xuất bản tập lịch sử Ðảng bộ. Bảo nghĩ đến Lân, một người chắc chắn sẽ
có bản
thảo, hơn thế, một bản thảo tốt. Lân nói với Tạ Văn Bảo: -Nhưng ông
cũng biết
rồi đấy. Tôi không phải đảng viên, viết lịch sử Ðảng có được không? Với
lại tôi
chỉ viết giai đoạn từ khi thành lập Ðảng tới Tổng khởi nghĩa thôi đấy.
Bảo nói
không có vấn đề gì, thu xếp vào trong ấy càng sớm càng tốt. Vợ chồng
Lân vay
giật được 200 đồng. Hằng, vợ Lân khâu vào mỗi cái quần lót của Lân một
cái túi
con, để cho tiền vào đó, miệng túi cài ghim băng cẩn thận. Mùa hè năm
1982 Lân
vào Phan Thiết với 200 đồng, 200 điếu thuốc lá cuốn, một quyển sổ tay,
vài cái
bút bi, anh gặp các đồng chí trong tỉnh uỷ. Lân thấy cần trực tiếp nói
rõ nhân
thân của mình với tỉnh uỷ: - Trước đây tôi là đảng viên, nhưng từ lâu
tôi không
sinh hoạt Ðảng nữa. Các anh xem tôi có đủ tiêu chuẩn làm việc không. Và
tôi
cũng báo cáo với các anh là tôi chỉ viết lịch sử Ðảng bộ từ năm 45 trở
về trước
thôi. Nói rõ như vậy để các anh quyết định... Ðồng chí đại diện tỉnh uỷ
nói với
Lân: - Việc đó là của chúng tôi. Không phải việc của anh. Việc của anh
là viết.
Còn lại là việc của tỉnh uỷ. Chỉ đến khi công việc chắc chắn rồi Lân
mới dám mở
ghim băng lấy tiền khâu trong quần lót ra tiêu.
Hẳn là bản thảo tốt nên
khi hoàn thành, tỉnh uỷ
hỏi Lân về giá cả, Lân rụt rè nói con số mười lăm nghìn đồng, một con
số mà
chính anh cũng hoảng lên nhưng anh còn nhận được số tiền cao hơn thế:
hai mươi
nghìn đồng! Tỉnh uỷ còn nói sẽ có một tặng phẩm cho Lân. Lân nghĩ ngay
đến vợ.
Anh mạnh dạn đề nghị cái tặng phẩm mà tỉnh uỷ ưu ái dành cho anh sẽ là
một suất
tầu khứ hồi Nam Bắc để vợ anh có thể vào Sài gòn, tới Phan Thiết cùng
với anh.
Vấn đề quá đơn giản. Ðề nghị của anh được chấp nhận ngay. Ít ngày sau
Hằng vào
Sài gòn, ra Phan Thiết. Hai vợ chồng sống như những cặp vợ chồng nhàn
cư đi du
lịch. Ðó là anh trả cái ơn, cái nghĩa đối với vợ mà nếu không có chuyến
đi viết
này anh sao làm được.
Ôi! Một khi cái vận nó đã
đến thì như vậy đấy.
Cứ tự nó đến thôi. Khi nó không đến thì muốn cũng chẳng được. Vừa hoàn
công
việc với tỉnh uỷ đã lại có công việc mới: Ký hợp đồng viết lịch sử tỉnh
đoàn.
Chưa xong lịch sử tỉnh đoàn đã ngấp nghé lịch sử huyện đoàn. Cứ như vậy
mà thừa
thắng xông lên.
Nhưng cuộc đời luôn dành
cho anh nhiều vố. Khi
anh đã hút hết 200 điếu thuốc lá cuộn, khi Hằng đã trở ra Hà Nội, khi
anh đang
ngồi viết lịch sử tỉnh đoàn, anh bỗng thấy như có ai đánh rất mạnh vào
ngực.
Mặt mũi sây sẩm. Choáng váng như muốn ngất. Ngực thắt lại, đau nhói.
Nghẹt thở.
Có một cái gì cứ cắn trong lồng ngực... Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên
của anh mà
anh không biết. Từ Phan Thiết, anh trở vào thành phố Hồ Chí Minh khám
bệnh ở
bệnh viện Gia Ðịnh. Huyết áp 170 trên 100. Bác sĩ bảo đối với người
già, huyết
áp như vậy bình thường. May sao anh gặp Vấn, một bác sĩ bạn anh từ hồi
còn ở Hà
Nội. Vấn khám, kết luận anh nhồi máu cơ tim và đưa đến bệnh viện Ðiện
Biên Phủ
(Saint Paul cũ). Thở ô-xi. Truyền máu. Tiếp nước. Các bà xơ rất tận
tình phục
vụ nâng giấc đêm hôm. Quý ngài xa gia đình, mắc bệnh hiểm nghèo, chúng
tôi xin
được chăm sóc. Bẩy ngày sau Hằng mới có mặt tại bệnh viện. Hai vợ chồng
bay ra
Hà Nội bằng chuyên cơ của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Cũng là trúng số hên.
Lân nằm
bệnh viện với giấy giới thiệu của tỉnh uỷ Thuận Hải gửi tới T78, nghĩa
là Văn
phòng Trung Ương Ðảng phía Nam. Chuyên cơ của Thủ Tướng còn thừa hai
chỗ. Hai
chỗ ấy được dành cho vợ chồng một người bệnh nặng thuộc T78!
*
Ðầu năm 2002 tôi gọi điện
cho Lân. Chúng tôi duy
trì cách liên lạc này để vẫn biết tin về nhau, được nghe giọng nói của
nhau, dù
nó hơi đau hào, bởi vì có bao giờ nhấc máy mà chúng tôi nói với nhau
dưới năm
phút đâu. Mà lương hưu của hai đứa chúng tôi sau bao kỳ tăng -mỗi kỳ 25
phần
trăm- đều không quá 250 nghìn, nghĩa là vừa đủ cho hai cái đám cưới và
một cái
đám ma. Mà ở tuổi chúng tôi, con bạn lấy vợ lấy chồng nhiều, còn bạn
thì cũng
đã có hiện tượng lần lượt nằm xuống.
Tiếng của Lân qua ống nghe
áp vào tai tôi đã
khác trước nhiều. Giọng nói của anh qua mỗi lần điện thoại một khác.
Thều thào,
mệt mỏi. Lần này lại càng mệt mỏi. Ðứt quãng, nghe cả tiếng thở dốc.
Nghe mà lo
mà thương cho anh. Vụ rét cuối năm Tân Tỵ đầu năm Nhâm Ngọ này khủng
khiếp quá.
Tám đến mười lăm độ kéo dài cả tháng.
-Tôi lại mới bị viêm thực
quản, viêm môn vị.
Phiền quá. Bệnh này khiến mình cứ phải ở nhà không đi đâu được. Chứ
không thì
cũng cố bỏ ra mười nghìn đi xe ôm đến ông Bầu, đến chỗ ông Tường chơi .
Lại thêm bệnh mới. Nghe
tiếng anh tôi lo. Anh
mệt mỏi lắm rồi. Anh là người kiên cường chiến đấu với tật bệnh. Năm
1982, lần
đầu tiên bị nhồi máu cơ tim, bác sĩ đã nói riêng với chúng tôi có cầm
cự giỏi
lắm cũng chỉ được từ năm năm đến bẩy năm, mà anh đã chiến đấu với nó,
đã cầm cự
hai mươi mốt năm rồi. Ðâu có phải chỉ nhồi máu cơ tim. Còn bao bệnh
khác, bệnh
nào cũng là trọng bệnh.
-Tôi định vào bệnh viện
nhưng bệnh viện hết
giường rồi. Với lại cũng không có người trông nom. Bà Hằng nhà tôi còn
phải đi
làm. Không đi lấy gì mà sống.
Tôi lên Hà Nội thăm Lân.
Qua nút cổ chai Cầu Giấy
đang được giải toả, nơi trước đây Lân bị tông xe và bị gẫy chân lần thứ
hai. Rẽ
vào nhà Lân. Anh đang nằm trên chiếc giường một, chăn đệm đầy người.
Một cháu
gái xinh xẻo tóc xoã đang ngồi trước bàn với những trang giấy để mở.
Tôi biết
cháu. Ðó là một sinh viên khoa báo chí trường đại học Khoa học xã hội
và Nhân
văn. Cháu ở gần nhà anh. Những lúc rỗi rãi cháu sang cơm nước, phục vụ
anh và
anh đọc cho cháu chép tập sách anh đang viết, tập sách của đời anh.
Thấy tôi cả
hai bác cháu reo lên. Cháu gái xếp bản thảo vào trong một cái cặp, đi
pha nước.
Lân hất chăn đệm ra, ngồi dậy bảo cháu:
-Hôm nay có bác Tấn, chúng
ta nghỉ làm việc.
Cháu ra ngoài kia mua cho hai bác thứ gì ăn trưa. Hai ổ bánh mì này,
mấy quả
táo này. Ông uống gì nhỉ. Bia à. Còn tôi nước ngọt.
Cháu cầm tiền ra đi và một
lát sau đã quay lại
với những thứ đó trong túi ni-lông. Cháu lấy cốc lấy đĩa bầy các thứ ra
bàn
nước và lễ phép chào chúng tôi, ra về. Chỉ còn hai chúng tôi. Vừa ăn
vừa nhìn
nhau. Lần nào lên Hà Nội gặp Lân tôi cũng cứ sờ sợ rằng đây là lần cuối
cùng
tôi nhìn thấy anh dù tôi biết bệnh tật có xúm nhau lại vật được anh
cũng còn
lâu. Tôi bỗng nhớ đến một câu của Pau-tốp-xki mà tôi đã đọc khi còn
đang tuổi
hai mươi: "Tôi viết cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít đần đi."
Ðến bây giờ tôi mới ngấm câu nói ấy. Lân xếp xếp chồng bản thảo đã được
làm vi
tính, cất vào hộc tủ:
-Cũng được một nửa rồi ông
ạ. Mình định viết bốn
cái truyện vừa độc lập. Nhưng khi ghép lại với nhau nó thành một quyển
tiểu
thuyết... Mắt anh ánh lên một nỗi khát khao. Giọng anh lại vang vọng
sắc thái
ngày nào. Tôi cầu mong anh hoàn thành dự định. Nhưng phải gấp lên Lân
ơi. Mà
không chỉ Lân. Cả mình, cả Bầu, cả Tường, cả Bão... Tất cả anh em mình.
Thời
gian gấp lắm rồi.
Ngã Sáu 29- 1- 2002 Mùa
rét năm Tân Tỵ
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
Bùi Ngọc Tấn
Rừng xưa xanh lá
(kỳ 4)
Lê Bầu - Người hiểu giá
trị của thời gian
Càng già càng ngại đi xa.
Lên Hà Nội thôi cũng
ngại. Vì bè bạn ở Hà Nội toàn nghèo. Nhà cửa chật chội. Rất ít tiện
nghi. Tuổi
già lại sinh lắm thói quen xấu. Như cái gối không đúng độ cao quen
thuộc là khó
ngủ rồi. Như hay dậy sớm. Như hay tiểu đêm. (Nói bóng bẩy theo kiểu
Nguyễn Tuân
là yếu cái chân thận.) Như hơi bị lạnh là hắt hơi. Dù không gây nguy
hiểm như
cái hắt hơi trong Cái chết của viên công chức của Tsê-khôp nhưng cũng
là phiền.
Còn vợ bạn. Con bạn... Cho nên có việc lên Hà Nội tôi hay ở nhà Lê Bầu.
Anh
sống độc thân. Lại trung tâm thành phố: Số 105 Phùng Hưng. Ðó là một di
tích
lịch sử đã được xếp hạng. Ở mảng tường sát cửa ra vào có gắn một tấm
biển đá
khắc chữ vàng: Nơi đây là trụ sở Báo Tin Tức cơ quan của Ðảng trong
thời kỳ mặt
trận Bình Dân năm 1936-1939. Một căn nhà hai tầng mặt tiền, mỗi tầng
chỉ có một
buồng, do Sở Văn hoá Hà nội quản lý. Buồng tầng trệt ngăn đôi. Buồng
trên gác
không ngăn. Bên trên bốn cán bộ ở. Bốn chiếc giường cá nhân đặt bốn góc
theo
kiểu nhà tập thể. Cả bốn người đã hưu, đã về quê, khoá cửa để đấy, mỗi
tháng
chỉ ra một lần họp chi bộ và giải quyết gạo dầu thịt mắm theo cách nói
của Lê
Bầu, nghĩa là mua các thứ định lượng trong phiếu theo giá cung cấp. (Từ
khi xoá
bỏ tem phiếu, bốn ông không ra Thủ đô nữa, căn buồng ấy các ông cho
thuê lại.)
Buồng trệt chỉ có hai người ở trong hai nửa đã ngăn đôi, tiêu chuẩn
dành cho
những người sáng tác. Một là Lê Bầu. Một là ông Lúa tháng năm kén tằm
vàng óng
Huyền Tâm. Lớp cót ngăn ngày càng cũ, càng xộc xệch, bên này thở mạnh
bên kia
cũng nghe thấy. Căn buồng vốn hẹp ngăn ra lại quá hẹp. Nó như một cái
ống, mỗi
bên chỉ có một cửa sổ và một nửa cửa ra vào. Ðể có thể đi lọt nửa cái
cửa ra
vào ấy, người ta đã phải chữa lại, làm lại cái sống giữa hai cánh cửa
cho nó
hơi thụt vào bên trong. Làm như vậy khi hai cánh cửa hai buồng (thực ra
là hai
nửa buồng) cùng đóng thì tạo ra một góc tù chứ không thành một mặt
phẳng. Mỗi
cánh cửa của một hộ độc thân nhờ đó rộng ra được một ít xăng ti mét
tính theo
hệ đo lường Pháp hay mấy inh sơ tính theo hệ đo lường Ăng lê.
Buồng hẹp như vậy nên khi
còn đi làm (Lê Bầu là
biên tập viên nhà xuất bản Hà Nội), được cơ quan thưởng một cái quạt
cần Trung
Quốc, anh không có cách nào sử dụng được nó. Quạt cao, cánh rộng, để
trong nhà
thì nó quạt gió ra vỉa hè, chỉ những người đi trên vỉa hè qua cửa nhà
anh mới
mát, nên anh làm ngược lại: Ðem nó ra vỉa hè, đặt nó ở chỗ bậc lên
xuống giữa
nhà ông Huyền Tâm với nhà anh. Nó cứ đứng ở vỉa hè, lênh khênh, ngạo
nghễ như
của một gia đình thừa mứa của cải mà quạt, mà lùa gió qua cái cánh cửa
van vát
chênh chếch đã được cải tiến vào nhà. Nhà Lê Bầu chỉ có thể tiếp được
một người
khách là đã hơi chần chật. Thế nhưng khách đến nhà anh đâu chỉ một
người. Khi
một, khi hai, khi ba, khi bốn. Những bậc lão thành như Ngọc Giao, Thanh
Châu,
những lớp cùng tuổi như Mạc Lân, Hứa Văn Ðịnh, như tôi. Lại những thế
hệ sau
như Hoà Vang hay như những ai mà tôi không biết. Tôi nhớ một tối đi
cùng Bùi
Viên, đạo diễn truyền hình đến nhà anh thì đã thấy nhạc sĩ Nguyễn Ðình
Phúc
ngồi đấy. Hai người ngồi bàn về nhạc cho phim Số Ðỏ mà Hứa Văn Ðịnh sắp
chuyển
thể lên màn ảnh nhỏ. Nguyễn Ðình Phúc nói phải đưa những nét nhạc gợi
một thời như
Trong com lê thì đặc ông Hoàng. Mó đến túi thì túi không xu. Tôi lễ
phép chào
nhạc sĩ bằng thầy. Nguyễn Ðình Phúc trố mắt không hiểu.
Lê Bầu bảo:
-Nó cũng
học Hàn Thuyên đấy.
Tôi nói rõ hơn:
-Thầy có về trường Hàn
Thuyên kéo vi-ô-lông cho
chúng em nghe bài Phiên chợ Ba Tư. Và thầy dạy chúng em làm nhạc không
son-phe.
Thầy có hát cho chúng em nghe một bài hát của một anh bộ đội sáng tác
vo, không
son-phe mà thầy bảo là rất hay. Thầy còn nhớ không?
Thầy Phúc không nhớ. Dù
thầy bảo là rất hay
nhưng thầy không nhớ. Tôi hát. Hát một mình. Ðược vài câu Lê Bầu đã nhớ
ra, hát
theo.
Trên cao một ánh nắng vàng
soi xuống
Dưới
một đoàn lính xiết tay bóp cò
Ðến cuối bài thì chính
thầy Nguyễn Ðình Phúc bật
lên hát theo thành một tam ca:
Ngắm
điểm đen chụm ba viên một
Anh
bóp cò nín thở đồng chinh không rơi
Hoan
hô! Hoan hô!
Anh
hùng xạ kích nêu gương
Nay
mai ra chốn chiến trường
Ðạn
anh tìm tới quân thù
Quân
thù tung xác lên...
Bị lây cái kích thích của
hồi ức về một thời đã
qua gian khổ nhưng tràn ngập niềm vui, Bùi Viên yêu cầu rượu. Rượu thì
lúc nào
Lê Bầu cũng có. Rượu quê. Anh không biết uống nhưng (hay chính vì vậy)
trong
nhà lúc nào cũng có rượu. Dành cho những giờ phút thăng hoa như thế
này. Chúng
tôi uống và đồng ca tiếp bài hát Nguyễn Ðình Phúc tiến cử làm nhạc nền
cho phim
Số Ðỏ:
Ði
đăng xinh thì đi che tàn
Ði
xuống xóm thì xách va li...
Bỗng một vị khách nữa ghé
vào. Trời! Tôi vốn có
một thói xấu là giữa lúc mình đang vui với những người mình hiểu mình
quen mà
lại có một thành phần lạ nào xuất hiện thì rất chi là ngán ngẩm. Nhưng
Bầu reo:
-A! Vào đây! Vào đây!
Tôi đã quên tên người
khách mới đến này. Chỉ nhớ
anh ta ở mãi đâu khu Cao Xà Lá, mới đi Hoà Bình về. Anh kể biết bao
nhiêu
chuyện về nông trường chè trên ấy, về cái sự khoán, về nhiều chị em
công nhân
nông trường nay là chủ vài đồi chè khoán, nhỡ thì quá lứa cứ muốn giữ
anh lại
trong vương quốc của họ để biến anh thành ông hoàng vương quốc. Ông
hoàng ấy
suốt ngày cơm rượu và chỉ có mỗi nhiệm vụ giúp họ sản xuất ra một đàn
con.
Nhưng anh không dám ở lại. Anh sợ vợ. Với lại anh cũng không có lực.
Bởi vì nếu
ở lại thì không thể chỉ là ông hoàng của một vương quốc. Còn nhiều
vương quốc
lắm. Câu chuyện bắt đầu chan hoà, lại một ông khách nữa đến. Cảnh khách
như thế
này không phải hiếm nên nhiều lúc tôi tự hỏi không biết Bầu viết vào
lúc nào?
Bầu có một sức khoẻ phi
thường để ngồi tiếp
khách. Người ta đến Bầu vì lòng quý mến, vì đấy là nơi có thể thổ lộ
những ý
nghĩ nghiêm túc nhất về thời cuộc, về nghề nghiệp, hay ngược lại là một
chỗ tạt
vào uống chén trà, nghỉ ngơi tí chút rồi lại lang thang đường phố Hà
Nội. Có
thể nhiều người đến Lê Bầu vì đang nhức đầu nhức óc do một chuyện gì
đấy, và
cũng như tôi, coi Lê Bầu là một thứ at-pi-rin, pa-ra-xê-ta-mon hay một
loại
thuốc gì tương tự. Quả thật, nghe chuyện Bầu kể, nghe tiếng Bầu cười,
tự nhiên
những mỏi mệt phiền muộn, thậm chí cả bực bội nữa cũng biến đi đâu hết,
ít ra
điều đó là có thật với tôi.
Chuyện Bầu kể phần lớn là
chuyện vui, chuyện
cười. Có những thông tin làm ta bực mình, những thông tin đáng buồn nào
đó thì
ngay sau những thông tin mà anh đang lấy hết vẻ nghiêm trọng ra mà nói,
ta vẫn
thấy như có nụ cười đang ẩn đằng sau làn da căng thẳng, đôi môi đang
mím, cặp
mắt đang nhíu lại kia. Bởi vì những điều gay go nhất đã đến với anh từ
những
năm nào kia rồi. Hay chí ít anh cũng đã quen với những loại chuyện ấy
rồi. Anh
không còn ngạc nhiên với bất cứ điều gì và cái chuyện anh đang kể ra
đây chẳng
có gì là lạ. Cuộc đời tất yếu nó như vậy. Ví như anh kể về nhà thơ
T.H., một
nhà thơ cũng được nhiều người biết đến:
-Ðể tôi kể cho ông nghe.
Ông xem có thằng nào
như thằng T.H. không. Ðầu năm 1968 thời gian ông đang rất gay go, còn
tôi ở Hội
Văn nghệ Hà Nội cũng đang điêu đứng vì bị nghi vấn có dính líu đến một
vụ gián
điệp, bị gọi hỏi nhiều lần, không được viết, không được in. Chỉ làm thủ
quỹ,
hàng tuần xách bị đi căng-tin mua bánh kẹo cho anh em. Trong cơ quan có
hai ông
nằm điều dưỡng ở Quảng Bá là ông T.H. và ông Huỳnh Tâm. Ông Huỳnh Tâm
là tổ
trưởng sáng tác bị dãn phế quản, không bao giờ ra khỏi cổng trạm điều
dưỡng vì
quá lo cho sức khoẻ. Thế mà hôm ấy dù mắc thêm bệnh viêm kết mạc, đau
mắt nặng
vẫn lù lù từ Quảng Bá về đền Ngọc Sơn, nói với tôi: "Bố cậu T.H. bị
ô-tô
kẹp chết ở Hải Phòng. Ông là thủ quỹ. Ngày mai mang tiền thay mặt anh
em xuống
viếng." Sau đó chánh văn phòng Hội Văn nghệ cũng chính thức giao nhiệm
vụ
cho tôi về Hải Phòng. (Nhân vật này đã đưa một bài thơ của tôi sang
công an,
tôi sẽ nói với ông sau.) Cơ quan từ chính quyền tới Ðảng, công đoàn đều
rỗi
việc. T.H. lại là người rất gần có thể nói là xoắn xuýt với lãnh đạo.
Thế mà
không ai đi. Lại cử tôi. Tôi hiểu ngay. Ðiệu hổ li sơn đây. Người ta
cần tôi
đi. Ðể khám buồng tôi ở. Làm gì có chuyện bố thằng T.H. chết. Nếu chết
thật thì
đã chẳng đến lượt tôi đi viếng. Sáu giờ chiều thằng T.H. lại dẫn xác
đến đền
Ngọc Sơn. Nó bảo nó đến ngủ với tôi để sáng mai cùng đi một thể. Chà
chà! Không
cho mình xoay xở cái gì mặc dù chẳng có gì cần đối phó xoay xở. Sáng
hôm sau
chúng tôi lên tầu về Hải Phòng. Rồi đi bộ về nhà thằng T.H. Ðến cửa nhà
nó thấy
bố nó đang ngồi tiện gỗ ở sân. Tôi bảo nó: "Bố mày không chết đâu T.H.
ạ.
Thôi tao đi đây." Mặt nó tái đi. Ông đừng nghĩ nó tái mặt vì bố nó vẫn
sống, nó ngượng với mình. Không đâu. Nó tái mặt vì mình về Hà Nội ngay
trong
khi chưa khám xong nhà mình thì thành ra nó chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Mình bảo:
"Bình tĩnh. Mai tao mới về Hà Nội. Tao còn ở chơi Hải Phòng đã. Cứ yên
tâm." Thế rồi tôi đến nhà ông.
Anh cười
dòn tan. Cuộc gặp gỡ với Lê Bầu đầu năm
1968 ấy tôi không nhớ được. Chỉ biết rằng đó là thời gian thật gay go
của chúng
tôi. Tôi cũng không được làm báo nữa. Mà là cán bộ cải tiến quản lý hợp
tác xã.
Một bước đi cũng bị theo dõi. Nghỉ ở nhà tôi một ngày đêm, sáng hôm sau
Bầu về
Hà Nội. Bước vào căn buồng của anh trong đền Ngọc Sơn, Bầu biết ngay là
nó đã
bị khám.
-Ông biết không. Khi thằng T.H. chưa đến ngủ, tôi đã kịp đóng một cái đinh nhỏ một phân ở bên trên bậu cửa phía trên cửa ra vào, treo một cái rá vào đấy. Cái rá hơi chờm xuống một cánh cửa. Trên cái đinh ấy tôi đóng một cái đinh năm phân to. Khi tôi về nhà thấy cái rá không treo ở chiếc đinh nhỏ nữa mà treo ở cái đinh năm phân. Nghĩa là đã có người đẩy cửa vào nhà, làm rơi cái rá và lại treo lên. Vì cái đinh nhỏ rất khó nhìn thấy nên ai chả treo cái rá lên cái đinh to phía trên.
Anh cười,
rất khoái về chi tiết có vẻ Sê-lốc Hôm
ấy. Và anh đã cao tay hơn người khác.
-Còn cái
này nữa. Tất cả sách mình xếp đều quay
gáy vào trong. Vì gáy sách toàn dán hồ, sợ dán cắn. Với lại sợ mất cắp.
Thế mà
khi từ nhà ông về, các gáy sách đều quay ra ngoài! Thì ai xếp sách lên
giá mà
chả quay gáy ra ngoài!
Anh lại
cười dòn tan. Và nhẩy sang một chuyện
khác cũng mệt mỏi không kém, nhưng vẫn cứ là với một giọng rất vui:
-Về sau
mình không được làm thủ quỹ nữa mà được
giao nhiệm vụ đi Chèm sưu tầm văn học dân gian. Hàng ngày đi đi về về
hai mươi
ki-lô-mét. Thực chất là một sự đầy ải. Nhưng ngày nào cũng đạp xe hai
mươi
ki-lô-mét, mình khoẻ ra. Sức khoẻ mình bây giờ tốt có lẽ cũng một phần
là nhờ
những ngày tập luyện ấy. Ngày nào cũng đi qua cầu Thăng Long đang xây
dựng,
mình mới xin cơ quan cái giấy giới thiệu để tham quan công trường. Xin
rồi,
được rồi, đút túi, định sáng hôm sau đi. Nhưng ngay buổi chiều hôm ấy
cơ quan
cho người đến thu giấy lại. Mình nhờ ông cán bộ thu giấy nói với cơ
quan là
sáng mai và cả chiều mai mình sẽ lên công trường cầu Thăng Long. Mình
sẽ báo
cáo thu hoạch với cơ quan sau. Sáng hôm sau tôi đến công trường gặp
Giáp cận.
Ông có nhớ Giáp cận không nhỉ. Nó học lớp tôi và làm trưởng phòng lao
động tiền
lương công ty cầu. Nó đưa đi. Buổi chiều thì cán bộ phiên dịch Thanh
Vân cùng
học lớp phiên dịch với tôi đưa đi. Tham quan xong mình cũng đến cơ quan
báo cáo
thu hoạch như đã hứa.
Lại cười.
Sảng khoái cười. Cười cho cái sự mình
cứ nhơn nhơn ra mà sống, nhơn nhơn ra mà yêu mà ghét, mà xót xa, nhơn
nhơn ra
mà làm việc. Ngay chuyện cái tên của anh thôi. Dạo ấy anh đã ký Lê Bầu
trên các
báo, kể cả cái tin mấy chục dòng trên báo Nhân Dân viết về gương cứu
nạn sập
hầm máy bay Mỹ. Nhưng bài của anh in trên những ấn phẩm của nhà xuất
bản Hà
Nội, nghĩa là ngay cơ quan anh, cái tên Lê Bầu bao giờ cũng bị giám đốc
xoá đi,
và viết vào đó một cái bút danh khác của anh, bút danh anh dùng trong
thời gian
khó khăn nhất: Phan Hà. Giai đoạn thay tên đổi họ đã qua rồi. Sao
vẫn...? Anh
nghĩ vậy và hỏi thẳng giám đốc. Giám đốc đầy thân ái và thông cảm: "Bọn
mình có muốn làm thế này làm gì đâu. Ðây là chỉ thị của Thành uỷ." Anh
im
lặng. Và hỏi phó giám đốc vào một lúc khác. Vốn thẳng thắn hồn nhiên,
phó giám
đốc bảo: "Làm chó gì có chuyện ấy." Bầu bảo phó giám đốc: "Anh
cho phép tôi đưa chuyện này ra cơ quan có được không? Anh cũng biết
rằng đây là
chuyện rất hệ trọng đối với tôi. Nhưng nếu anh thấy không nên đưa thì
tôi sẵn
sàng thôi, không có ý kiến gì." Vẫn hồn nhiên thẳng thắn như bản chất
của
mình, ông phó giám đốc trả lời: "Ðưa thì đưa. Sợ chó gì."
-Thế là
họp cơ quan tôi trình bầy lại sự việc và
nói: "Như vậy trong hai ông giám đốc và phó giám đốc cơ quan ta có một
thằng nói dối. Hớ. Hớ hớ.
Lại tiếng cười của Lê Bầu. Tiếng cười sảng khoái ngay khi đang vận hạn. Càng sảng khoái khi vận hạn nguy hiểm đã qua.
♦
Trong một
lần đi dạo trên đường phố Hà Nội, Vũ
Bão nói với tôi về Lê Bầu:
-Khốn
nạn. Ðã rách. Ðã phải vào ban chấm thi để
kiếm cơm. Cuộc thi đã phát động. Các nơi gửi truyện về. Ban giám khảo
đã đọc,
đã chấm xong. Chọn được giải rồi. Nhưng kế hoạch xin tài trợ bị vỡ,
không đạt
như dự kiến ban đầu. Tiền thưởng rút xuống một nửa. Tiền bồi dưỡng ban
sơ khảo,
ban chung khảo có nguy cơ không có. Mình bảo: Ban giám khảo ai không có
cũng
được. Chứ đừng để Lê Bầu không có. Cái đầu máy hơi nước này cổ lỗ từ
hồi đầu
thế kỷ nhưng phải kéo 11 toa. Không có cho nó là gay lắm.
Những
trường hợp như Vũ Bão nói không phải là cá
biệt. Tiền thù lao thường xuyên bị đe doạ. Có. Nhưng ít. Và muộn. Cuộc
thi
truyện ngắn của báo Người Hà Nội (mà Bão Vũ được giải nhất với truyện
Trầu têm
cánh phượng) thù lao cao nhất: Mỗi thành viên ban giám khảo được một
triệu
rưỡi. Nhưng nửa năm sau mới có. Cuộc thi của báo Người cao tuổi tưởng
không có thù
lao. Sau được một triệu một người. Cũng là phải chờ đợi tháng này sang
tháng
khác.
Bầu làm
mọi việc để nuôi sống gia đình. Tôi đã
thử một con tính, thấy Vũ Bão cộng nhầm. Danh sách những người Bầu phải
nuôi
hoàn toàn hoặc phải chi viện thường xuyên (mẹ, vợ, con dâu, con gái,
cháu nội,
cháu ngoại) lên tới 12 người.
Anh ra
sức kiếm tiền và chi tiêu thật tiết kiệm
đến nỗi về cuối đời có người bảo anh: Hãy tập tiêu tiền cho mình đi ông
Bầu ạ.
Anh viết báo. Anh sáng tác. Anh vào ban sơ khảo, giám khảo các cuộc
thi. Anh
dịch sách, dịch báo. Ðể có tiền nuôi mẹ, giúp vợ con, nuôi cháu. Anh
nấu lấy.
Nấu một bữa ăn hai bữa. Thức ăn phần nhiều là một món nửa xào nửa canh.
Anh dễ
ăn. Anh ăn ngon miệng. Món quà trời phú cho anh. Anh tiết kiệm cả
ruy-băng máy
chữ, xin mực in về nhuộm lại khi nó nhạt mầu. Anh dùng giấy người ta đã
dùng
một mặt, bỏ đi. Có ram pơ-luya mới nào, anh nâng niu cất đi để dành.
Ðôi khi
cũng bị nhiều vố: Những ram giấy tốt anh cất đi ấy làm mồi cho mối. Anh
chỉ hút
thuốc lá rẻ tiền: Thăng Long, Thủ Ðô, những thứ thuốc oanh liệt một
thời nhưng
giờ đây đứng cuối bảng giá. Còn bao ba số Bão Vũ cho, đút túi để dành
lại rơi
đâu mất.
Anh tham
gia các tổ cộng tác viên của các ngành
kinh tế, đặc biệt là ngành giao thông vận tải (đường sắt, đường bộ,
hàng không)
cùng với các danh nhân khác: Vũ Bão, Ngô Văn Phú, Phạm Ngọc Cảnh... Ðể
có thể
đi mà không phải mua vé, không phải mất tiền. Ðể có thể đến được nhiều
nơi trên
đất nước.
Nhận lời
mời của xí nghiệp Ðầu máy xe lửa Vinh,
anh đã vào đó viết bài. Chỉ một mình anh. Anh không ngại xa. Anh sẵn
sàng thu
xếp mọi công việc đi đến nơi mời. Ðang là mùa đông, mưa dầm gió bấc anh
cũng
chấp.
Tới nơi,
anh viết và gửi đăng báo Ðường Sắt một
bài ký về những tác giả một đề tài khoa học đã được giải thưởng. Ông
Sen giám
đốc xí nghiệp, ông Chơi trưởng phòng kỹ thuật, anh Hiến phụ trách thi
đua rất
quý anh. Một thời gian sau, ông Sen lại cho anh Hiến thi đua ra Hà Nội
mời Lê
Bầu. Kết quả của lần đi thứ hai này là hai bài báo của anh được in. Một
đăng số
Tết. Một đăng số thường. Có phong bao. Có đồng nhuận bút. Việc tưởng
cũng chỉ
đến thế. Bỗng một hôm Lê Bầu nhận được thư của ông giám đốc Sen. Không
phải thư
cảm ơn về hai bài báo của Bầu. Mà là thư bầy tỏ muốn được giúp đỡ Bầu
trong
việc thu xếp việc làm cho thằng cháu đích tôn 16 tuổi của anh. Không
hiểu sao
ông Sen lại biết ngọn ngành tình cảnh nhà anh như vậy. Anh viết thư cám
ơn về
dự định giúp đỡ tốt đẹp của ông giám đốc. Ngay sau đó anh thi đua Hiến
có mặt ở
Phùng Hưng, nơi Lê Bầu ở.
-Anh Sen
cho em ra gặp anh để nói với anh: Từ
nay đến sau Tết, bất kỳ lúc nào anh đưa cháu vào cũng có việc làm ngay.
Anh Sen
cũng nói: Tổng cục chỉ thị giảm 15 phần trăm biên chế, nhưng anh Sen sẽ
làm
việc với Tổng cục về trường hợp cháu. Giấy tờ anh Sen lo hết. Anh đừng
ngại. Cứ
đưa cháu vào.
Ðến lúc
ấy anh mới biết ông giám đốc Sen có nhận
được một bức thư của ai đó (anh không thể nào biết ai là tác giả nhưng
chắc
chắn đó là một người bạn tốt) nói đại ý: Anh Lê Bầu không muốn nhờ ai
cái gì,
nhưng gia đình rất khó khăn. Hiện có một thằng cháu đích tôn chưa có
việc
làm...
Bầu về
Bắc Giang. Nói chuyện với con dâu (con
giai anh đã mất). Hỏi thằng đích tôn năm ấy 16 tuổi. Nhấn mạnh về tương
lai
tiền đồ, công ăn việc làm của cháu. Trách nhiệm của cháu với mẹ với các
em.
Phân tích khó khăn. Rồi thuận lợi. Hỏi đích tôn mấy lần, đích tôn đều
đồng ý.
Thế là
hai ông cháu vào Vinh. Tầu đêm. Giường
nằm đàng hoàng. Dù tốn kém. Vì đây là chuyến đi lịch sử: Ông đưa cháu
đi lập
nghiệp, xây dựng tương lai.
Tới Vinh
là năm giờ sáng. Hai người vào nhà khách
nguyên là nhà chuyên gia Bỉ ở, rất sang trọng. Giám đốc Sen nói với hai
ông
cháu:
-Anh đừng
lo lắng gì thủ tục giấy tờ. Tôi bao
hết. Công việc của cháu thì thế này: Mấy tháng đầu làm lao động phổ
thông cái
đã. Không phải một lúc mà bố trí việc này việc kia ngay được. Ba tháng
sau
chuyển cháu làm bảo vệ. Nhàn thôi. Nhưng cháu phải đi học bổ túc, kiếm
lấy cái
bằng phổ thông. Bác sẽ cho cháu đi học lái tầu. Ðồng ý như vậy thì để
ông cháu
về. Cháu ở đây. Hôm sau Hiến và trưởng phòng hành chính gặp Bầu, khuyên
anh nên
gặp Long, trưởng phòng tổ chức. Lời khuyên có lý. Anh tìm Long. Không
gặp Long
mà lại gặp giám đốc. Giám đốc bảo:
-Anh về
phòng tôi. Ðể tôi bảo Long đến gặp anh.
Ba người
ngồi. Bầu trình bầy vấn đề và đề nghị
trưởng phòng tổ chức giúp đỡ. Long bảo anh:
-Xí
nghiệp em chưa nhận ai không biết một nghề
gì. Anh đưa cháu về học bất cứ nghề nào cũng được. Học xong em nhận
ngay.
Đang ngồi
ngả người trên ghế, Sen chồm nhoai lên
bàn:
-Long ạ.
Việc này là mình xin anh Bầu chứ không
phải anh Bầu xin mình đâu.
Và ra
lệnh cho trưởng phòng tổ chức: Sáng nay
làm xong giấy tờ. Chiều cho cháu học nội quy an toàn lao động. Sáng mai
bố trí
công việc.
Bầu đi
theo Long nhận những tờ khai. Long bảo:
-Trường
hợp của anh là trường hợp thứ ba. Hai
trường hợp trước là con hai ông thư ký công đoàn và giám đốc đã về hưu.
Sáng hôm
sau xong giấy tờ, động viên dặn dò cháu
đâu đấy, Bầu về Hà Nôi bằng vé của xí nghiệp. Anh rất cảm động về lòng
tốt
tuyệt vời của những người bạn thành Vinh. Và mừng vì đã gửi được cháu
vào những
nơi tin cậy. Nghĩ và tin rằng nó sẽ được học tập, rèn luyện và trưởng
thành.
Ðêm hôm sau đang ngủ, có tiếng gõ cửa. Anh ra mở cửa: Ông cháu đích
tôn! Ông
cháu đích tôn đứng lù lù giữa cửa!
-Cháu về.
Cháu không làm ở đấy nữa.
Và dù
đang mùa rét cũng nêu một lý do hoàn toàn
xác đáng:
-Cháu sợ
gió Lào!
*
12 toa
tầu chia thành nhiều cấp độ khác nhau:
Nuôi hẳn, chi viện thường xuyên, chi viện theo chu kỳ, chi viện đột
xuất. Ðâu
phải chỉ có vậy. Còn bao việc khác. Thay cái cột nhà bị mọt. Lợp lại
cái mái.
Bắc ống nước. Lắp công tơ điện. Rồi còn hiếu, còn hỷ, còn lúc ốm lúc
đau. Khi
mẹ anh bị tai biến mạch máu não còn bệnh viện, thuốc men. Lại phải cơi
cho cụ
cái buồng riêng...
Bầu làm
việc như một con ngựa. 15 năm liền anh
giữ một chuyên mục cho tuần báo Ðộc Lập, mãi tới khi báo đình bản. Ðó
là khối
lượng công việc của riêng một phóng viên chuyên nghiệp. Các báo Văn
Nghệ, Tiền
Phong, Lao Ðộng, Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ cười, Kiến Thức ngày nay, Hàng
Không, Du
Lịch, Ðường Sắt... nghĩa là gần như tất cả các báo trong Nam
ngoài Bắc
đều đã đăng các bài của anh viết hay dịch. Vũ Bão xếp anh nằm trong Ngũ
Hổ: Năm
nhà văn nhà thơ viết báo khoẻ nhất Hà Nội: Lê Bầu, Nguyễn Hà, Băng Sơn,
Tạ Hữu
Yên, Phong Thu. (Thực ra Vũ Bão đứng đầu Ngũ Hổ. Nhưng do khiêm tốn nên
có ai nhắc,
anh chỉ cười: Năm người thôi. Mình vào đó thì thành ra Lục Súc chứ đâu
còn là
Ngũ Hổ nữa.) Trong cái nghiệp dịch của Lê Bầu, cùng với những sáng tác
văn học
có giá trị của Kim Dung, Giả Bình Ao..., anh đã dịch hai tác phẩm đã
được dựng
thành phim nhiều tập và được công chúng Việt Nam rất yêu thích: Ô-sin
và Tể
Tướng Lưu gù.
Ô-sin
dịch theo đặt hàng của nhà xuất bản Hà
Nội. Khi đó phim Ô-sin đã được chiếu cả tháng trời trên màn ảnh nhỏ.
Nhà xuất
bản yêu cầu phải có sách bán trước khi phim kết thúc. Và càng có sách
sớm càng
tốt. Anh dịch theo bản tiếng Trung Quốc nghĩa là những tên Nhật đã được
Trung
Quốc hoá. Không thể dịch những tên ấy theo âm Hán -Việt. Nếu vậy Ô-sin
sẽ thành
A Tín như Huy-gô sẽ thành Vũ Quả, Xi-mô-nôp sẽ thành Tây môn nhược phu,
Phi-đen
Cat-xtơ-rô sẽ thành Phi đắc nhĩ kha tư đặc lạc vậy. May. Anh có nội
công. Chị
Hương Liên phát thanh viên đài truyền hình Việt Nam đã
phô-tô một bảng tên nhân vật
giúp anh.
Theo quy
định, cứ vài ngày nhà xuất bản lại cho
người đến lấy những trang mới dịch đi làm vi tính. Chỉ ít ngày sau khi
anh dịch
xong, Ô-sin đã được bầy bán trong các hiệu sách. Hàng ngàn quyển hết
veo. Vì
phim Ô-sin vẫn còn đang chiếu tiếp. Vì Vũ Bão, một người sợ biến thành
Lục Súc
nên nhất định không chịu đứng trong Ngũ Hổ đã viết một bài rất ăn khách
trên
báo Tiền Phong và Thế Giới Mới với cái tít giật gân: Ô-sin đã dọn về
phố Phùng
Hưng để quảng cáo cho công việc của Bầu, quảng cáo cho tập sách và cũng
là để
kiếm tiền sao cho xứng với một người... đứng ngoài Ngũ Hổ.
*
Mỗi khi
đến 105 Phùng Hưng lấy những trang Ô-sin
mới dịch, anh cán bộ nhà xuất bản Hà Nội không thể vào nhà mà chỉ đứng
dưới
lòng đường gọi để Lê Bầu mang bản dịch ra. Bởi vì trước cửa nhà Lê Bầu
là quầy
bán vải. Ðó là thời gian chợ Ðồng Xuân bị cháy lần thứ hai. Lê Bầu ngồi
dịch
sách giữa những cây vải chất đống bên cạnh, chất đống sau lưng. Cô hàng
vải
nhìn chủ nhà làm việc không còn chỗ cựa quậy, đi mua bánh cuốn, bún
hoặc bánh
mì về cho bố ăn sáng.
Hai lần
cháy chợ Ðồng Xuân, hai lần nhà Lê Bầu
thành kho vải, thành sạp vải, hai lần Lê Bầu gặt hái. Lần cháy chợ đầu
tiên tôi
đến nhà Lê Bầu, rất bực bội vì phải chen lách từ mãi đầu Cửa Nam
lại, khi
dưới lòng đường, khi trên vỉa hè. Ðến nơi thì không có chỗ để xe, không
có chỗ
len chân vào nhà. Tôi cằn nhằn: -Ðến nhà ông khổ quá. Bao giờ cho hết
cảnh này.
Bầu giẫy nẩy: -Ấy chết ông ơi. Tôi mong cảnh này kéo dài vĩnh viễn. Chợ
không
họp ở đây nữa là tôi đói đấy. Anh giảng cho tôi cái gốc cây sữa trước
cửa nhà
anh giồng ở vỉa hè, sát lòng đường cũng là tiền đấy. Hai mét chiều
ngang mặt
tiền của anh bỗng nhiên có giá. Cháy chợ Ðồng Xuân, hàng vải dọn về
Phùng Hưng.
Mỗi tháng cụ cứ ngồi viết, đọc sách hay đạp xe đi đâu đó cũng đút túi
ba trăm
ngàn đồng, nghĩa là một chỉ vàng (vàng lên ba trăm rưởi, các con giả
lên ba trăm
rưởi, không để cụ thiệt). Một chỉ vàng ngày ấy có giá trị lớn lắm,
không như
một chỉ vàng bây giờ. Vàng còn đang là mặt hàng được săn lùng, ít có
trong tủ
các gia đình. Có tiền là Bầu mua vàng. Tiền cho thuê buồng làm kho.
Tiền bán
vỉa hè trước mặt. Tiền thưởng ba lợi ích và tiền lao động ở cơ quan.
Bầu gọi
việc mua vàng là chống lạm phát. Phải chống lạm phát vì còn phải dự trữ
phòng
khi ốm khi đau đột xuất. Phải chống lạm phát vì anh chưa về nhà ở Bắc
Giang
ngay được. Phải chống lạm phát vì lạm phát đang phi mã. Trong đợt chống
lạm
phát dài ngày này, anh mua được bao nhiêu vàng không ai biết nhưng chắc
chắn có
chiếc xe đạp nội hóa Viha, do đó chiếc xe đạp Thanh Niên số khung
00012A, biển
đăng ký BN 928 mua đầu năm 1959 được nghỉ hưu sau khi đã phục vụ anh
một thời
gian non nửa thế kỷ.
Hơn một
năm sau chợ Ðồng Xuân mới đã xây xong.
Chợ vải lòng đường Phùng Hưng giải tán. Bạn bè tới tấp chia buồn với Lê
Bầu.
Thì chợ Ðồng Xuân lại cháy. To hơn trước. Trụi hơn trước. Nghe tin chợ
Ðồng
Xuân cháy ai cũng nghĩ tới Lê Bầu. Anh sẽ lại có nguồn phụ thu nhưng là
chính
thu quan trọng. Người ta còn nói: Khéo chính Lê Bầu đốt chợ. Không ai
bảo ai,
bạn bè trong Nam
ngoài Bắc đều gọi anh là "kẻ đốt chợ Ðồng Xuân" mặc dù cuộc điều tra
cho biết cháy chợ là do chập điện. Lần cháy chợ sau, Bầu thắng lớn hơn
nhiều.
Một cái vỉa hè nhưng chia làm hai dẫy. Một dẫy sát mép cống ngồi quay
mặt vào.
Một dẫy ngồi sát tường quay mặt ra. Giữa là lối đi. Ðúng là tấc đất tấc
vàng.
Bầu cười. Ôi! Nụ cười của anh mới hãnh diện làm sao!
-Ông ạ.
Khi chợ vải sắp chuyển về, bọn đầu gấu
ngõ Hàng Hương căng giây chiếm dẫy phía ngoài. Mấy cậu thanh niên nhà
bên bảo
tôi: Chú phải bảo thằng Ð đi. Chứ không nó chiếm mất của chú. Tôi mới
gặp nó.
Cháu ơi. Chỗ gốc cây sữa để lại cho chú. Chú có lời với cháu như vậy.
Rồi sau
cháu tính thế nào thì tính. Nó rất lễ phép: Vâng. Chú yên tâm. Cháu
biết chỗ ấy
rồi. Chỗ ấy là của chú. Bảo là nó nghe ngay. Hình như nó sợ nghề viết
văn của
mình hay sao ấy! Lại cười. Hớ hớ.
Tháng đầu
tiên trong đợt cháy chợ lần thứ hai Lê
Bầu đút túi hai triệu (dạo ấy to lắm, bây giờ cũng vẫn to). Giáp tường
là một
triệu ba. Giá gốc cây là bẩy trăm nghìn. Thật may. Anh mới nghỉ hưu.
Thu nhập
đang kém. Nhưng chỉ được một tháng đầu thôi. Tháng sau công an dẹp cái
dẫy phía
gốc cây quay mặt vào.
-Thôi thì
con cứ gửi ông một triệu. Những tháng
sau con lấn dần được ra con gửi ông thêm. Lê Bầu bỗng nhiên có xe máy.
81 chót
chét kim vàng giọt lệ. Vua chiến trường ngày ấy. Xe máy của vợ chồng
người bán
vải nhưng đứng tên Bầu. Hoá ra anh ta người Hà Ðông, "xin ông cái
tên" để có biển đăng ký 29 đèo hàng cho dễ.
-Con muốn
nhờ ông đứng tên cho con cái đăng ký
kinh doanh. Hoá ra chị ta không có đăng ký ở chợ Ðồng Xuân. Cũng là ghé
vào chỗ
nào trong chợ. Cháy chợ thì giạt ra Phùng Hưng.
-Ông đứng
tên kinh doanh, khi chợ xây xong chúng
con còn được vào chợ.
Bầu lắc
đầu:
-Ðứng tên
xe máy thì được. Ðứng tên đăng ký kinh
doanh thì ông không đâu. Ngộ nhỡ anh chị kinh doanh có gì trục trặc hay
thua
lỗ, vỡ nợ, trốn thuế, ông phải ra toà à. Ông không đâu. Ông cứ nói
thật. Sự
thành thật của ông có lý.
Chị vợ
cũng thành thật với ông:
-Con thuê
của ông là vải của con không phải đánh
dấu. Con thuê nhà xích lô bên kia, đánh dấu mà cũng mất bao nhiêu là
vải. Biết
ông không ăn cắp vải nên anh chị buôn vải cứ có hàng nào đẹp lại mang
vào tận
bàn viết của Bầu: -Ông xem. Vải này ông có ưng không? Con xé biếu ông
để ông đi
may. Ông lắc đầu. Ông cứ ngồi dịch. Ông cứ ngồi viết. Sáng nào cũng
phải chờ
đến tám giờ, con dọn vải ra sạp xong ông mới làm việc được. Rồi đang
làm việc
lại ngừng vì con nhập vải. Ông dịch, ông viết và những lúc mệt quá ông
lại ư ử
mấy câu của Quản Trọng thời Ðông Chu liệt quốc:
Nhất niên
chi kế Mạc như thụ hoà Thập niên chi
kế Mạc như thụ mộc Bách niên chi kế Mạc như thụ nhân [1]
Trong
căng thẳng mưu sinh, Lê Bầu vẫn hoàn thành
những việc phải làm. Chỉ kể những sáng tác gần đây của anh: Tập truyện
Những
năm tháng trôi qua, tiểu thuyết Ngã ba cô đơn, tập truyện được giải
thưởng của
Hội Văn Nghệ Hà Nội Hai người buồng bên kia, rồi Gương mặt buồn, Dòng
sữa
trắng... Và dịch: Nỗi hoài hương dằng dặc, Thị trấn Phù Dung, Ô-sin,
Giả Bình
Ao, Tể tướng Lưu gù... Riêng cái ông Tể tướng gù lưng Lưu Dung này làm
hàng
triệu người mê thích nhưng cũng làm anh ngất xỉu và phải nằm bệnh viện
khi đang
đọc lại những trang cuối cùng.
-
Lần đầu
tiên trong đời, tôi dự một trại sáng tác
tập trung. Trại sáng tác quân đội Ðồ Sơn, mùa đông năm 1999. Hơi trái
khoáy về
thời tiết. Nhưng chỉ về mùa đông trạm điều dưỡng quân khu Ba mới có
buồng trống
cho chúng tôi ở không tính tiền. Cùng dự trại với tôi có Lê Bầu. Chúng
tôi ăn
cùng nhau. Những ngày nắng ấm hiếm hoi, chúng tôi rủ nhau đi tắm biển.
Biết bao
nhiêu chuyện. Từ thời còn cùng nhau học Hàn Thuyên. Chuyện thầy cũ bạn
cũ.
Chuyện bây giờ. Mới ngày nào còn cắp sách đến trường, hôm nay đã là
những ông
lão cả rồi. Khi đợt rét đầu mùa ập đến, Lê Bầu đi chợ Ðồ Sơn mua quần
áo Sida.
Cái áo đầu tiên mua về giá hai mươi ngàn đồng, anh định cho tôi, nhưng
bị đại
tá Nam Hà mua lại ngay trong bữa cơm vì tôi đã có áo rét rồi. Lần thứ
hai anh
mua cái quần cũng hai mươi ngàn đồng, "người mẫu" Ðình Kính mặc thử
và không rời ra nữa. Lần thứ ba anh mua bộ com-lê, giá sáu nhăm ngàn.
Phải nói
bộ này rất đẹp, mặc vào ai cũng khen:
-Cứ thế
này đi họp Ðại hội Nhà văn được rồi.
Bầu cười:
-Nhưng
còn xem có trúng đại biểu không đã chứ.
Lê Lựu
bảo:
-Thế là
com-lê có rồi. Chỉ còn chờ được bầu là
đi Ðại hội Nhà văn thôi.
Rôi Lê
Lựu hỏi:
-Anh Bầu
cao bao nhiêu nhỉ?
-Một mét
sáu tư.
-Ðưa
đây xem nào.
Vừa nói
Lựu vừa cầm lấy bộ quần áo Bầu mới cởi
ra. Lê Lựu mặc vừa như hàng may đo. Sur mesure! Và không ai có thể cởi
được bộ
com-lê Lê Lựu mới mặc vào người. Lựu rút ra tám mươi nghìn đồng đưa cho
Bầu.
Ðây. Giả cả lãi nhé. 65 nghìn vốn này. 3 nghìn xích lô này. 12 nghìn
lãi này.
Em biếu không anh cái quần cũ em vừa mặc nữa đây này... Nói vậy thôi
chứ quần
cũ của Lê Lựu ai mà dám mặc. Lê Bầu lại phải đi mua quần áo chống rét
(một thứ
tập tiêu tiền cho chính mình). Lần này có tôi đi tháp tùng. Ðến lúc ấy
tôi mới
biết đi mua quần áo hàng thùng là lâm vào một tình thế rất gay. Ba cô
bán hàng
liền nhau. Treo ba dẫy quần áo liền nhau. Cô nào cũng trẻ đẹp. Cô nào
cũng chèo
kéo mời chào. Vào hàng này là có lỗi với hàng khác. Vào hàng này cứ lấm
lét
nhìn sang hàng khác như người ăn vụng bị bắt quả tang. Cô bán hàng đưa
áo cho
Bầu xem, nói toạc móng heo:
-Anh nhìn
vào cái áo này này. Không phải vừa xem
áo vừa nhìn sang bên ấy.
Chúng tôi
mang áo về còn nghe một cô rủa sả sau
lưng:
-Mua với
bán. Ngữ ấy có lấy ba vợ nó cũng bỏ.
Tôi và
Bầu phá lên cười. Càng về cuối trại, càng
rét. Có cái áo mới mua, Bầu yên tâm ngồi viết.
Và những
ngày chủ nhật, anh chị em về hết, cả
trại chỉ còn hai người. Một là trưởng trại. Một là Lê Bầu. Bởi vì như
Vũ Bão
nói:
-Ông Bầu
thì cứ có ai nấu cơm cho ông ấy ăn là
ông ấy ở. Rồi ở đâu có nhà tắm là ông ấy không rời ra được nữa. Ðúng là
ở 105
Phùng Hưng phải tắm giếng ngoài sân. Ðúng là ở 105 Phùng Hưng phải nấu
lấy ăn.
Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy. Anh ở lại trại và làm việc. Ít trại
viên
ngồi lì (với cái máy chữ) được như anh. Hơn ai hết, Lê Bầu hiểu giá trị
của
thời gian.
Ðồ Sơn 11-1999
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Có nghĩa là: Kế hoạch
một năm/ Không gì bằng
trồng lúa/ Kế hoạch mười năm/ Không gì bằng trồng cây/ Kế hoạch trăm
năm/ Không
gì bằng trồng người.
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
ùi Ngọc Tấn
Rừng xưa xanh lá
(kỳ 5)
Một mơ ước về kiếp sau
Cây xấu hổ
Chiều lặng ngồi trêu cây xấu hổ
Lá
thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh lại đây
Có
gì mà mắc cỡ
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.
Nguyễn Thị Hoài Thanh ngồi
một mình ở Ðồng Xoài,
chờ người ta thu hoạch lạc xong thì vào mót. Cô đơn ở xứ người, để giết
thời
gian, để quên đi nỗi lo kiếm sống, chị trêu chòng và trò chuyện với cây
xấu hổ.
Thế rồi thơ đến.
Khi ở tù ra hầu như tôi
chỉ còn một nhúm bè bạn,
trong đó có Nguyên Bình, người không bao giờ bỏ tôi trong những lúc
gian lao
nguy hiểm đói nghèo nhất. Anh vẫn đến chơi nhà, nói dăm ba câu chuyện
hoặc nô
đùa với các con tôi. Tôi chẳng dám trách ai. Bởi cái ống ngắm hiển
nhiên là
đang nhắm vào tôi. Chẳng ai lại muốn mình hiện hình trong vòng ngắm.
Ðừng có
đem sinh mạng mình, đời sống gia đình vợ con mình ra đùa cợt.
Thế mà trong những ngày ấy
tôi lại có thêm một
người bạn mới: Nguyễn Thị Hoài Thanh. Chị thường xuyên đến nhà. Nói
chuyện với
tôi. Bàn chuyện làm ăn sinh sống với vợ tôi. Dạy hai đứa con gái tôi
cách thêu
may bô-đê để kiếm sống.
Tôi và Nguyễn Thị Hoài
Thanh trước đó chỉ biết
nhau chứ chưa hề chào nhau dù gặp nhau trong một cuộc họp, lại càng
chưa một
lần đối thoại. Tôi ấm lòng khi thấy chị lên nhà, ân cần, thân mật, cởi
mở như
một người bạn thân của cả gia đình và hoàn toàn chiếm được niềm tin,
tình cảm
của vợ chồng tôi. Chị như một chỗ dựa tinh thần, một sự động viên vợ
tôi trong
những ngày tháng gian lao ấy.
Lúc đó tôi mới biết rằng
chị làm ở Quốc doanh
đánh cá Hạ Long, một xí nghiệp tôi cũng từng quen, đã xuống lấy tin
viết bài,
nơi sản sinh ra anh hùng lao động Hồ Xuân Tuyên mà Dương Tường đã viết
trong
Thuyền Trưởng. Chị mách chúng tôi một cách kiếm sống: Làm nước mắm.
Ngày ấy nước mắm rất khan
hiếm, cắt theo phiếu,
theo tiêu chuẩn thang lương. Có nhà khoa học còn nghiên cứu làm nước
mắm dắt,
nấu từ con dắt, một loại sinh vật biển họ trai hến nhưng chỉ nhỏ bằng
cái cúc
áo. Ðề tài nước mắm dắt được đăng ký cấp quốc gia hay cấp thành phố tôi
không
nhớ. Nhà ai chẳng phải ăn nước mắm. Nước mắm đang lên ngôi. Chúng tôi
bị thuyết
phục ngay. Nguyễn Thị Hoài Thanh giảng cho chúng tôi nghe về con nước,
về chợ
chiều, cá ươn, cá ế, về loại cá rễ cau, như con chạch nhưng đỏ, không
ai ăn,
mua về làm chượp, và điều quan trọng là khi nấu mắm xong đừng lọc chắt
ngay mà
cứ để nguyên như vậy cho đến khi nguội hẳn vì trong quá trình ấy đạm
vẫn từ bã
thôi ra nước. Rồi chị giới thiệu cho tôi biết những chợ nào người ta
hay bán cá
rễ cau. Rồi tính toán tiền cá, tiền muối, một cân cá được bao nhiêu
nước mắm
loại một, nước mắm loại hai... Nhưng lấy gì mà ngâm chượp? Lại cũng chị
Thanh.
Tối hôm ấy vợ tôi vác xe đi. Chuẩn bị cả giây co nghĩa là giây cao su,
cả bao
tải. Lại mất điện. Vợ tôi đi trong bóng tối hun hút xuống nhà chị. Một
khu tập
thể không tên gọi, không số nhà. Cũng may, ban ngày Nguyễn Thị Hoài
Thanh đã
đưa vợ tôi xuống nhà để vợ tôi thuộc những ngóc ngách ngoắt ngoéo mà dù
cho có
tối tăm, mất điện, lại toàn những mái nhà lô nhô như bát úp ở một khu
đất trước
đây là trận địa pháo cao xạ mà về sau khi tôi xin được việc làm ở Quốc
doanh
đánh cá Hạ Long, mới biết nó có tên là khu Bãi Cát, vợ tôi vẫn có thể
tìm đến
tận nơi.
Khi chiếc loa ngã sáu phát
chương trình Quân đội
nhân dân, nghĩa là khoảng chín giờ, tôi nghe tiếng gọi của vợ tôi dưới
cầu
thang. Tôi vội chạy xuống. Trong bóng tối tôi thấy vợ tôi đang giữ
chiếc xe đạp
ở chân thang, và ở poo-ba-ga, một đống gì gồ cao đen sì.Tôi đặt tay lên
đó.
Chiến công của vợ tôi. Sự giúp đỡ tận tình của Nguyễn Thị Hoài Thanh.
Niềm hy
vọng của chúng tôi. Nó căng. Cứng. Và cong cong. To nữa. Cái bao tải to
thế mà
căng phồng.
- Chị Thanh đưa em qua
cổng bảo vệ chứ không
cũng không mang được về nhà đâu.
Ðó là một bình gốm chuyên
dùng, miệng nhỏ, có
nắp vặn xoáy được để đựng a-xít. Bình dầy nên tuy to nhưng chưa chắc đã
đựng
được nửa thùng nước. Tài sản ban đầu của chúng tôi để tự kiếm sống là
như vậy.
Chúng tôi dội nước đầy bình cho a-xít thôi ra trước khi ngâm chượp. Rồi
đi mua
cá rễ cau cá ươn cá ế ở chợ. Chẳng mấy chốc mà đầy hũ. Không dám để hũ
dưới
nhà. Sợ mất. Chúng tôi bê lên gác, đặt ngoài bệ cửa sổ. Sốt ruột mong
nó phân
huỷ, để nó thành chượp, nấu lên thành nước mắm mang đi bán.
Trong khi chờ đợi có nước
mắm bán cả nhà vẫn cứ
phải ăn. Nguyễn Thị Hoài Thanh hiểu được điều ấy. Chị đến dạy vợ tôi và
hai đứa
con gái còn chưa đến tuổi dậy thì bô-đê.
-Cái này là làm cho mấy bà
buôn ở chợ Sắt.
Nhìn những mẫu bô-đê của
chị tôi mới nhớ ra rằng
ở những gấu quần xa-tanh, gấu áo phin nõn của những người sang trọng
luôn có
những hoa văn đục thủng ra rồi viền lại như vậy. Tôi không hiểu chị học
bô-đê ở
đâu mà đẹp thế. Hay chị học ở trường mồ côi? Mà chị có mồ côi và học ở
trường
mồ côi như người ta vẫn nói thật không. Rồi lại còn cái chuyện Nguyễn
Cao Kỳ
(tư lệnh không quân rồi phó thủ tướng nguỵ) là anh ruột chị nữa. Nói
chung là
chung quanh chị có nhiều "huyền thoại", những "hiện thực huyền
ảo" giết người. Dường như biết rằng có những dư luận rất bất lợi cho
mình
và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi kị xa lánh nên chị không chủ
động thân
thiết gần gũi với một ai. Chỉ đến khi tôi đi tù về chị mới đến nhà tôi.
Người
khác có thể sợ chứ chị thì không. Chị nghĩ mọi cách giúp gia đình tôi
kiếm
sống. Chị nuôi ngan và bàn với tôi việc nuôi ngan. Chị bảo chị đã
nghiên cứu và
tìm ra thủ phạm của việc làm ngan chết hàng loạt là những con giun móc
chui vào
lỗ tai ngan vì vậy trong lúc trời mưa tuyệt đối không được cho ngan sục
nước.
Chị vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời: Tôi mang trên vai một chiếc cuốc nhỏ,
lùa đàn
ngan ra bãi Máy Tơ...
Nhưng tất cả kế hoạch của
chị cũng chỉ hoàn toàn
là kế hoạch của một nhà thơ. Hoặc kế hoạch mang tính khả thi đấy nhưng
không
thực thi được vì người thực hiện lại là tôi.
Tuy nhiên về một mặt nào
đấy những kế hoạch của
chị cũng mang lại tác dụng. Nó làm chúng tôi ấm lòng. Nó giúp chúng tôi
có thêm
nghị lực sống, vượt qua được những ngày nào cũng dài đằng đẵng[*] ấy.
Chúng tôi
vẫn có những người bạn để chia sẻ. Ðiều đó giúp chúng tôi có thêm nghị
lực.
Thế nào mà khi được đi làm
trở lại, tôi lại về
Quốc doanh đánh cá Hạ Long, nghĩa là về cùng xí nghiệp với Nguyễn Thị
Hoài
Thanh. Ông Hoàng Hữu Nhân nguyên bí thư thành uỷ Hải Phòng, khi đó là
tổng cục
trưởng tổng cục Thuỷ sản đã cứu tôi, quyết vượt qua mọi trở ngại, những
mưu
toan ngấm ngầm công khai của những người có thế lực khác tìm mọi cách
không cho
tôi trở lại với cơ quan xí nghiệp nhà nước.
Tôi làm văn phòng. Còn chị
Thanh làm ở phân
xưởng, tổ ắc-quy, ngành điện. Trong sổ tay tôi còn ghi lại một buổi
sáng xuân,
tôi đứng trên mũi một con tầu đang xảm lại mặt boong. Trời xuân, không
mưa bụi
nhưng mát mịn da mặt. Phía bên kia sông, những cây sú lá xanh thẫm.
Chân trời
những đám mây xuân tầng tầng lớp lớp. Và gió. Gió không mạnh, chỉ đủ
giục giã
lên đường. Người thuyền trưởng đứng sau tôi. Anh ôm tôi, nhấc bổng tôi
lên. Rồi
lại đặt tôi xuống.
Từ phía đầu cầu cảng chạy
vào một chiếc xe rùa,
một loại xe chạy bằng ắc-quy, êm không một tiếng động. Trên xe, mấy cô
công
nhân tươi cười rạng rỡ. Thuyền trưởng bỗng rời vòng tay ôm tôi, nhao ra
lan
can: "Cô Thanh ơi, chúng tôi thay ắc-quy đấy nhé." Lúc bấy giờ tôi
mới để ý là Nguyễn Thị Hoài Thanh đang ngồi trên xe. Quần áo bảo hộ lao
động
rộng thùng, chiếc mũ lưỡi chai, khuôn mặt chị ngời ngợi giữa những món
tóc bị
gió thổi bay dập dờn trên mặt trên má trên miệng cô công nhân ngồi đằng
sau
chị. Chị nói như hét:
- Chưa thay được cho anh
đâu.
Chiếc xe vẫn giữ nguyên
tốc độ, vượt qua chỗ
chúng tôi. Thuyền trưởng kêu to:
- Sao lại chưa ?
Chiếc xe đã ngoặt về phía
cổng cảng. Vọng lại
một câu trả lời của chị nhưng nghe không rõ. Chiếc xe đã biến mất. Nó
lướt qua
không một tiếng động. Như nó chưa hề đi qua đây. Một thuỷ thủ nói:
- Cô Thanh được đấy thuyền
trưởng ạ.
Thuyền trưởng cười:
- Già rồi.
Anh thuyền viên kêu to với
đám thuỷ thủ đang
trầu cáp, chuẩn bị cho một chuyến biển mới:
- Thuyền trưởng chê cô
Thanh già các cậu ơi!
- Tớ
già chứ không phải cô Thanh. Hiểu chưa ?
Tất cả cười dòn .
Năm ấy Nguyễn Thị Hoài
Thanh còn đang tuổi ba
mươi. Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai.
Nhưng
hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của tuổi ba
mươi
đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó khăn,
nhiều khi cả
nguy hiểm nữa.
- Người ta cứ coi tôi là
con mụ Hến anh ạ.
Chị nói vậy và cười hồn
nhiên:
- Ngày ấy mình còn mầu mỡ.
Sau này khi đã lục tuần,
ngồi ôn lại cuộc đời,
chị nói với tôi như vậy. Và cũng như cô Hến, cái đám Nghêu, Sò cũng
toàn là các
hàng chức sắc nên rất nguy hiểm. Thời gian chị còn làm thợ điện ở công
ty X,
chỉ vì không chịu bắt tay ông trưởng phòng của chị mà chị không được
chấm công,
không có lương, dù ngày ngày vẫn đi làm với các đội, dù chị đã lấy đầy
đủ xác
nhận của các đội sản xuất. (Bắt tay là chuyện bình thường, nhưng đây
lại là một
kiểu ra đụng vào chạm, một kiểu lợi dụng của ông trưởng phòng mà chị
biết quá
rõ). Và sự việc không dừng ở đấy. Chị ở tập thể, nghĩa là một nửa gian
phía
ngoài, còn nửa gian phía trong là kho dụng cụ (toàn cuốc xẻng). Một
trưa đi làm
về, chị thấy buồng chị bị khoá. Bé Ðan, con gái chị đang ngồi khóc ở
cửa. Người
ta giải thích cho chị hiểu rằng không phải người ta khoá buồng chị mà
người ta
khoá kho dụng cụ, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Chị gặp người này
gặp người
khác. Chị đấu tranh. Khi cứng rắn. Khi mềm dẻo. Lúc pha cả hài hước.
Mãi khuya
ông trưởng phòng mới hạ lệnh mở khoá cho chị vào buồng.
Thế rồi khi ông chủ nhiệm
công ty cũng muốn đến
với Hến và bị Hến cự tuyệt thẳng thừng mới thật gay go. Lại một chiều
đi làm
về, vừa bước vào khu tập thể, bé Ðan đã mếu máo chạy ra:
-Mẹ ơi. Nhà mình toàn bàn
ghế thôi, con không
nấu được cơm đâu.
Chị đứng lặng. Cái ô con
con hai mẹ con vẫn chui
ra chui vào cửa vẫn mở nhưng chật cứng bàn ghế. Chị đã hiểu. Người ta
quyết không
cho chị ở mấy mét vuông này. Chị thì thào với con gái:
-Mẹ con mình khiêng sang
nhà bác chủ nhiệm nhé.
Thật khẽ. Ðừng để ai biết.
Lúc đó đã tối. Giờ ăn cơm
của cả khu tập thể .
Bụng đói, bé Ðan cùng mẹ khiêng từng chiếc bàn chiếc ghế sang nhà ông
chủ
nhiệm. Nhà ông ta rất rộng. Sân. Gian ngoài. Gian trong. Hai mẹ con đặt
những
đồ mộc ấy ở gian ngoài. Năm chuyến. Sáu chuyến. Bẩy chuyến. Ðói. Im
lặng. Thở.
Như một trò tinh nghịch. Nghe rõ tiếng trò chuyện từ gian trong. Ngửi
cả mùi
cơm trộn mì, mùi canh dưa chua ngào ngạt bốc ra. Khiêng gần xong thì bị
lộ. Ông
chủ nhiệm quăng bát cơm chạy ra. Gầm lên:
-Cô Thanh ! Làm trò gì thế
này ?
-Tôi
sẽ lập biên bản. Cô đúng là một người quá thể. Không còn coi ai ra gì!
Ông hét không thành tiếng.
Cả khu tập thể vốn dĩ
đói nghèo sự kiện, đói nghèo trò giải trí, bỏ dở bữa cơm đổ xô tới. Mọi
người
trong gia đình ông kêu thét ầm ĩ. Như một dàn đồng ca.
Nguyễn Thị Hoài Thanh tươi
cười lễ phép :
-Báo cáo chủ nhiệm, tôi đi
làm về thì thấy số
tài sản xã hội chủ nghĩa này trong nhà tôi. Tôi không hiểu ai vất vào.
Ðây là
bàn ghế chứ ngộ nhỡ thuốc phiện thì có nguy hiểm cho tôi không. Cho nên
tôi
phải trình với chủ nhiệm. Hai mẹ con tôi dù chưa ăn, bụng đói cũng cố
động viên
nhau khiêng sang. Chả lẽ lại vất ra ngoài sân. Tài sản xã hội chủ nghĩa
không
thể thế được. Phải bảo vệ. Nên chỉ còn mỗi cách khiêng sang nhà thủ
trưởng.
Hoài Thanh thắng. Thắng
oanh liệt. Sau trận
thắng chị hiểu rằng không thể nào ở lại công ty được, phải tìm cách
chuyển
thôi. Trong lúc giao thời thất nghiệp ấy, một người bạn rủ chị đi bán
than cùng
ông ta. Mừng như bắt được của. Không phải "một gánh càn khôn quẩy xuống
ngàn, hỏi rằng chi đó gửi rằng than" mà là mua than của mậu dịch rồi xe
đổ
cho các nhà. Thứ than cám đã nháo bùn để người ta chim chim lại cho và
bếp lò.
Than trộn bùn ướt nặng như đá. "Ông Hạp ơi! Khiêng hộ tôi lên bàn cân
với!" "Ông Hạp ơi! Ðẩy hộ cái xe vào đây!" Tiền thì chia đôi mà
chốc lại ông Hạp ơi, ông Hạp ơi. Xe than đi đổ cũng lắm chuyện bi hài.
Chuyến
xe đầu tiên thế nào lại quành đúng vào khu nhà tập thể của chị. Chị lo
lắng:
"Ông Hạp ơi. Ðổ cho nhà ai thế này?" Hoá ra đổ cho nhà ông chủ nhiệm.
Chính vợ chồng ông chủ nhiệm cũng ngạc nhiên. Cô Thanh bây giờ đi làm
cái này
à? Vâng. Báo cáo chủ nhiệm, việc gì tôi cũng làm để có tiền nuôi mình
nuôi
cháu. Hẳn ông chủ nhiệm cười thầm trong lòng: Chiến thắng là thế đấy hử
cô
Thanh? Cứ chiến thắng nữa đi. Chị không xấu hổ về tư thế chiến thắng
của chị,
cái tư thế nhếch nhác đầy vẻ thất bại của chị. Chị biết thừa câu nói
không thành
lời của chủ nhiệm: Cô đã thắng tôi. Nhưng cô đã thấy cái giá phải trả
cho chiến
thắng của cô là thế nào chưa? Chiến bại đấy cô ạ! Chị chỉ tự hỏi: Ông
chủ nhiệm
hả lòng hả dạ hẳn rồi, nhưng không biết ông có còn chút lòng trắc ẩn?
Thật ra tự đáy lòng, chị
cảm thấy ngượng. Không
chỉ trong lần xe than đổ cho ông chủ nhiệm. Còn nhiều lần khác. Hôm đầu
tiên
đến bãi than phố Ðà Nẵng với ông Hạp chị đã ngượng rồi. Hôm ấy chị đi
đôi giầy
da cũ của một người bạn cho chị rõ ràng là quá rộng. Cánh thanh niên có
mặt ở
bãi thấy một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp đẩy xe vào bãi, reo hò:
- Chào em gái xinh đẹp.
-
Anh đã bảo em cứ ở nhà rồi anh mang tiền về, sao em còn ra đây làm gì?
Nhớ anh
quá hả?
- Ái
chà! Lại đi giầy bốt-tin!
Lại một hôm đang đẩy đằng
sau, thấy ông Hạp cầm
càng ngoặt vào nhà một cô bạn, chị vội đội lên đầu cái khăn mặt tuỳ
thân đen
nhẻm cho nó phủ kín trán, kín hai gò má và kéo sụp nón xuống che hết
mặt. Chị
bạn quát:
- Xe đổ vào góc trong cùng
ấy. Góc bên phải cơ
mà. Không nhìn thấy gì à? Bẩn hết bếp rồi. Mấy tạ đấy?
Nguyễn Thị Hoài Thanh
không nói một lời đến nỗi
chị bạn gắt lên: "Câm đấy à?" Chị bạn không nhận ra chị vì chị đúng
là "một con mụ bán than đen thui thủi" từ nón đến giầy bốt-tin!
Vừa xe than, chị vừa đi
tìm việc.Nhưng khi chị
tìm được việc làm bên Quốc doanh đánh cá Hạ Long, người ta lại không
cấp giấy
giới thiệu cho chị mặc dù họ đã cho chị nghỉ việc để liên hệ chuyển
công tác.
Chị, chẳng quen ai, không biết trông cậy vào ai, đi lên sở lao động tìm
gặp
bằng được ông phó giám đốc. Ông phó giám đốc ủng hộ chị. Có áp lực của
sở lao
động, chị được cấp giấy giới thiệu, được đi làm bên Quốc doanh đánh cá
Hạ Long.
Nhưng người ta lại vin vào việc chị đã chuyển công tác để trục xuất chị
khỏi
khu tập thể. Một cuộc họp lãnh đạo công ty với khu tập thể có mời cả
công an hộ
tịch dự. Lập biên bản. Ra nghị quyết...
Hình như Nguyễn Thị Hoài
Thanh sinh ra là để gặp
những rắc rối, chịu đựng những rắc rối và vượt qua những rắc rối khó
khăn. Chịu
đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc
đời vốn
là như vậy.
Tốt nghiệp trường công
nhân kỹ thuật Hải Phòng,
chi ghi vào mục nguyện vọng: Tình nguyện đi bất cứ nơi nào trừ Hà Nội,
Hải
Phòng. Bởi vì lúc đó chị vừa li dị và mới sinh cháu gái đầu lòng. Bà mẹ
trẻ
tuổi hai mươi ấy không muốn gặp lại người chồng cũ và chỉ mong được yên
tĩnh ở
một nơi nào đó. Cầu được, ước thấy. Chị được về Cẩm Phả, coi một trạm
điện đầu
trục 2 thuộc mỏ Lộ Trí. Chị và cháu gái mới sinh ở ngay trạm, liền với
nhà
đề-bô rộng thênh thang, nhà đề-bô đã có người chết ở đó. Ngày ấy nơi
đây là
chim kêu vượn hú. Ngày ấy hai mẹ con suốt đêm nghe gió thổi qua mái nhà
đề-bô,
nghe mưa rơi, nhìn nước đổ như thác cuồn cuộn bên ngoài trạm...
Thế rồi từ Cẩm Phả chị lại
về Hải Phòng khi sóng
gió trong lòng đã dịu. Rồi chị sang Kiến An. Chị về Vĩnh Bảo. Có biết
việc gì
không trải qua. Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng, thợ điện
Hải Phòng
điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập
khẩu,
đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Ðịnh, công nhân công ty xếp
rỡ, cấp
dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc-quy Quốc doanh đánh cá Hạ
Long...
Ðó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước
mắm...
Ðồng lương không đủ nuôi mình mà chị còn phải nuôi con. Cuộc sống tưởng
chừng
không có thời gian để thở, đó là chưa kể những chấn thương tinh thần
sau hai
lần li dị, ấy thế mà Nguyễn Thị Hoài Thanh vẫn làm thơ.
Cô gái ngay từ nhỏ đã có
khí chất con giai này
thực chất là đa cảm. Năm 13 tuổi bài văn xuôi đầu tiên được in trên báo
Thế Kỷ.
Năm 16 tuổi gửi thơ lên báo. Bài thơ không được in vì không chịu sửa
theo ý
biên tập. Bài thơ đầu tiên của chị được in trên báo Văn Học, cơ quan
của hội
Nhà Văn là bài Lán Mông Giăng (1961). Ðắm mình trong những vất vả khó
khăn của
công việc, của một mình nuôi con nhỏ, của mối tình đầu tan vỡ, chị nghĩ
tới một
khung cảnh đầm ấm có vợ có chồng và trong khi chị đang nằm ở lán Mông
Giăng
này, có một người ngoài kia nghĩ về chị và nói với mọi người xin chớ ồn
ào, để
em tôi ngủ. Em tôi nào ngủ được. Bởi cô đơn. Bởi hoang vắng. Bởi nhà
đề-bô tối
om từng có người chết ở liền bên. Bởi những tia chớp rạch trời thoắt
hiện những
khóm lau chìm trong bóng tối. Bởi bỗng một cánh tay đen sì từ nhà đề-bô
thò vào
cửa sổ (một công nhân lò Lộ Trí lên gọi điện thoại báo tin máy hỏng).
Bởi bé
Ðan viêm họng sốt cao. Không ngủ được thì cứ nằm mơ ước...
Nguyễn Thị Hoài Thanh làm
thơ như một nhu cầu
nội tâm. Chị làm thơ để trang trải nỗi lòng. Có một điều ngạc nhiên:
Cuộc đời
chị biết bao sóng gió mà thơ chị hồn nhiên trong trẻo thế. Chị có tài
nhìn
trong đổ vỡ để thấy được một cái gì vẫn là ấm áp như trong bài Bão tan:
Cây trụi lá mầu chiều say
sắc trắng
Hàng
dậu xô làng xóm xích gần nhau
Ngày tháng đề dưới bài thơ
này là năm 1967,
nghĩa là lúc Thị Hến đang lâm nạn đuổi nhà. Có lẽ đó không phải là cái
tài của
chị, mà chính là tâm hồn chị. Ðộ lượng, tha thứ, chịu đựng, vượt qua
mọi gian
lao và lúc nào cũng hướng về cái đẹp. Ðọc lại những bài thơ của chị in
rải rác
trên các báo và tạp chí Văn Học, Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội, Cửa Biển
và một
vài tuyển tập, tôi lại có một "phát hiện" mới: Chị yêu Hải Phòng biết
bao! Một Hải Phòng với những thành kiến, những trù dập, những nhọc nhằn
kiếm
sống, một Hải Phòng với những cuộc li hôn. Nhưng cũng là một Hải Phòng
của thời
thơ ấu, của những kỷ niệm không quên với bạn bè, của khát vọng vươn tới
cái
đẹp. Hải Phòng có bốn chiếc cầu ở bốn cửa thành phố thì hai chiếc đã
nằm trong
thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh: Bài Cầu Xi măng và bài Chợ Cầu Rào.
Bài Cầu Xi măng như một
bức thư gửi người anh
trai đang sống ở Mỹ, ông Nguyễn Xuân Vinh. (Cũng không sợ lạc đề nếu
nói ở đây
rằng ông Vinh là một nhà bác học lớn của Nasa mà báo Lao Ðộng đã viết
một bài
dài giới thiệu, ông đã từng chủ trì nhiều hội nghị không gian toàn thế
giới.
Trong cuốn tuỳ bút Theo ánh tinh cầu của ông có đoạn: "Cuốn sách tôi
viết
nói về quỹ đạo thu hồi một cách an toàn những phi thuyền không gian.
Nhà xuất
bản trước khi nhận in đã đưa bản thảo để lấy ý kiến của nhiều nhà khoa
học. Tất
cả đều đồng ý đây là cuốn sách độc nhất, với trình độ khoa học cao nhất
viết về
đề tài này." Không sợ lạc đề vì ông Vinh là nguyên nhân gây ra cái dư
luận
Hoài Thanh là em ruột Nguyễn Cao Kỳ.)
Anh đã xa cầu xi măng
Ba
mươi năm từ đó
Xa
con sông quê nước lợ
Anh
có mơ một lần
sóng vỗ giấc mơ anh
Cầu
xi măng ơi cầu xi măng
Thuở
bé em nhìn sang bên sông
Trời
đất một vùng chim bay chim lượn
...
Mẹ ơi cầu có tự bao giờ ? em hỏi mẹ
Mẹ
bảo tuổi cầu cùng với tuổi anh...
Còn đây là bài Chợ Cầu Rào
chị khóc người em
trai Nguyễn Xuân Ðăng mai táng ở nghĩa trang Ninh Hải (từ thành phố Hải
Phòng
phải đi qua Cầu Rào mới tới).
Em nằm
bên kia sông
Chợ
Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Qua
chợ dùng dằng
nửa muốn đi nửa toan ghé lại
Ðịnh
mua quà cho em nhưng nào biết mua chi
Em nằm
ở bên kia
Bên
đây chợ lao xao kẻ mua người bán
Chỉ
một thứ chẳng ai cần bán mua là nước mắt
Em mặc
cả với đời mang nó đi theo
Em nằm
bên kia sông
Chợ
Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Ðến
thăm em chẳng cần vội vã
ở nơi đó bao giờ cũng có thể có em
Ðến
thăm em rất cần vội vã ở nơi đó bao giờ cũng không thể có em
Bài thơ chị làm trên đường
sang nghĩa trang
trong buổi sáng một ngày sau khi mai táng mà ta gọi là đi quơ mộ.
Không phải chỉ những cây
cầu dính dáng đến những
người thân mới làm Nguyễn Thị Hoài Thanh xúc động. Hải Phòng là thành
phố của
hoa phượng. Tháng năm rợp trời hoa phượng đỏ (Hải Như). Hoa như mưa rơi
rơi
(Thanh Tùng). Tôi nghĩ bài Hoa Phượng của Nguyễn Thị Hoài Thanh là một
trong
những bài đặc sắc nhất về đề tài này :
Hoa rong chơi từ mùa thu
năm ngoái
Hôm
nay nghe phố gọi rủ nhau về
Gió đã mở nắng đã vàng đã
chín
Hồn
đã say chân đã bước đinh ninh
Trong ngất ngây như có ai cuối phố đợi mình
Ai
hát nữa điều gì thao thức lạ
Hoa khờ dại cháy mình
trong nắng hạ
Ðể
thu về tan tác cả lòng ai
Hình như một kỷ niệm đang
trở về cùng chị. Hoa phượng đã làm chị nhớ
lại.
Trong ngất ngây như có ai
cuối phố đợi mình
Ai
hát nữa điều gì thao thức lạ
Lại nghĩ đến hai câu thơ
của Thi Hoàng :
Một đầu đường không có ai
trông ngóng
Một
buổi chiều không biết cất vào đâu
Ðể thấy những ngày Hoa
Phượng ấy của Nguyễn Thị
Hoài Thanh là như thế nào. Rồi chị thương hoa khờ dại cháy mình. Và lại
thương
ai. Tôi cứ nghĩ rằng chị tự thương mình. Chị thương chị. Hình như chị
đã yêu,
tình yêu chỉ tồn tại có một mùa hoa phượng. Nó đã qua rồi. Cùng phượng.
Tôi
lặng người khi đọc những vần thơ của chị viết về nỗi cô đơn :
Sau hồi kẻng tan ca
Tôi
ngã vào vòng tay lạnh lẽo của mùa đông
Tan ca. Ra về. Chỉ là lạnh
lẽo một mùa đông chờ
đợi. Bởi vậy khi có người hẹn đến chơi, niềm vui tràn lên đầu lưỡi,
không có ai
để chia sẻ, mà không thể không trò chuyện. Thì Nói chuyện với mèo:
Mèo ơi! Mèo có biết
Có
người sắp đến thăm ta
Thời gian đợi bạn không
phải là thời gian vẫn
đến và vẫn đi nữa :
Ngày phập phồng như thể có
tâm hồn
Ðêm
trằn trọc đợi mặt trời thở gấp
Bạn đến. Bạn tâm sự. Rồi
bạn đi. Ngay cả con mèo
chị nuôi vẫn quanh quẩn bên chị cũng nhẩy sang nóc nhà hàng xóm với bạn
nó. Thì
chị tâm sự với mình. Với cây. Với hoa. Ðiều ấy chị đã quen rồi. Chị
thương yêu
tất cả. Chị thương cả con bò người bạn chị dắt đi trên đường phố. Chị
chào
người bạn chăn bò vất vả để thêm vào đồng lương hưu ít ỏi rồi chị trò
chuyện
với bò. Chào bò bằng một cái nhìn nhưng bò chẳng nhìn đáp lại:
Có lẽ chú tưởng tôi là gốc
cây
Với
tâm hồn gỗ
Hay
ngỡ tôi là cột điện
Trái
tim sỏi trộn xi măng
Chị thương móng chân bò
dẫm trên đường nhựa,
thương đôi tai bò không được nghe tiếng hát cỏ xanh. Và không chào bò
bằng mắt
nữa, chị cất thành lời :
Chú bò ơi !
Chú đi như tù binh
đi
về đâu
tới lò sát sinh hay ra đồng ruộng
đi
về đâu
tới
ngã ba đường tôi với
chú chia tay
đi
về đâu
tôi biết rồi đấy nhé (...)
Ngưòi rủ rỉ tâm tình là
thế. Nhưng bò vẫn đi.
Vẫn không chịu tham gia vào cuộc đối thoại với người.
Người đi. Mèo đi. Bò đi.
Có chân là đi. Chẳng
chịu nghe chị, trò chuyện với chị. Thì chị trò chuyện bầu bạn với những
gì
không đi được. Từ ngày chuyển về Quốc doanh đánh cá Hạ Long, làm việc
súc sạc
ắc-quy (một công việc rất độc hại) chị có một người bạn mới: Sông Cấm,
dòng
sông có "những cánh buồm nâu không địa chỉ ":
Sông Cấm ơi ! Sông như
người bạn mới quen
Thân
thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?
(Xin mở một ngoặc đơn:
Mong ước mình là mình,
điều ấy là của nhiều người. Nhưng mong ước cái bóng của mình còn nguyên
vẹn khi
dòng sông đã mang ra biển thì có lẽ chỉ có Hoài Thanh ).
Hơn mười năm sau, vẫn cái
nhìn ấy với sông, với
cây và với phố. Lần đầu tiên thân gái dặm trường, bước chân vào cao
nguyên Ðắc
Lắc, tối rồi, chưa có chỗ nghỉ lại không một người quen, chị đã có ngay
một
người bạn mới: Một phố nhỏ giữa cao nguyên hùng vĩ. Không những thế chị
còn
nhận diện được người bạn này, nó giống ai, bao nhiêu tuổi:
Phố như con của mùa Ðông
Vừa
mới sinh ra ban nẫy
Chị tới cao nguyên tìm
đường đưa con gái và cháu
ngoại vào sinh sống. Cũng như chị ngày trước, con gái chị đã li dị. Chị
đi nhờ
xe vào "trinh sát "rồi ra Hải Phòng trông cháu cho con gái vào gây
dựng cơ sở. Tôi chép lại toàn bộ bài Cháu Liên Chi để thay cho những
lời dài
dòng của tôi về thời gian chị đã làm bà:
Bố mẹ
chia tay từ đó
Về đây
cháu ở với bà
Hai
gian chông chênh đầy gió
Sớm
chiều bà cháu vào ra
Ðêm
gối tay bà cháu hỏi
Mẹ sao
đi mãi đi đâu
Thương
cháu lựa lời bà nói
Thương
bà cháu vuốt tay đau
Cha
cháu giờ này ở quán
Mắt
ngầu be rượu chênh chao
Tình
thương cạn kiệt đáy cốc
Môi
khô triết lý khô theo
Mẹ cháu
miền Nam xa lắc
Suất
tầu dành cả đời bà
Nửa
đêm nhọc nhằn tráng bánh
Sáng
còn đi chợ đường xa
Bao
giờ mẹ cháu gửi ra
Suất
tầu cho hai bà cháu
Bấy
giờ lại được ra ga
Tay
xách làn tay dắt cháu
Bóng
bà bóng cháu nương nhau
Miền
Nam có thương thì đợi
Tuổi
bà mới ngoại năm mươi
Năm ấy chị mới ngoài năm
mươi. Năm nay chị đã
ngoài sáu mươi rồi. Không thể tay xách làn tay dắt cháu, bóng bà bóng
cháu
nương nhau được. Một tai nạn ô tô đã làm chị tàn phế một tay. Tai nạn
xẩy ra
ngay Ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết,
mặt đường
nhựa sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy. Nhưng
không thể
bó bột vì bùn hoa dính vào thịt gây nhiễm trùng dẫn đến hoại thư. Hàng
ngày bác
sĩ làm vệ sinh vết thương bằng nước, bằng ô-xi già và lấy kéo cắt đi
những mẩu
thịt nhiễm trùng. Chị cắn răng chịu đựng. Lại còn nhớ đến một truyện
ngắn của
Nguyễn Công Hoan khi nghĩ rằng mình bị tàn tật cả đời: Cái vốn để sinh
nhai.
Nhớ lại để cười. Bởi vì từ nay chị cũng có cái vốn như người tàn tật ấy.
Chị bảo người nhà xin cho
người tài xế đã gây ra
tai nạn khỏi bị truy tố " vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như
mình ". Chị gần như không nhận tiền nong quà cáp của bè bạn, của những
người thân. " Bởi vì anh ạ, nợ ân tình làm sao tôi trả được." Ban đêm
chị tự phục vụ dù một tay đã dập nát. (Hai đứa con gái, một mới sinh,
một sắp ở
cữ, chị bắt chúng phải về nhà.) Chị bảo chúng mang cho chị mỗi ngày ba
cặp lồng
cơm và muối vừng để chị ăn vào ba bữa sáng, trưa, chiều. Nằm gần như
bất động,
chị xúc từng thìa. Ăn như một nhiệm vụ, như một người cần hồi phục, cần
phải
sống. Như một cái gì phải vượt qua. Những cô con gái nhăn nhó hỏi mẹ:
- Con hỏi bác sĩ rồi. Mẹ
không phải kiêng gì cả.
Sao mẹ lại cứ ăn vừng ?
- Mẹ thích
ăn vừng.
Chị nói vậy. Bởi chị biết
các con chị đang rất
khó khăn. Chị thương chúng. Chúng là cuộc sống của chị. Ngày chúng còn
thiếu
nữ, nhìn chúng cắp sách đi học hay nằm ngủ bên nhau, một nỗi sợ trào
lên trong
lòng chị khi chị nghĩ đến một ngày chúng mồ côi mẹ:
Rồi
mai đây khi mẹ vắng ít ngày
Các
con ơi đêm mùa thu gió lạnh
Ngủ
nhớ đắp tấm vỏ chăn cho ấm
Cửa sổ
mở ra cho thoáng gió nghe con
Biết
bao lo âu lòng mẹ ngày đêm
Từ khi
các con còn là giọt sương trong lòng mẹ
Nếu
như mẹ ra đi khi chưa kịp làm bà
Thì
đêm đêm mẹ vẫn ru những đứa cháu ra đời trong giấc mộng
Tình
thương lớn không thể đo bằng năm tháng (...)
(...)
Ðừng khóc con ơi !
Mẹ ra
đi như đêm tối
Bước
lặng thầm như thể bóng đêm thôi
Mẹ lại
về trong tiếng chim rơi
Trong
làn khói cơm thơm lửa reo bếp nhỏ
Lời mẹ
chuyện trò lao xao trong lời gió
Bóng
mẹ ra vào trong bóng lá xanh tươi
Có
những món nợ nần mẹ phải trả bằng đời
Một
bài thơ về cầu xi măng
Chiếc
cầu tuổi thơ đưa mẹ qua con sông nhỏ
Một
cây mướp con trồng
ngọn trườn lên cửa sổ
Lá tay
xinh quấn quít song tre.
Thật may. Chị nghĩ. Bánh
xe chỉ lăn qua bắp tay.
Nếu nó lăn thêm một chút nữa sẽ đè dập ngực chị. Chị sẽ chết. Và nếu
vậy các
con chị thừa hưởng những gì ở chị ?
Không
có gia tài để lại cho con
Chỉ có
nước mắt rơi và ngày vui chưa trọn
Và thơ
cười
đi suốt những đêm đau
Nguyễn Thị Hoài Thanh đã
xuất viện. Chị vẫn
sống. Vẫn vào Nam
đi mót. Vẫn ra Bắc nâng giấc phụng dưỡng mẹ già chín mươi tuổi bằng một
tay duy
nhất còn lành lặn. Chị sống dai dẳng. Hài hước. Khoẻ mạnh. Và vẫn làm
thơ. Ðời
Nguyễn Thị Hoài Thanh chưa lúc nào yên tĩnh. Tuy vậy chị vẫn có thời
gian nghĩ
đến Kiếp sau:
Kiếp
sau nếu được làm chim
Tình
thương dang dở bay tìm nơi nơi
Giương
cung đừng nhé người ơi
Vết
thương thuở trước luân hồi còn đau.
14-1-1999
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
--------------------------------------------------------------------------------
[*]
Tên
một tiểu thuyết của Simonov
Bùi Ngọc Tấn
Rừng xưa xanh lá
(kỳ 7)
Nguyên Bình với cô gái mồ
côi và hòn đảo
Những lúc ép mình ngồi
viết sao mà mong tiếng
chân lên thang gác của Nguyên Bình đến thế. Ðể có thể vất hết giấy bút
đi mà
chuyện gẫu. Mà rủ nhau đạp xe đi nhổng. Và thật buồn cười, thật thú vị
là khi
sang nhà Nguyên Bình, thấy Bình đang cặm cụi ngồi bàn, anh ngừng mọi
công việc
quay ra cười toe toét:
- Rất khốn nạn! Tao vừa
viết được vài dòng đã
chỉ mong mày đến. Thì cầu được ước thấy. Mày đến thật!
Tôi làm ra bộ ta đây:
- Thôi. Mày viết đi. Tao
về đây.
Lời hù doạ của tôi không
làm anh nao núng:
-Ừ. Về thì về. Về cho tao
làm việc.
Chúng tôi cùng cười. Anh
thừa biết tôi chẳng thể
về. Còn tôi cũng quá rõ rằng anh muốn tôi ngồi lại để ngừng cái công
việc khổ
sai phút nào hay phút ấy. Thế là uống trà. Trà cám thôi. Nhưng không
phải lúc
nào cũng có. Thế là đi chơi. Ðạp xe rong phố. Hoặc lên tận Ðền Nhà Bà
vào một
hiệu trà có trà Thiết Quan âm, hiệu Tồi tồi phá mà Tất Vinh dịch là
Thơm đời
đời, quán trà chính Tất Vinh phát hiện ra, mặc dù anh vẫn làm phóng
viên báo
Tiền Phong tít trên Hà Nội, thỉnh thoảng mới về công tác tại Hải Phòng.
Tôi và Nguyên Bình có thể
nói với nhau mọi
chuyện. Có những chuyện giấu bố mẹ vợ con anh em đồng chí nhưng vẫn nói
được
cùng nhau. Anh là người bạn thân nhất của tôi ở Hải Phòng.Thành công
của người
này cũng là thành công của kẻ kia.
Trong những năm tháng
hậu-goulag, để dùng lại
chữ của Dương Tường, nặng nề dài dằng dặc sau đó, tình bạn của anh đã
nâng đỡ
tôi sống, nó nói rằng cuộc đời đối với tôi dù sao cũng chưa đến nỗi.
Không phải
chỉ tình bạn giữa tôi và anh. Mà là tình cảm của cả gia đình anh. Vợ
anh. Hai
đứa con anh. Làm ở ngành mậu dịch, chính xác là ở công nghệ phẩm, nghĩa
là một
thành viên của ngành thương, chị T vợ Bình có điều kiện hơn người đôi
chút (vì
chị chỉ là nhân viên) để có thể duy trì cuộc sống gia đình ở mức tối
thiểu và
thỉnh thoảng giúp đỡ tôi. Như cho tôi cái phiếu mua 50 ki lô dầu cặn ở
một cửa
hàng bán chất đốt phố Trần Khánh Dư, dẫu rằng biến những dòng chữ
nguệch ngoạc
trên giấy thành những lít dầu ma-dút cặn trong can là cả một kỳ công,
chờ đợi,
vật lộn, xếp hàng, chen lấn, vét váy, dồn dịch, đong đo, bẩn thỉu nhưng
cũng là
một điều trên cả tuyệt vời vì mua về một lúc được nửa tạ dầu cặn mà
không phải
phiếu. Vài tháng không phải lo chất đốt! Hay những lúc gạo hết, chị T
xúc cho
tôi dăm bơ gạo viện trợ không hoàn lại. Miếng khi đói, gói khi no. Lại
có những
bữa anh chị mời tôi sang ăn cơm để bồi dưỡng riêng tôi. Chỉ mình tôi!
Và là
thượng khách! Cơm có một món: Xương lợn ninh xu hào. Thêm đĩa dưa chua.
Và một
be, gọi theo cách của Nguyên Bình, nghĩa là một chai rượu trắng con
con. Phải
nói xương ra xương. Thịt bám dầy. Cắn ngập răng. Anh ninh khá nhừ. Gặm
cái chỗ
đầu xương ống cứ mềm sụt rồi nghiền tơi như bột. Thành ra xương thì
nhiều,
nhưng các thứ nhè ra mâm rất ít. Bình chỉ vào chất bột tơi tơi mà chúng
tôi đã
hít hết các chất béo bổ, giải thích:
-Thưa
ông. Thứ này cũng không vứt đi đâu ông ạ. Ðể nuôi gà. Gà đánh chén rất
mạnh.
Thằng con anh nói thêm:
-Gà ăn món này đẻ rất đều
bác ạ.
Không biết đã bao nhiêu
năm rồi tôi mới được ăn
thứ xương như vậy. Thi thoảng vợ tôi đi mua một khúc xương ống về ninh
nấu bột
cho con thì rặt một loại xương trắng hếu, nhẵn bóng như được lọc bằng
manh xơ lam.
Tôi biết món xương tôi đang ăn khoái khẩu đây là loại xương đặc biệt,
chỉ dành
cho nội bộ ngành thương, nhưng cũng cứ hỏi ở đâu ra loại xương ghê gớm
như vậy.
Nguyên Bình trừng mắt quát lên với tôi như với một kẻ ngu si đần độn:
- Xương mậu dịch viên!
Không biết à? Xương. Mậu.
Dịch. Viên!
Chúng tôi đã có với nhau
biết bao kỷ niệm. Những
trưa hè, rủ nhau đạp xe ra cửa hàng mậu dịch giải khát gần ngã tư Trần
Phú-Cầu
Ðất uống cà-phê đá. Người đông nghìn nghịt. Vì chỉ ở đấy mới bán cà phê
đá. Mỗi
khách hàng được phục vụ một cốc vại, thứ cốc thổi ở các lò thuỷ tinh
thủ công
có màu xanh lơ và đầy bọt, bên trong chứa một lượng đường đủ dể làm
ngọt lừ cốc
cà-phê. Trong tình huống mỗi người một tháng được mua một lạng đường
vàng Cu-ba
thì đây quả là một lực hút khách ghê gớm. Ðó là chưa kể một mặt hàng
khan hiếm
khác: Một bát ô-tô nước đá đập nhỏ kèm theo. Hơn nữa cà-phê lại rất
chất lượng:
Mỗi người một phin pha theo kiểu Pháp. Trên miệng mỗi chiếc cốc đựng
đường kính
trắng là một phin cà-phê đang rỏ những giọt đặc quánh. Những giọt
cà-phê thẫm
đen ngấm vào đường như nước mưa hút vào cát trong sa mạc. Khi nước trên
phin
cạn hết thì đường trong cốc cũng xâm xấp. Ðến lúc ấy cái phin được nhấc
ra để
trên bàn. Khách hàng bắt đầu một công đoạn mới, công đoạn mà Dương
Tường trong
những lần về Hải Phòng đi uống cà-phê cùng chúng tôi đã nói rất chính
xác là
lao động cà-phê. Nghĩa là lấy cù-dìa đánh cho tan đường. Cũng cần phải
nói về
cái cù-dìa này. Nó nhỏ. Nó đúng là thìa cà-phê nhưng cán dài, dài hơn
chiếc cốc
vại và đều được đục thủng một lỗ tròn ở giữa lòng. Nghĩa là cái phần
khum khum
để xúc đưa lên miệng ấy có một lỗ thủng đục bằng đinh. Vì đục bằng đinh
nên nó
có ba via. Ba via có thể làm chẩy máu lưỡi, nhưng cũng may là nó đã mòn
cả vì
sử dụng lâu ngày. Rõ ràng cái cù-dìa không dùng để uống. (Tất cả các
cửa hàng
đều có chung một loại cù-dìa đục thủng như vậy. Tất tần tật. Ðể chống
lại những
vị khách hay thó cù-dìa đút túi. Ôi! Vỏ quít dầy có móng tay nhọn vậy
thay!)
Hàng trăm "ẩm khách" chen nhau vai sát vai cầm cù-dìa đánh cho cà-phê
hoà tan đường như người đánh trứng đường. Nghiêng người đi đánh. Mím
môi lại
đánh. Cong lưng đánh. Ngồi xổm lên đánh. Kẹp chặt cốc giữa hai bàn chân
đánh.
Ðánh như vậy rất thú. Hình như tất cả đang lên một cơn sốt đánh. Tiếng
cù-dìa chạm
vào thành cốc. Tiếng cù-dìa và thành cốc nghiền đường. Vì là cùng đánh
nên tự
nhiên tất cả các cánh tay cùng quay tròn một nhịp, tất cả những cái đầu
lắc lư
một nhịp. Như một cuộc lên đồng tập thể. Tất cả các tiếng động đều
giống nhau
và cùng một nhịp. Ðánh hăng. Ðánh say sưa. Ðánh cho đến khi nước cà-phê
nâu
thẫm bị ly tâm, nhợt ra, trắng ra, sủi bọt, lên kem như một thứ ca-cao
pha
loãng. Không ai thấy mệt. Mệt gì mà mệt! Ngồi dưới quạt trần quay vù
vù, chờ cô
mậu bưng ra những bát đá đập nhỏ chỉ trông cũng đã mát ruột mát gan để
rồi cho
vào cốc, lấy cù-dìa xọc xọc cho đá tan hoà lẫn thứ nước thơm thơm ngọt
lừ ấy là
một hạnh phúc. Ở nhà làm gì có quạt. ở nhà làm gì được uống một thứ
nước thơm
như thế, ngọt như thế, mát như thế, mát lạnh tim lạnh phổi. Mà ngoài
kia trời
đang nóng chẩy nhựa đường. Chen chúc xếp hàng mua được tích-kê -một
miếng sắt
sơn có dập chữ nổi- đã là một thắng lợi rồi. Dù có nóng bức đến đâu
chúng tôi
cũng chỉ được uống cà-phê đá là thứ cao cấp nhất. Kem thì đừng hòng.
Chúng tôi
chẳng thể nào chen được với các cháu thiếu nhi.
Thế mà nhiều khi thèm kem
quá, chính xác hơn là
nhớ mùi vị kem, cái cảm giác đưa que kem lên ngang miệng mà cắn, trong
những
lần đi nhổng như vậy, mặc dù đang gió mùa đông bắc, áo bông xo ro, mũ
bông bịt
tai, tôi và Nguyên Bình cũng rủ nhau vào hiệu kem Tam Hoàn đầu phố Phan
Bội
Châu, gần nhà hát thành phố mua kem ăn. Vì chỉ đến những lúc ấy chúng
tôi mới
mua được kem. Nhất là những ngày đại hàn, mưa dầm, mưa dầm dề dai dẳng.
Hiệu
kem không có một ai. Người ta chỉ bán kem que và phải ăn ở ngoài đường.
Chúng
tôi đứng ngoài vỉa hè chén kem. Run. Run lập cập. Ðầu gối đánh vào
nhau. Răng
đánh vào nhau. Nhìn nhau cười tím tái. Rồi kéo nhau vào một góc khuất
phía
ngoài nhà hát thành phố, sau mấy cây sanh khá kín đáo, nơi khách bộ
hành thường
ghé vào làm cái việc "giải thoát cho cái bong bóng", để tránh gió
mùa, tránh mưa phùn. Khai mù. Nhưng chúng tôi không lấy thế làm khó
chịu mà vẫn
cứ là vừa ăn kem vừa nhìn nhau cười. Và vẫn là cười tím tái. Chả ngày
ấy chúng
tôi còn chưa đến ba mươi tuổi.
Cùng làm báo Hải Phòng
kiến thiết (nay là báo
Hải Phòng), cùng trong một tổ phóng viên do Ðinh Chương làm tổ trưởng,
lại cùng
một chí hướng máu mê viết văn và nhất là cùng một tính cách, tôi và
Nguyên Bình
rất thân thiết gắn bó. Ngày nào cũng gặp nhau. Gặp ở cơ quan rồi lại
gặp tại
nhà. Ðến bây giờ cũng chẳng nhớ được chúng tôi đã chuyện với nhau những
gì mà
qua được nhiều năm tháng thế. Và thật phấn khởi biết bao khi Nguyên
Bình lên
thang gác, nói với tôi bằng một giọng bí mật:
-Sang bà T bảo cái gì.
Thế nghĩa là có món đây.
Nghĩa là được chị T sai
đến một cửa hàng nào đó, mua bằng phiếu hoặc bằng giấy giới thiệu một
món hàng
theo giá mậu dịch rồi đem bán lấy lời. Nhưng Nguyên Bình không dám nói
thẳng ra
điều ấy. Anh sợ. Anh bảo:
-Tao dính đến cái gì là
hỏng cái ấy.
Và anh làm một bản tổng
kết về cái số đen, cái
vận rủi của anh. Càng ngày bản tổng kết càng dài
. -Tao đi phà thì phà chết
máy, trôi xuống tận
Cảng chính, nửa ngày không qua được bến Bính. Ði ăn giỗ ở Hà Nội thì
trên ấy
làm giỗ rồi. Mọi năm vẫn làm vào ngày chủ nhật nhưng năm ấy lại giỗ
đúng ngày.
Ði ô-tô lên Hà Nội, người ta đi không sao. Mình đi ba lần nổ lốp. Sáu
giờ sáng
có mặt ở bến Niệm Nghĩa, tám giờ xe chạy mà mãi tối mịt mới đến bến
Nứa. Ði tầu
hoả thì tầu hoả hết hơi. Thật mà. Không đủ hơi leo dốc đầu cầu. Lên
được nửa
dốc lại trôi xuống.
Bảng thống kê rủi ro của
anh còn thêm một chuyện
mới nhất: Cho vợ đi làm thuê ở Cộng hoà dân chủ Ðức thì Cộng hoà dân
chủ Ðức
tan. Nhưng điều rủi ro ấy lại hoá thành may. Do phải về nước trước khi
kết thúc
hợp đồng, vợ anh được bồi thường một khoản đê mác kha khá, làm dấn vốn
cho cái
gia đình nhỏ bé ấy sinh sống. Sang bà T bảo cái gì. Tôi đạp xe sang.
Nhận tờ
giấy giới thiệu của một cơ quan nào đó xin mua một tút thuốc lá, đã có
chữ ký
phê duyệt của cửa hàng trưởng. Nhận cả tiền. Ði mua. Rồi cầm tút thuốc
Tam Ðảo
hoặc Ðiện Biên đi bán. Ði mua hàng tôi đi một mình. Ði đổ hàng tôi bắt
Nguyên
Bình cùng đi cho đỡ ngượng. Hai đứa ra ga. Rồi lại quành lại. Lượn vè
vè quanh
mấy hàng nước ở phố Ga, tút thuốc lá trong túi xách hơi thò lên để
người ta dễ
nhìn thấy. Lượn đi lượn lại mãi, chẳng có bà hàng nước nào chú ý đến
chúng tôi.
Chợt một anh xích-lô đang nằm ghếch chân trong lòng xe gần đó gọi to:
-Có gì bán đấy?
Khen cho con mắt tinh đời!
Vừa sung sướng vừa
ngượng vì anh ta gọi to quá, chúng tôi xuống xe, bước tới, nói rõ mặt
hàng. Ngã
giá nhanh. Dù có rẻ một hai giá. Bởi vì chẳng thể cứ lượn xe mãi như
vậy được.
Anh xích-lô dắt chúng tôi đi ngoắt ngoéo vào một khu tập thể.
-Vợ tớ làm công nhân nhà
máy Len. Tối nó bán
thêm cái này. Biết nhà rồi, hễ có cứ cầm đến đây nhé. Gặp tớ cũng được.
Gặp vợ
tớ cũng được.
Thế là yên tâm. Từ nay có
chỗ đổ thường xuyên.
Nhưng thuốc đâu mà đổ. Năm thì mười hoạ hễ có là chúng tôi lại mang đến
đấy.
Bẵng đi lâu lâu, tôi và
Nguyên Bình đang đạp xe
trên phố thì có tiếng gọi giật giọng:
-Này! Hai cậu! Ði đâu đấy?
Chúng tôi quay lại. Anh
bạn xích-lô. Anh cởi
trần, rướn xích-lô tới. Chiếc áo may-ô trắng đến loá mắt càng làm nổi
tấm thân
chắc lẳn ngăm đen của anh. Sau này ,"hồi ký cách mạng", ôn lại chuyện
cũ, cứ nhắc đến anh là tôi và Nguyên Bình lại nhắc đến cái áo may-ô ấy.
Ðúng là
áo anh trắng quá nhìn không ra [1] . Anh dừng xe bên chúng tôi, rất cởi
mở:
-Mình vừa bị cái hạn.
-...?
Anh vén chiếc áo may-ô
trắng loá mắt lên:
-Ðây này. Một vết sẹo rúm
lại ở mạng sườn.
-Nằm bệnh viện mất nửa
tháng. May mà vết thương
không sâu. Tốn gần trăm bạc đấy hai cậu ạ.
Cũng
cần
phải nói thêm rằng anh chỉ trạc tuổi chúng tôi mà cứ cậu cậu tớ tớ ngọt
xớt dù
mới quen nhau. Rồi anh than thở cái điều có lẽ anh đã nói với nhiều
người:
- Mình có làm gì vợ nó đâu
mà nó đâm mình...
Chúng tôi bấm bụng để khỏi
phì cười. Mãi đến lúc
đó chúng tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện.
-Bà ấy có nói gì không?
-Mới đầu nó bỏ mặc mình
nằm khô ở bệnh viện, rồi
sau nó cũng vào chăm nom.
Chúng tôi chia tay anh,
chẳng biết động viên anh
thế nào. Ðó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Lần nào đi qua phố Ga
cũng để
ý nhìn anh mà không thấy. Có thể anh đã chuyển nhà? Ðã li dị? Hay đã
chết bom
B52?
Thế rồi một lần khác
Nguyên Bình lại đến. Lần
này thì :"Ði với tao." Không phải "sang bà T. bảo cái gì"
nữa. Lại giục: Ði ngay không lỡ. Rồi cho tôi biết nhiệm vụ mới: Hai
thằng sang
cửa hàng mậu dịch bên Hạ Lý, chìa hóa đơn ra, hoá đơn tao cầm đây rồi,
mua một
tạ cám, hai bao, mỗi bao năm mươi ki-lô. Nh. bảo năm mươi ki lô cám
nhiều đấy,
bao to đấy, mỗi thằng đèo một bao, không cần giây, cứ đặt bao ở pooc
ba-ga, một
tay giữ, đặt bao cho cân là không việc gì đâu. Ðến trước cửa Ðài Liệt
sĩ, đầu
đường Hồng Bàng ấy, vất bao cám xuống đường. Rồi cứ đạp xe đi. Thế là
xong. Ðã
có người đón sẵn ở đấy rồi. Lấy xe đi luôn không muộn mất giờ G.
-Gượm đã. Nhưng sao lại là
Nh. Nh. là ai vậy?
-Mày quên Nh. rồi à? Nh.
đã gặp mày ở cơ quan
hôm nàng đến đưa bài ấy. Mày cứ khen là trông khá quá ấy.
Tôi đã nhớ ra cô gái ấy.
Một thông tín viên của
chúng tôi. Rất mê văn chương và thích viết văn. Phục Bình lắm. Có vẻ
thích Bình
mà linh tính của tôi chưa bao giờ nhầm trong chuyện này, còn Bình cứ
nói vơ vào
là mê Bình như điếu đổ. Bình lại bảo:
- À quên. Tiền đây. Lãi
đây. Vốn nàng ứng. Nàng
bán hộ. Lãi ba chục. Nàng đưa trước đây. Chia đôi. Mày mười lăm đồng.
Thôi đi
ngay không muộn.
Trời ơi! Sao có người
tuyệt vời đến thế. Mười
lăm đồng là một phần tư tháng lương của chúng tôi. Chúng tôi phải nhặt
nhạnh ky
cóp, lăn ra mà viết, đủ các thể loại, cho các báo, các nhà xuất bản
nhưng vẫn
chẳng thế nào đủ sống. Từ lúc ấy tôi hoàn toàn tin lời Bình nói. Rằng
cô ta yêu
Bình như điếu đổ. Chúng tôi thực hiện tốt kế hoạch cô thông tín viên đề
ra. Có
điều trước cửa Ðài Liệt sĩ là nơi họp chợ, một cái chợ vỉa hè mà người
bán là
bà con nông dân từ Thuỷ Nguyên sang, từ An Hải đổ về, rất đông kẻ bán
người
mua. Tôi và Bình hiệp đồng tác chiến chính xác đến từng giây. Khi tới
chỗ ngang
với gốc cây gạo, đúng như quy định, chúng tôi hất hai bao tải cám xuống
lòng
đường rồi vẫn bình thản đạp xe đi, như người đãng trí đánh rơi mà không
biết.
Ðúng lúc đó một chiếc xích-lô từ phố Khách lao ra. Anh xích-lô nhanh
nhẹn bốc
hai bao cám lên xe, phóng đi rồi ngoặt vào đường ra bến Bính và biến
mất. Tôi
thoáng thấy cô Nh. đứng ở đầu phố Khách, nơi anh xích-lô vừa từ đấy lao
ra, nở
nụ cười mãn nguyện. Cả chợ nhìn theo chúng tôi, không hiểu chuyện gì
xẩy ra.
Nhất định không ai nghĩ đó là một phi vụ mua bán. Không ai mua bán như
vậy. Tôi
tin rằng cô Nh. trẻ trung tươi tắn xinh đẹp ham thích viết văn và tuyệt
vời kia
có tiềm năng hoạt động và chỉ huy biệt động trong lòng địch. Chỉ vì
không có
điều kiện phát huy nên khả năng ấy bị mai một mà thôi. Cô đã nghĩ ra
một kế
hoạch ly kỳ hấp dẫn để kích thích chúng tôi tham gia như một trò chơi,
để có
thể giúp đỡ chúng tôi gần như từ A đến Z, bởi vì Bình cũng như tôi đều
không
biết bán cám ở đâu và nhất định không chịu làm cái việc đi bán cám.
Ở báo Hải Phòng, tôi,
Nguyên Bình và cả tổ
trưởng Ðinh Chương nữa gần như một ốc đảo riêng biệt. Tất cả cơ quan
nhìn chúng
tôi bằng con mắt khang khác, đầy nghi kỵ. Nguyên nhân là cả ba chúng
tôi đều
ham thích viết văn và đều có những sáng tác được in thành sách. Nguyên
nhân là
cả ba chúng tôi có mặt ở cơ quan chỉ để nộp bài, họp và lĩnh lương,
không la cà
trà dư tửu hậu phòng này phòng khác. Ba cái bàn, đặc biệt là hai cái
của tôi và
Nguyên Bình gần như không được dùng đến. Nguyên nhân là chúng tôi viết
bài có
khá hơn các phóng viên khác đôi chút dù đều là thầy ký nhật trình tỉnh
xép và
lương thấp hơn họ. Nguyên nhân là chúng tôi không phụ hoạ vào dàn đồng
ca chửi
phim Bài ca người lính, Số phận con người và ngược lại còn luôn khẳng
định đấy
là những kiệt tác của điện ảnh xô-viết. Nhưng chúng tôi vẫn được dùng,
vẫn được
giao viết những bài phông cho những số báo đặc biệt. Chúng tôi bám chắc
cơ sở.
Ðến với cơ sở như những người bạn. Có giao thừa nào tôi không ngồi tít
trên bể
bùn nhà máy xi-măng, ra máy búa rồi xuống nhà tháo bụi mù mịt để làm
một cái
ghi nhanh về bao xi-măng đầu tiên lúc giao thừa. Và Nguyên Bình thì ra
Cảng.
Cũng lại ghi nhanh về mã hàng đầu tiên trong năm mới. Tất cả đều ghi
nhanh và
đều nộp cho tổ trưởng Ðinh Chương. Bài đăng trang nhất. Còn nói chúng
tôi sao
được. Cũng có những lúc ham chơi. Tôi ham chơi. Nguyên Bình còn ham
chơi hơn
tôi. Hẹn giờ nộp bài hay họp tổ, anh thường đến muộn. Ðinh Chương gắt:
-Ông này
buồn cười nhỉ. Sao bây giờ ông mới đến? Tôi có quản lý ông gò bó tám
giờ vàng
ngọc ở cơ quan đâu, nhưng đã hẹn thì phải đúng giờ chứ! Nhiều lần như
vậy, Bình
đều nhận khuyết điểm, nhận rất thành khẩn nhưng không bao giờ sửa. Rồi
anh nghĩ
ra một mẹo khác. Ðáp lại sự gắt gỏng càu nhàu của Ðinh Chương, anh càu
nhàu
lại:
-Tôi đến từ nẫy, chờ anh
mãi, vừa đi quanh một
tý...
Ðinh Chương ngớ ra:
-Ờ ờ...Tớ chờ cậu không
thấy, cũng vừa đi quanh
tý thôi.
Té ra Ðinh Chương cũng đến
muộn. Cái trò contre-
attaque ấy, Bình sẽ còn sử dụng nhiều lần. Cũng chỉ vì ham chơi, mải
vui quên
hết lời anh dặn dò mà khi Ðinh Chương giao cho Bình đi viết một bài về
hợp tác
xã Thắng Lợi ở Quán Trữ (Kiến An), nước đến chân mới nhẩy, anh bổ nháo
bổ nhào
đạp xe lên Quán Toan, trên đường đi Hà Nội, nơi cũng có một hợp tác xã
mang tên
Thắng Lợi. Tổ trưởng Ðinh Chương khi duyệt bài cũng không để ý đến cái
hợp tác
xã Thắng Lợi ấy ở Quán gì. Về sau Nguyên Bình còn làm cả một cái thống
kê các
hợp tác xã nông nghiệp có những tên giống nhau. Như Thuỷ Nguyên có 4
hợp tác xã
mang tên Thống Nhất, An Hải 5. Vĩnh Bảo 3. Tiên Lãng những 7 cơ mày ạ.
Tên là
Ðoàn Kết: Thuỷ Nguyên 6. Vĩnh Bảo cũng 6. An Hải ít thôi... Anh cười
khì khì:
-Mình có viết sai một tý
thì thằng nọ cứ tưởng
mình viết về thằng kia.
Tôi bảo:
-Cả làng Vũ Ðại ai cũng
nghĩ chắc nó chừa mình
ra.
Cũng như những người viết
văn trẻ khác, chúng
tôi đều viết về con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, và
khao
khát được viết thật hơn, không chỉ có những thuận lợi mà còn những khó
khăn,
không chỉ những người trung thực mà còn những kẻ quan liêu, những tên
nịnh hót.
Cái truyện ngắn Người chết không cô độc của Nguyên Bình được viết ra
với những
ý nghĩ như vậy. Nó đã làm anh gay go. Gay go cả đến tôi. Trong xà lim,
người ta
hỏi tôi rất nhiều về truyện ngắn đó. Nó làm người ta chú ý, lo ngại.
Chỉ vì cái
tên thôi. Cứ như là chuyện một người hy sinh, chết vì một cái gì đó,
nhưng anh
ta không cô độc, có nhiều người đứng bên anh. Tôi đánh giá nó là một
truyện
trên trung bình, một truyện ca ngợi con người mới không xuôi chiều, có
một chút
ngẫm ngợi riêng, thế thôi. Thế mà đã gây ra dư luận cảnh giác, lên án
dù chưa
in cũng như chưa ai đọc.
Nguyên Bình đã có một thời
gian dài nằm bệnh
viện tâm thần, đi Ðông Khê như người ta thường nói. Quả là một dạo thần
kinh
anh quá căng thẳng, nhưng không đến nỗi phải xuống Ðông Khê. Cũng như
Nguyễn
Văn Chuông, cũng như Nguyên Hồng, anh mắc phải bệnh sợ người ta hãm
hại. Mỗi
bước đi anh đều thấy nguy hiểm rình rập ở đâu đó. Anh luôn chờ đợi tai
hoạ và
sẵn sàng đón nhận tai hoạ, thậm chí còn mong nó đến ngay đi để chấm dứt
những
ngày chờ đợi. Trong những giờ phút tỉnh táo anh quyết định xuống Ðông
Khê, dù
phải vận động chạy chọt, để được sống trong một thế giới riêng, hoàn
toàn yên
tĩnh, an toàn tuyệt đối như anh nghĩ.
Có những người điên cực kỳ
nguy hiểm, những
người điên phải trói chặt chân tay, những người điên nhốt trong cũi
sắt, nhưng
cũng có những người điên hiền lành, người điên gạch ngói [2] . Anh
chuyện trò
với họ, nô đùa với họ. Anh làm ngựa cho những đứa trẻ điên cưỡi và cưỡi
lên
lưng những người điên tình nguyện làm ngựa cho anh. Có một anh cán bộ
đoàn bị
điên đang chuyện như những người tỉnh táo nhất, bỗng nhiên hoảng hốt,
nghiêm
sắc mặt, người gồng lên, chuyển thế trung bình tấn. Anh vận hết nội
công, nội
lực xuống hai chân, ghì giữ lấy vết nứt của quả đất đang toác ra ngay
dưới chân
anh. Vết nứt ấy mỗi lúc một bửa rộng ra, toang hoác, đen ngòm. Tất cả
cuộc sống
của loài người, của muôn loài đang phụ thuộc vào anh, nếu anh không đem
hết sức
bình sinh ra giữ, vết nứt ấy sẽ cứ to mãi to mãi cho đến khi quả đất vỡ
đôi ra
như người ta tách quả bưởi vậy. Thế là hết. Là tận thế. Không chỉ giữ
vết nứt,
anh còn phải bằng sức mạnh đôi chân, kéo khép dần vết nứt lại, cho nó
hàn khẩu,
cho quả đất trở lại bình thường. Anh cán bộ đoàn nghiến răng xuống tấn,
khuôn
mặt xương xẩu nổi cục gân cốt, tóc dựng đứng, móng tay cáu bẩn cắm vào
lòng bàn
tay chẩy máu, mắt trừng trừng nhìn vào vũ trụ. Không ai có thể kéo được
anh ra
chỗ khác. Không ai có thể xô ngã được anh. Anh như một thứ Từ Hải chết
đứng. Vì
anh đang thực hiện một nhiệm vụ lớn lao mà số phận đã giao phó: Cứu
trái đất.
Cứu nhân loại. Khi thấy vết nứt giữa hai chân, dưới háng đã khép lại,
mím lại,
liền lại, anh ngồi bệt xuống đất thở, mặt nhợt ra trắng bệch như tờ
giấy, người
đẫm mồ hôi, mềm nhũn rồi đổ kềnh bất tỉnh.
Nguyên Bình kết bạn với
một anh giáo viên dạy sử
bị điên. Ðang vui câu chuyện, thỉnh thoảng anh lại im bặt, nhìn ngó
chung quanh
và hét lên:
-Kẻ xấu đã lộ mặt!
Hoặc đứng yên, xếp giấy
cầm trên tay, hơi ấp vào
ngực như đứng trên bục giảng, nói với những học trò vô hình đang im
phăng phắc
chờ nuốt từng lời bài giảng của anh:
-Tiếng Phạn. Hôm nay thầy
dạy các em về tiếng
Phạn cổ ...
Nằm ở Ðông Khê (cũng là
nơi Nguyên Hồng viết tập
tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ) Nguyên Bình đã khỏi hẳn triệu chứng sợ người
ta hãm
hại. Anh trò chuyện với những người điên và ghi chép. Ở Ðông Khê chỉ có
hai
bệnh nhân viết. Ðó là Nguyên Bình và người thầy dạy sử. Một hôm người
giáo viên
kia ôm một bọc ni-lông giấy tờ khá nặng ra định đốt. Nguyên Bình vội
chạy tới.
Người điên hiền lành nhìn anh cười. Que diêm đã bật cháy. Anh ta vẫn
nhìn
Nguyên Bình và vẫn cười. Nguyên Bình cười lại. Que diêm cháy rồi tắt
giữa hai
ngón tay, anh ta cũng không biết đau. Anh giáo viên sử hất hàm về phía
đống
giấy và hất hàm về phía Bình. Thế nghĩa là có lấy không? Tớ đốt bây giờ
đây
này. Ðược lời như cởi tấm lòng, Bình gật. Có đến mười ki-lô giấy các
loại, chi
chít chữ viết bằng bút chì, mực tím, mực xanh, mực đỏ. Viết ngoáy cả
hai mặt
giấy, gần như không thể nào đọc được.
Trích Cô gái mồ côi và hòn
đảo (Tiểu thuyết của
Nguyên Bình):
Có thể
vì tò mò, cũng có thể chưa biết làm gì trong mấy ngày trước mắt, người
đeo kính
đen kiên trì thật đáng khâm phục tìm ra trật tự trong cách sắp xếp rối
loạn của
mớ giấy. Nói đúng hơn, ông đã tìm cách đọc được lúc thì những tư tưởng
mạch
lạc, lúc thì vài đoạn văn lẻ tẻ nhưng sáng sủa, sắc sảo đến bất ngờ.
Ông lọc
riêng những đoạn ấy ra, cố sắp xếp thành hệ thống nhưng không làm nổi.
Trong
tay người đeo kính đen bây giờ có tập văn bản được xếp theo ý người
chọn. Ông
chất tất cả vào một tờ bìa gấp. Ngoài bìa đã có sẵn dòng chữ kẻ to của
chính
người viết. Ông mỉm cười khi đọc những dòng chữ ấy: bản dịch nguyên văn
từ
tiếng phạn cổ. Trong cả chồng giấy chất ngất loại ra không có dấu hiệu
nào của
văn bản tiếng Phạn hay một thứ tiếng nào khác. Có thể người dịch đã
mang sẵn
thứ tiếng ấy trong trí nhớ di truyền. Biết đâu. Nhưng điều đó không
quan trọng.
Chính người dịch đã có một câu rất hay dường như để giải đáp cho ai đó
có thể
nêu nghi vấn cả về bản dịch, cả về nội dung: Hãy bác bỏ được tôi rồi
hãy phủ
nhận. Người đeo kính đen viết dòng chữ ấy vào một tờ giấy trắng, đặt
lên trang
đầu bản thảo.
Những
tư tưởng của người giảng viên khoa sử đặt ra từ phía ít ai ngờ nhất.
Người đeo
kính đen nghiền ngẫm rất lâu những dòng bàn về thuyết luân hồi, linh
hồn của
đạo Phật và những câu kết luận: Con người không chỉ chịu trách nhiệm về
cuộc
sống trước mắt mà hàng vạn năm sau vẫn gánh hậu quả của thiện-ác.
Tôi đã trích gần trọn hai
trang 98, 99 quyển
tiểu thuyết thứ ba của Nguyên Bình, quyển Cô gái mồ côi và hòn đảo. Bởi
vì anh
chính là người đeo kính đen trong truyện.
Nguyên Bình hoàn toàn quên
bẵng mình đang trong
nhà thương điên. Anh đang đi du lịch vào một thế giới bí hiểm, hấp dẫn,
lần đầu
tiên anh đặt chân tới, mà mỗi bước đều hứa hẹn một điều mới lạ, mới lạ
đến kinh
ngạc. Anh quên hẳn mọi lý do đã xô đẩy anh tới đây. Có lẽ nhờ thế mà
anh khỏi
bệnh. Ðúng là một cách chữa bệnh tuyệt vời. Anh sửng sốt đọc những dòng
anh
điên luận về người điên:
Người
điên là gì? Ðó là món quà hồi tổ. Con người sơ khai sống bản năng ra
sao, người
điên như thế. Không lễ nghi, không lệ thuộc vào những quy ước nhiều khi
làm méo
mó bản tính. Ðó là những người sống thật tình nhất, đúng bản tính
nguyên thuỷ
nhất. Muốn nghiên cứu loài người buổi bình minh, hãy nghiên cứu người
điên.
Nguyên Bình viết:
Trong vùng mung lung của
ánh sáng trí tuệ đan
xen với bóng tối bản năng, những phút loé sáng của người bệnh tâm thần
thật
đáng kinh ngạc. Người giảng viên khoa sử này nghiền ngẫm về tất cả,
quan sát
tất cả. Anh viết về những đứa trẻ mồ côi: Chúng lên năm, lên ba, mười
ba hay
mười lăm? Không. Chúng không có tuổi. Chúng là con của mọi thời đại,
mọi dân
tộc. Chiến tranh, tai ương là bố mẹ chúng. Chúng là phần bất hạnh nhất
của nhân
loại, đi cùng nhân loại từ khai sinh tới tận hôm nay.
Nguyên Bình đang đọc thì
người điên vào. Ôi! Cái
Nhật ký người điên này mới hấp dẫn và mê ly làm sao! Người điên ngồi
xuống
giường, ý tứ uống từng ngụm nhỏ chén nước được mời. Hết, người điên xin
chén
nữa. Lại chén nữa. Nhưng vẫn uống chậm rãi. Biết thưởng thức thứ hương
vị nước
chè từ lâu không được uống. Rồi rụt dè hỏi Nguyên Bình về những trang
viết của
mình. Nguyên Bình thành thật:
-Những trang đọc được tôi
rất khâm phục.
Người điên thành thật
không kém:
-Như thế là công bằng. Có
phải công trình của
mình tôi đâu. Của nhiều đời.
Nhưng sao anh lại nói
những đoạn đọc được. Chỉ
những phần cần giữ bí mật tôi ghi bằng ký hiệu. Tất cả đều đọc được.
Rồi người điên nói mỗi lúc
một nhanh như sợ
không kịp nói những điều cần nhất:
-Con người là đối tượng
của một cuộc thử nghiệm
tồn tại với tư cách là một vũ trụ nhỏ, gắn bó hữu cơ với vũ trụ lớn và
vũ trụ
vi mô, theo chương trình đã được vạch sẵn cho nhiều triệu năm. Ðến lần
thứ n
nào đấy, chương trình được làm lại từ đầu nhưng ở mức phát triển cao
hơn.
Rồi lại vội vàng hơn,
nhanh hơn:
-Trẻ mồ côi và chính quyền
không có trong chương
trình. Loài người nên nhớ rằng ở bất cứ xó xỉnh nào của trái đất, có
thêm dù
chỉ một đứa trẻ mồ côi là họ đã tạo ra khả năng làm rối loạn cuộc thử
nghiệm.
Ðang nói hăng say, chợt
người điên đứng lên hất
tấm chăn phủ người xuống, thét to như cảnh báo:
-Kẻ xấu đã lộ mặt!
Tôi đã chép lại nhiều dòng
trong Cô gái mồ côi
và hòn đảo. ý nghĩ cho rằng loài người chỉ là một chương trình thử
nghiệm của
người giáo viên dạy sử đến hôm nay tôi lại bắt gặp trong những trang
tiểu
thuyết của Kun-đê-ra, Sự bất tử. Nhân vật Agnes nghĩ: "Thay cho Chúa ở
đây
là một chương trình được thực hiện không sai lệch cho dù vắng Người,
đồng thời
không ai có thể thay đổi chút gì trong chương trình đó (...) Tất cả
những việc
còn lại, theo quan điểm của tạo hoá, không có chút ý nghĩa nào cả mà
chỉ là một
trò chơi của một chương trình tổng thể đã được định trước, chương trình
đó
không phải là sự tiên đoán thấy trước tương lai...
Khác với Agnes (hay chính
xác hơn, khác với
Kun-đê-ra) người điên trong Cô gái mồ côi và hòn đảo (hay Nguyên Bình
cũng vậy)
muốn đưa ra một lời kêu gọi con người hãy hướng tới điều thiện. Anh
viết: Con
người không chỉ chịu trách nhiệm về cuộc sống trước mắt, mà hàng vạn
năm sau
vẫn gánh hậu quả của thiện-ác.
Với tôi, Cô gái mồ côi và
hòn đảo là một quyển
tiểu thuyết hay. Hay hơn Hương của anh. Hay hơn Những ngày đã qua,
quyển tiểu
thuyết được giải A của Hội Nhà văn và Tổng công đoàn của anh. Và tất
nhiên hay
hơn nhiều quyển tiểu thuyết xuất bản thời gian đó. Nó rơi vào im lặng.
Người ta
không khen nó đã hẳn. Người ta cũng không phê phán nó và làm như không
có nó.
Trong Cô gái mồ côi và hòn
đảo, anh bắt những kẻ
xấu phải lộ mặt. Những kẻ xấu mới gian manh quỷ quyệt làm sao! Chúng
đều nấp
sau cái vỏ đạo đức, chúng đều nhân danh đạo đức, nhân danh những người
đang làm
điều thiện trong khi chúng dồn mấy đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ (bị
chết dưới
bom đạn Mỹ) phải thôi học, phải về một nơi "nghỉ ngơi", thực chất là
một thứ tù giam lỏng. Ðây là một cách đánh vợ con của chú Hạng, chú
ruột em gái
mồ côi: Khi cơn giận đã làm tím mặt, chú cấu dứt thịt vào bất cứ chỗ
nào, tát
hoặc đấm. Chú làm việc đó một cách kín đáo không để người ngoài thấy.
Dù sao
chú cũng có bằng đại học. Người bị đánh, bị sỉ nhục càng đau, nét mặt
chú dần
dần càng trở lại hoà nhã, lịch sự.
Mọi cách đánh người của
những kẻ xấu trong tiểu
thuyết đều là như vậy. Tất nhiên không đánh đạp cấu véo da thịt như chú
Hạng.
Mà đánh vào cuộc đời người khác một cách rất dã man dưới cái vỏ đạo
đức. Nhưng
Nguyên Bình đã bắt chúng phải lộ mặt. Cô gái mồ côi và hòn đảo không
chỉ có
những kẻ xấu, không chỉ có triết lý của chương trình thử nghiệm. Nó có
cái ly
kỳ và sự tưởng tượng bay bổng của Ðảo giấu vàng, nó có Tê-nác-đi-ê
nhưng cũng
có Giăng Van-giăng, có tình thương yêu đùm bọc của những đứa trẻ mồ
côi, có
những trang cảm động về đám giỗ bố mẹ mà lũ trẻ làm trong trại, về cô
bé Thu mồ
côi cả cha lẫn mẹ, lần đầu tiên trở thành thiếu nữ, thấy máu trong
người nhỏ
giọt cứ nghĩ mình sắp chết. Anh rất kiệm lời nhưng vẫn làm ta phải mỉm
cười một
mình khi đọc những nhận xét của anh về con chó Bim, về những sinh hoạt
của trẻ
nhỏ, bởi vì chúng mồ côi nhưng vẫn là trẻ nhỏ. Và những trang viết về
nông
thôn, cái tình của anh khi nhìn thấy cánh đồng, thấy con sông đang
chẩy, ngửi
mùi rơm rạ phơi già nắng, bởi vì như anh đã tổng kết: Mỗi người dù xa
quê nhiều
đời, vẫn có trong ký ức di truyền hương vị quê hương.
Gò Ðống Ða 1987
C4 Thanh Xuân Bắc 1989
Ðó là thời gian và nơi
Nguyên Bình viết Cô gái
mồ côi và hòn đảo, được ghi sau dòng cuối cùng. Anh đã về hưu non. Tôi
phải
gạch dưới những chữ này để trả về cho nó ý nghĩa ban đầu, bởi vì gần
đây ba từ
về hưu non được dùng để chỉ những vị sáu bẩy mươi còn chưa muốn rời ghế
làm
việc, vẫn còn muốn tiếp tục phục vụ nhân dân.
Anh cũng đã chuyển về Hà
Nội, bỏ lại tôi một
mình ở Hải Phòng, khiến tôi lâm vào cảnh không còn nơi nào để mà đi đến
nữa.
Chưa bao giờ tôi nghĩ Cô gái mồ côi và hòn đảo là tập sách cuối cùng
của anh,
chưa bao giờ tôi nghĩ anh lại bỏ bút. Bởi vì hơn ai hết tôi biết anh
còn bao dự
định, bao điều muốn nói, những điều mà cứ để trong lòng sẽ vón cục lại
như một
khối u. Nhất là giờ đây việc viết và in đã cởi mở hơn trước rất nhiều,
làn gió
dân chủ dù còn những khó khăn nhưng đã là một xu thế xã hội, khiến tôi
đã cai
viết gần ba mươi năm cũng đã cầm bút trở lại. Ðó là chưa kể anh đang
hưu trí an
nhàn, có nhiều thời gian rảnh rỗi.
Thế nhưng chính vào lúc
anh đang hưu trí an nhàn
ấy, chính vào lúc tôi viết trở lại ấy, Nguyên Bình gác bút, không viết
thêm một
dòng nào nữa. Anh dứt hẳn với văn chương khi anh chưa đến 50 tuổi, đang
độ
chín, chín trong nghề nghiêp, chín trong cuộc sống. Anh không viết nữa
giữa lúc
anh có nhiều thời gian rảnh rỗi, có nhiều điều để viết, khi anh đã là
hội viên
Hội Nhà văn và tổ chức được cuộc sống gia đình có thể tạm gọi là ổn
định. Ðã có
lần Nguyên Bình nói về tình bạn giữa hai chúng tôi đại ý: Dù chúng tôi
có xa
nhau bao lâu, khi gặp lại cũng vẫn như mới chia tay nhau hôm trước, câu
chuyện
giữa chúng tôi vẫn chỉ là nối tiếp câu chuyện dở dang lúc chia tay.
Không có
khoảng cách nào cả về không gian, cả về thời gian có thể làm chúng tôi
không
hiểu được nhau. Thế mà giờ đây cái điều đáng buồn đã xảy ra: Chúng tôi
không
đối thoại được cùng nhau. Không có sự hiểu lầm nào. Không có mâu thuẫn
nào giữa
chúng tôi. Tôi đến anh. Vợ chồng anh, hai cháu gái Tùng Cương, Tùng
Ngọc coi
tôi là người ruột thịt trong nhà. Anh xuống Hải Phòng với tôi, vợ con
tôi reo
lên:
-Chú Phú!
Phú là tên khai sinh của
anh. Chúng tôi đến nhà
nhau, lúc nào cũng thấy thoải mái như đang ở nhà mình. Bia hơi. Món nem
trạo ưa
thích, vừa rẻ tiền, vừa khoái khẩu. Nhưng cái mệt là sau những giây
phút đầu
tiên gặp gỡ ấy, sau những bữa ăn ấy. Cơm xong, chúng tôi kéo nhau lên
phòng nhỏ
trên tầng ba trò chuyện. Một căn phòng anh mới xây thêm cho riêng anh,
một thứ
chuồng câu cao và xinh xắn. Ngày, anh đi với những học sinh của anh,
những
người bệnh của anh. Tối, anh lên đấy ngủ. Chỉ một mình anh. Hình như là
để tiếp
nhận linh khí của trời đất. (Chà! Cái người rất chăm chỉ trong chuyện
chăn gối
này đã quên hẳn chuyện chăn gối.) Và trong khi tôi mới viết văn trở lại
có bao
điều muốn nói cùng anh thì anh chỉ nghe tôi như một chủ nhân lịch sự
đang tiếp
khách. Rồi anh nói. Anh nói về những khả năng kỳ diệu của con người, về
phương
pháp tĩnh công ý thức, những thuật ngữ tôi chỉ nghe cũng đã rối tinh
đầu óc.
Anh sôi nổi: Mày tập đi. Cái này hay lắm mà mày không tập thì phí quá.
Tao đi
vào cái này và nghĩ đến bạn bè, tất nhiên là nghĩ đến mày trước tiên.
Anh nói
về linh khí, linh địa, về những khả năng tiềm ẩn của con người, về linh
hồn bất
diệt, về những lập trình của tự nhiên, con người từ đâu đến, chúng ta
là ai,
chúng ta đi đến đâu. Tôi căng hết trí não ra nghe. Và gật gù cười cười
tán
thưởng. Bỗng anh hạ một câu chính xác, trúng tim đen:
-Nói chuyện với mày thà
nói chuyện với đầu gối
còn hơn.
Tôi cười ầm:
-Quả thật tao không hiểu
gì hết, nhưng cứ phải
cố làm ra vẻ thế thôi. Rất chi là hoang mang. Nguyên Bình cũng bật cười:
-Anh hoang mang khi chưa
nắm tình hình. Nắm tình
hình rồi tình hình rất hoang mang.
Ðó là hai câu thơ trong
truyện ngắn của Hồng
Hoang mà cả hai chúng tôi cùng thích. Bình lại nói:
-Trong
các lớp học, tao giảng cho học viên nghe, đến những chỗ tao biết là rất
găng,
tao hỏi: Thế nào? Hoang mang lắm phải không? Anh hoang mang khi chưa
nắm tình
hình. Nắm tình hình rồi tính hình rất hoang mang. Bây giờ học viên ai
cũng
thuộc hai câu thơ ấy.
Bình nói anh có thể định
được giờ anh ÐI. Khi ấy
tao sẽ gọi các con tao lại và bảo bố đi đây. Thế là tao đi. Rồi lại sôi
nổi
thiết tha:
-Mày tập đi. Cái này tốt
lắm. Mình biết nó rất
hay, muốn phổ biến cho bè bạn mà bè bạn không nghe thì tiếc lắm.
Gần như áp đặt, anh xuống
Hải Phòng mở một lớp
học ngắn ngày. Dạy chúng tôi cách thở. Cách khai mở các luân xa. Chúng
tôi tập
ngồi, tập thiền. Anh cho tôi xem các hợp đồng với các bệnh viện, các cơ
quan
khoa học về thí điểm tập cho người mù biết đọc, xem ti vi, nhìn được.
Tất nhiên
cái ánh sáng anh đem đến cho người mù không phải là thứ ánh sáng vật lý
thông
thường. Và anh cho xem cả những biên bản về những cuộc kiểm tra kết quả
bằng
cách đưa những người mù học viên của anh đến những công viên Hà Nội
nhiều cây
cối để họ đi trong công viên như những người bình thường, không phải
giơ tay ra
sờ soạng dò đường. Anh có nhiều học viên. Người ta đón anh vào thành
phố Hồ Chí
Minh. Anh giảng ba ca liên tục trong nhiều ngày đến mức thời gian đó
tôi cũng ở
trong ấy với con tôi mà anh quên mất lời hẹn, không lại chơi cũng như
không gọi
điện, còn tôi chẳng biết anh ở đâu để mà điện thoại để mà tới thăm. Một
lần lên
Hà Nội, tới nhà một người bạn là cán bộ trung cấp trong quân đội ở khu
Nam
Ðồng, tôi thấy rất nhiều các sĩ quan quân đội đang tập trung chờ thầy
đến. Rồi
thầy đến. Tôi ngạc nhiên và vui mừng biết bao vì người thầy tiên phong
đạo cốt ấy
là Nguyên Bình. Quả là tiên phong đạo cốt: Mình gầy vóc hạc, tóc bạc,
lông mày
bạc, râu bạc, dù ngày ấy anh mới ngoài năm mươi tuổi.
Bạn bè ở Hà Nội nói với
tôi: Thằng Nguyên Bình
là bậc đại sư rồi.
Tôi không biết tài năng
chữa trị của Bình đến
đâu, và quả thật tôi cũng chưa tin những điều Bình nói về khả năng gần
như vô
tận của con người, về cái tuổi thọ con người lẽ ra được hưởng, nhưng
tôi có
chứng kiến một sự việc nhãn tiền. Chị Tưởng, vợ anh bị thiểu năng tuần
hoàn não
nặng. Ði lại khó khăn. Không thể ra khỏi cửa. Ðã đến các bệnh viện,
dùng đủ các
thứ thuốc đắt tiền. Mà đâu vẫn hoàn đấy. Vẫn đi lại khó khăn. Vẫn không
ra khỏi
cửa. Bình đã chữa cho vợ. Không phải dùng thứ thuốc nào. Chị đã trở lại
khoẻ
mạnh. Ðã đi xe máy được giữa phố phường đông đúc Hà Nội.
Ðó là một việc có thật.
Nhưng tôi vẫn hoang
mang. Càng hoang mang hơn khi anh rủ rỉ:
-Mày tập đi. Mày tập đến
một độ nào đấy thì sẽ
không muốn viết nữa.
Tôi giẫy nẩy:
-Không. Không. Tao đang
muốn viết lắm.
Tôi không hiểu và tin rằng
mình không thể hiểu
được những gì Bình đang theo đuổi. Chỉ lờ mờ rằng đạo của anh -nếu có
thể nói
được như thế- có một cái gì rất gần với đạo Phật và cũng rất gần với
những suy
nghĩ của anh trong Cô gái mồ côi và hòn đảo. Nó bắt nguồn từ những ngày
xa xưa,
từ những ngày anh chữa bệnh ở Ðông Khê, gần gũi những người điên. Hay
nói theo
cách của anh: Sự chuyển hướng của anh đã được mã hoá, đã được cài đặt
trước.
Ðến tháng ấy năm ấy, Nguyên Bình sẽ làm những việc như thế, thành một
người như
thế. Anh muốn tôi theo anh, từ bỏ những việc trần tục tôi đang làm để
đi với
anh tới những gì rộng lớn hơn của kiếp người. Anh muốn tôi thiền. Nhưng
tôi là
người nặng nợ. Tôi còn phải viết. Tôi cũng được mã hoá rồi.
Cứ gặp nhau là anh thuyết
phục tôi. Về thuyết
luân hồi. Về cái vòng đời của chúng ta không dài hơn vòng đời một con
ruồi dấm.
Rồi lại những khả năng vô tận của con người, rồi ba dạng tồn tại của
vật chất:
Vật chất thô, vật chất tinh hoa, vật chất trung gian... Và bất chợt
nhận ra vẻ
mặt ngây ngô của tôi:
-Không hiểu phải không?
Hoang mang lắm phải
không?
Không ai bảo ai, ngay lập
tức cả hai chúng tôi
đều song tấu rất nhịp nhàng:
-Anh hoang mang khi chưa
nắm tình hình Nắm tình
hình rồi tình hình rất hoang mang.
1-2-2000
26 Tết Canh Thìn
Nhà xuất bản Hải Phòng,
2003
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Áo
em
trắng quá nhìn không ra (Hàn Mặc Tử)
[2]Tên những bài thơ của Hoàng Hưng
Comments
Post a Comment