KHẨU SÚNG SĂN
KHẨU SÚNG SĂN
Ryoju by Inoue Yasushi
(Phạm Đức Thân dịch từ bản Anh ngữ
Shotgun của George Saito)
Inoue Yasushi (1907-1991) viết báo, làm thơ trước khi xuất bản tác phẩm
đầu tay "Khẩu Súng Săn" năm 1949, và nổi tiếng tức thời. Trong lời bạt
của tác phẩm này in năm 1988, ông nhận xét: tuy truyện có chút vụng về
của buổi đầu, nhưng nó biểu thị con người ông đầy đủ nhất, hơn cả 50
tiểu thuyết và 150 truyện ngắn ông viết sau này, "có một cái gì cơ bản
mà tôi không thể thoát ra được"
Thật vậy, tác phẩm tâm lý sâu sắc này, tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng nó
có đủ tính chất chừng mực, chững chạc, súc tích, trữ tình, chi tiết, và
nhất là chất thơ (dẫu sao ông còn là thi sĩ) của một bực thầy.
Tình yêu, cái chết, cô đơn và sự thật ẩn giấu trong mỗi người... tất cả
đan bện vào nhau trong 3 bức thư từ 3 góc nhìn khác nhau của 3 phụ nữ
trong một cuộc tình tay ba bi thảm: người tình, con gái người tình và
người vợ bị bỏ bê.
Phạm đức Thân chuyển Việt ngữ từ bản Anh dịch "Shotgun" của George
Saito, có
tham khảo bản dịch "The Hunting Gun" của Michael Emmerich.
Gần đây tôi có đóng góp bài thơ tựa là "Khẩu Súng Săn" cho báo
Người Đi
Săn,
một tạp chí nhỏ là cơ quan của Hội Những Người Đi Săn Nhật Bản.
Thiên hạ có thể cho tôi là một người có ít nhiều thích thú săn bắn.
Trong khi thật ra
tôi được nuôi dưỡng bởi một bà mẹ bình sinh rất ghét giết chóc và tôi
thì chưa bao
giờ đụng tới khẩu súng hơi nữa. Vậy mà có một bạn cũ thời trung
học, biên tập
báo Người Đi Săn, yêu cầu tôi viết một bài thơ - vì biết rằng ngay
tuổi này tôi
vẫn làm thơ, theo kiểu riêng của mình, cho tạp chí thơ mông lung. Anh có
lẽ yêu cầu
tôi trong một lúc cao hứng và tỏ ra lịch sự muốn bù đắp một thời gian
dài mất
liên lạc giữa chúng tôi. Thông thường tôi hay từ chối đề nghị như vậy vì
tôi
không hứng thú
với tờ tạp chí và yêu cầu lại là viết về săn bắn. Nhưng số là tôi đã
từng suy nghĩ
ngày nào đó sẽ viết một bài thơ về khẩu súng săn và nỗi cô đơn của con
người.
Dịp này đúng là chỗ chính xác để giải tỏa...
Một đêm cuối tháng Mười Một, khi cảm thấy cái lạnh của đêm, tôi ngồi
xuống bàn
giấy. Làm việc tới quá nửa đêm, tôi viết một bài thơ kiểu như văn xuôi
và sáng
hôm sau gửi nó tới biên tập viên báo Người Đi Săn.
Vì bài thơ có liên hệ phần nào tới câu chuyện tôi xin trích ra đây:
"Đầu mùa đông, một người đàn ông, miệng ngậm cái tẩu thuốc to kiểu thủy
thủ,
đang len lỏi qua những bụi cây, chậm chạp lần đường lên núi Amagi, dẫn
con chó
săn chạy trước, và đôi ủng đạp trên lá cây đông cứng. Đây kiểu người gì
mà lại
tự võ trang khẩu Churchill hai nòng và thắt lưng 25 viên đạn? Đây kiểu
người gì
mà lại tước đoạt sự sống bằng một khí cụ trắng và sáng loáng như thế?
Không
hiểu sao bỗng dưng tôi bị hấp dẫn bởi cái người đi săn cao lớn đi
ngang qua, chỉ còn
thấy cái lưng. Từ đó tôi cứ thoáng nhớ lại ông - khi thì tại trạm xe
lửa trong một
thành phố lớn, khi thì tại những chỗ nhộn nhịp muộn về đêm. Lúc ấy tôi
thích
bước đi như người đi săn đó. Chậm rải, bình thản và lạnh lùng. Tôi không
hình
dung người đi săn giữa khung cảnh giá lạnh của Amagi trong đầu mùa đông.
Mà đúng hơn ông đang ở giữa một lòng sông trắng đơn độc. Và khẩu súng
sáng
loáng lấp lánh tỏa một vẻ đẹp hết sức tuyệt vời - không bao giờ cảm nhận
như
thế khi súng nhắm vào một sinh vật - như đè nặng trên tâm hồn cô đơn và
hình
hài của một người đàn ông trung niên".
Chỉ khi lần giở những trang báo tôi mới phát hiện, mặc dù cái tựa thích
hợp,
nhưng bài thơ thì hoàn toàn tương phản thấy rõ đối với những chữ "săn
bắn",
"tinh thần thể thao", "trải nghiệm lành mạnh" nằm rải rác trong những
bài khác.
Tôi thật ngu ngốc chỉ nhận ra điều này sau khi nhìn thấy bài thơ được
in trên một
trang hình như tách biệt hẳn với các phần khác của tờ báo. Tuy nhiên
cái tôi đưa
vào bài thơ là đặc tính thiết yếu của cây súng, theo như trực giác
thi hứng của
tôi cảm nhận, hoặc ít ra cũng là một cái gì tôi nhắm đến, một cái gì
mà tôi thấy
không cần phải xin lỗi. Nếu nó được đăng trong một tạp chí khác loại,
thì không có
vấn đề gì cả. Nhưng tạp chí này, cơ quan của Hội Những Người Đi Săn Nhật
Bản,
đang trình bầy đi săn là một cái thú khỏe khoắn, lành mạnh nhất; thành
thử cảm
nghĩ của tôi có phần nào trái khoáy. Tôi có thể tưởng tượng cái tình
cảnh lúng túng
của bạn tôi khi nhận được bản thảo bài thơ. Nhiều phần chắc là anh có
lưỡng lự
một thời gian trước khi quyết định.
Khi nghĩ đến sự rộng lượng của anh, tim tôi thót lại. Tôi đoán là sẽ
nhận được một
hai bức thư phản đối của hội viên trong Hội. Nhưng hóa ra lo lắng của
tôi vô căn cứ.
Tôi không nhận được cho dù chỉ một bưu thiếp. Chẳng biết thế là tốt
hay xấu, hình
như tất cả mọi người đi săn trong nước không ai để ý đến bài thơ. Thật
ra có thể
cũng chẳng ai buồn đọc nó. Khoảng hai tháng sau, khi tôi đã quên vụ này,
tôi nhận được
một phong thư niêm kín, từ một ông Misugi Josuke hoàn toàn xa lạ..
Tôi nhớ có một nhà sử học đã nhận xét rằng những chữ khắc trên một công
trình
cổ xưa bằng đá ở Thái Sơn làm người ta liên tưởng tới lấp lánh ánh nắng
của mặt
trời sau một cơn gió thu
lạnh lẽo thổi qua. Mặc dù những chữ khắc đã biến mất từ lâu, không có
đến một
bản rập lưu lại cho chúng ta thấy nét bay lượn và uy lực của chúng,
nhưng theo tôi
hình như thủ bút của Misugi trên cái phong bì trắng lớn giấy Nhật Bản
hẳn phải rất
giống chúng. Quả thật các chữ viết bao trùm gần hết mặt bì thư trông
tuyệt đẹp.
Tuy nhiên có cái gì đó làm tôi cảm thấy một trống vắng toát ra từ mỗi
chữ, và chính
cái tính chất này khiến tôi nhớ đến nhận xét của nhà sử học về những
chữ khắc trên
Thái Sơn. Cái địa chỉ hình như đã được viết nhanh bởi một lần duy nhất
chấm bút
đẫm mực. Tuy nhiên đường đi của bút lông gợi ra một trống vắng lạnh lùng
kỳ lạ,
một thản nhiên phải phân biệt với cái thản nhiên nhờ tập luyện mà
thành thói quen.
Nói cách khác, tôi cảm thấy trong cái phóng khoáng của bút pháp có cái
vị
kỷ của một đầu óc hiện đại, không chìm đắm trong cái tầm thường, tự hào
chữ
đẹp, thường thấy ở một tay bình thường.
Dẫu sao vẻ tuyệt đẹp của chữ viết hình như phần nào không hợp cảnh khi
tôi thấy
nó trong cái hộp thư đơn sơ bằng gỗ của tôi. Mở phong bì ra tôi thấy
một cuộn giấy Trung Quốc dài gần 2 mét, phủ những hàng gồm 5, 6 chữ
lớn, tất cả viết theo lối thảo.
"Săn bắn là thú tiêu khiển của tôi", bức thư mở đầu. "Gần đây tôi tình
cờ được đọc
bài thơ 'Khẩu Súng Săn' của ông trong báo
Người Đi Săn. Tôi diễn đạt
vụng về và
không biết gì về thi ca. Thú thật với ông đây là lần đầu tiên trong
đời, tôi đọc một bài thơ. Tôi cũng phải thú nhận với ông đây là lần
đầu tiên tôi được biết tên ông. Tuy
nhiên tôi phải nói rằng bài thơ đã gây ấn tượng rất mạnh đối với tôi."
Khi khởi sự đọc thư, tôi nhớ lại bài thơ văn xuôi đã gần như quên hẳn.
Trong thoáng chốc tôi hơi bực mình, nghĩ rằng đây là bức thư phản đối
chờ đợi từ lâu, có lẽ của
một ông đi săn nổi tiếng nào đó. Tuy nhiên đọc tiếp, tôi thấy bức thư
hoàn toàn khác
hẳn điều tôi lo lắng.
Lịch sự và với vẻ tin chắc, Misugi Jokuse viết: "Tôi có lầm không khi
tưởng tượng
nhân vật đó là chính tôi? Tôi chắc rằng ông đã bắt gặp cái hình ảnh
cao lớn của tôi
đâu đó trong một làng dưới núi Amagi khi tôi đang đi săn hồi đầu tháng
Mười Một.
Tôi rất tự hào về con chó săn hai mầu trắng đen đã được huấn luyện đặc
biệt để
săn chim trĩ; về khẩu súng Churchill quà tặng của thầy giáo khi tôi ở
Luân
Đôn; cũng như về cả cái
tẩu thuốc ưa thích mà ông có mô tả. Tôi lại còn hân hạnh được ông lấy
cái tâm trạng của tôi, không có chút gì là hân hoan cả, để làm đề tài
cho thi ca. Tôi thật xấu hổ
và không thể không cảm phục cái nhìn sâu sắc đầy thi hứng của ông."
Tôi cố gắng hình dung lại một lần nữa người đi săn mà tôi đã gặp trên
con đường
qua rừng cây tuyết tùng, một buổi sáng cách đây khoảng 5 tháng. Tôi đang
trọ tại
một quán nhỏ suối nước nóng đưới chân núi Amagi, ở Izu. Tôi không nhớ rõ
mọi
sự trừ cái vẻ đơn độc đặc biệt của người đi săn khi ông ta đi ngang
qua, lưng quay
lại phía tôi. Tôi chỉ nhớ rằng ông là một người cao lớn, tuổi trung
niên.
Sự thật là tôi đã không chăm chú quan sát ông cẩn thận. Với khẩu sáng
săn quàng
vai, tẩu thuốc ở miệng, ông có vẻ như trầm ngâm suy tư, không giống
những người
đi săn thường gặp và ông hiện rõ nổi bật giữa khung cảnh lạnh lẽo của
buổi sáng đầu
mùa đông. Đó là lý do duy nhất khiến tôi quay nhìn ông khi hai chúng
tôi đã đi qua
nhau. Ông rẽ vào một con đường khác đường tôi đang đi, lên cao giữa đám
bụi cây.
Tôi có nhìn ông một thoáng ngắn khi ông chậm chạp leo lên đường dốc. Ông
hình
như sợ bị trượt, và không hiểu tại sao tôi có cảm tưởng ông đang rất cô
đơn. Vì
thế tôi mới mô tả ông trong bài thơ. Mặc dù tôi có thể thấy con chó
săn của ông rất
khá, nhưng một người chẳng biết gì về thực tế săn bắn như tôi làm sao
biết được
loại súng ông đeo? Chả là khi tôi bắt đầu chuẩn bị làm bài thơ tôi tra
cứu
được biết súng
săn tốt nhất là Richard và Churchill. Tôi bèn tự tiện cho nhân vật của
mình một khẩu súng Anh. Thật là ngẫu nhiên mà khẩu súng của Misugi thực
sự ngoài đời lại là
Churchill. Với tôi Misugi Josuke vẫn là một người xa lạ.
Bức thư tiếp, "Ông có thể nghĩ thật là lạ lùng, sao tôi lại nói đến
chuyện tôi có 3 bức
thư. Tôi đã dự định đem đốt chúng. Tuy nhiên sau khi đọc bài thơ ông tôi
chợt nghĩ tôi
nên yêu cầu ông đọc chúng. Tôi rất tiếc phải làm phiền ông, nhưng xin
cho phép tôi được yêu cầu ông, khi nào rảnh rỗi, đọc 3 lá thư mà tôi
sẽ gửi trong một phong bì
khác. Tôi muốn để cho ông hiểu cái mà ông gọi là "lòng sông trắng".
Con người là
một sinh vật điên rồ, muốn trên tất cả là được người khác biết về
mình. Bản thân
tôi chưa bao giờ nuôi dưỡng cái ước muốn đó, cho đến khi được biết ông
đã tỏ ra
thích thú đặc biệt đến tôi. Tôi cảm thấy tôi muốn ông biết rõ mọi sự
về tôi. Tôi hết
sức hoan nghênh ông hủy 3 là thư này sau khi đọc xong. Cũng ngẫu nhiên
là sau
khi tôi vừa nhận 3 lá thư này thì ông bắt gặp tôi ở Izu. Sự thật là
tôi đã có cái thú
đi săn từ vài năm rồi. Đó là giai đoạn an bình trong đời sống tư cũng
như công của
tôi, ngược hẳn với cuộc sống lẻ loi của tôi bây giờ. Thời điểm mà ông
thấy tôi, khẩu súng săn đã trở thành tất cả đối với tôi"
Hai ngày sau tôi nhận được một phong bì trên có tên người gửi là Misugi
Josuke,
theo sau với hàng chữ "tại một khách sạn ở Izu". Bên trong gồm 3 bức
thư. Chúng
đều đề gửi cho Misugi, và mỗi thư là của một phụ nữ khác nhau. Tôi sẽ
không cho
biết cảm nghĩ của mình. Thay vào đó, tôi trích dẫn cả 3 bức thư. Tôi
phải thêm rằng Misugi hình như là một người có địa vị đáng kể trong xã
hội, cho nên tôi đã tra cứu
các danh bạ để tìm tên ông. Nhưng tôi không tìm thấy. Rất có thể ông đã
dùng tên
giả. Trình bầy các thư ở đây tôi sẽ điền tên Misugi Josuke vào chỗ tên
thật đã bị
xóa đi. Còn tên các nhân vật khác đều là giả tưởng.
Xem tiếp
Thư của Shoko
Chú Josuke kính mến.
Mẹ chết đã được 3 tuần rồi. Từ hôm qua chúng cháu không còn nhận được
những
thăm hỏi chia buồn và căn nhà chợt im ắng trở lại. Cảm nhận Mẹ không còn
sống
nữa trở nên thấm thía đau như cắt. Chú hẳn phải mệt kinh khủng. Chú đã
lo mọi
sự cho tang lễ, từ gửi thông báo tới họ hàng đến sửa soạn thức ăn cho
khách lúc
canh thức. Vì tính chất bất thường cái chết của Mẹ, chú đã thay cháu tới
lui trạm
cảnh sát nhiều
lần. Thật vậy, chú đã làm mọi việc, không sót điều gì. Liền ngay sau
đó chú về Tokyo
lo công việc. Cháu thành thật mong rằng chú đã không mệt mỏi quá sức
để sinh bệnh.
Theo như thời biểu của chú, giờ này chắc chú đang ngắm cảnh rừng đẹp ở
Izu, tươi sáng nhưng dịu nhẹ, giống như hình vẽ trên đồ gốm Trung
Quốc. Cháu đã cầm bút
viết là để chú có thể đọc thư cháu trong khi chú ở Izu. Mặc dù cháu
rất muốn viết
sao để sau khi đọc chú có thể cảm giác như lâng lâng theo gió, tẩu
thuốc trong tay, nhưng cháu không thể làm được. Cháu đã phí nhiều tờ
giấy mà thấy không thể tiếp
tục. Khi khởi viết cháu đã không ngờ lại như vậy. Cháu muốn bình tĩnh
nói với chú
những điều mình nghĩ trong đầu và xin chú thông cảm. Khi chuẩn bị bức
thư cháu
đã suy nghĩ mãi về thứ tự trình bầy. Tuy nhiên, bây giờ khi đã bắt đầu
viết, thì những điều cháu muốn nói với chú lại ập đến cùng lúc.
Không, không chính xác là vậy. Sự
thật là cháu bị tràn ngập từ mọi phía bởi một nỗi đau buồn, giống như
những cuộn
sóng trắng sông Ashiya vào một ngày lộng gió. Cho dù vậy, cháu sẽ cố
tiếp tục viết.
Thưa chú, cháu có dám mạnh bạo nói với chú không? Cháu biết chuyện đó -
về Mẹ
và chú. Cháu biết mọi chuyện hôm trước khi Mẹ mất. Cháu đã đọc nhật ký
của bà.
Thật khó làm sao phải nói thẳng với chú những lời này! Cháu đã cố hết
sức tìm mọi cách, nhưng không thể nào nói được lấy một câu. Chỉ có
viết cháu mới có thể diễn
đạt được ý mình. Không phải cháu sợ. Chỉ là vì cháu buồn. Buồn đã cột
cái lưỡi
cháu lại. Cháu không buồn chú, buồn Mẹ hay buồn cháu. Mọi thứ, mọi
thứ, bầu trời xanh, ánh nắng mặt trời tháng Mười, vỏ cây bách nhật
hồng, lá tre lay động trong
gió, nước, đá, đất, vâng, tất cả những gì hiện hữu trong thiên nhiên,
trở nên buồn
ngay khi cháu vừa mở miệng. Sau cái ngày đọc nhật ký của Mẹ cháu biết
rằng thiên nhiên xung quanh cháu có thể nhuốm một mầu buồn 2, 3 lần, có
khi tới 5, 6 lần trong
một ngày, như mặt trời bị phủ nhiều mây. Cứ chợt nghĩ đến chú và Mẹ
thì đột nhiên
thế giới trở thành hoàn toàn khác hẳn. Chú có biết ngoài tất cả những
mầu thông
thường còn có một mầu buồn mà người ta có thể nhìn thấy rõ ràng không?
Qua cuộc tình giữa chú và Mẹ cháu mới biết được có một tình yêu không
được ai
chúc phúc và cũng không ai xin chúc phúc. Tình yêu giữa chú và Mẹ là
chuyện chỉ
hai người biết. Dì Midori không biết, cháu không biết và không một họ
hàng nào biết.
Ngay cả xóm giềng và bạn thân thiết cũng không biết hoặc không thể biết.
Mẹ chết
đi thì chỉ còn chú biết chuyện này. Và sau này chú mất, không ai trên
đời lại tưởng
tượng có tồn tại một tình yêu như thế. Trước đây cháu tin rằng tình
yêu là một cái
gì tươi sáng và hân hoan như mặt trời, một cái gì được Thượng Đế cũng
như người chúc phúc đời đời. Cháu đinh ninh là tình yêu giống như một
giòng nước nhỏ
thuần khiết, lấp lánh dưới mặt trời và lăn tăn theo gió, được dịu dàng
nhìn ngắm
bởi cỏ, cây, hoa trên bờ, và phát ra âm nhạc tuyệt diệu khi lớn mạnh.
Làm sao cháu
có thể tưởng tượng được tình yêu lại như dòng nước ngầm dưới đất,
không có ánh nắng và không ai biết nước từ đâu đến và chẩy đi đâu.
Mẹ đã lừa dối cháu trong suốt 13 năm. Sau cùng đến chết Mẹ vẫn dối cháu.
Cháu
chưa từng nghĩ giữa Mẹ và cháu lại có một bí mật. Thỉnh thoảng Mẹ bảo
cháu rằng
hai mẹ con mình thật lẻ loi cô đơn trên đời. Về chuyện làm sao Mẹ lại
chia tay Bố,
bà chỉ nói khi nào cháu tới tuổi lập gia đình cháu sẽ hiểu. Cháu muốn
trưởng thành
mau lẹ không phải vì cháu muốn biết về Mẹ và Bố, nhưng vì cháu nghĩ Mẹ
hẳn phải
khổ tâm để giữ bí mật. Mẹ hình như đã chịu rất nhiều đau khổ. Không
thể ngờ bà lại
còn có một bí mật khác giấu cháu!
Khi cháu còn nhỏ Mẹ thường kể câu chuyện con chó sói lừa dối con thỏ và
bị biến
thành đá vì cái tội dối trá. Mẹ đã dối cháu, Dì Midori, và cả thế
giới. Làm sao bà có
thể như vậy? Điều kinh khủng nào đã mê ám bà? Phải, cháu nhớ bà dùng chữ
"xấu
xa" trong nhật ký. "Cả Misugi và tôi đều xấu xa. Chúng tôi muốn được
xấu xa hoàn
toàn." Tại sao bà không viết là đã bị mê ám? Mẹ bất hạnh nhiều hơn con
chó sói
đã lừa dối con thỏ! Nhưng Mẹ và chú thân yêu đã chọn cái xấu - những
người hoàn
toàn xấu nhất trên đời! Tình yêu đòi hỏi người ta phải trở nên xấu thì
mới buồn làm
sao! Cháu nhớ ngày lễ nọ có người đem cho một quả thủy tinh tròn trong
có gắn
những cánh hoa giả mầu đỏ. Cháu chỉ là một đứa trẻ. Cháu cầm nó trong
tay và bật
khóc. Cháu hẳn làm mọi người ngỡ ngàng. Cháu thấy các cánh hoa như
đông cứng trong thủy tinh lạnh ngắt; những cánh hoa cứ y nguyên dù khi
xuân hoặc hè đến;
những cánh hoa đã bị hy sinh. Khi cháu nghĩ đến những cánh hoa, nỗi
buồn chợt đến.
Cũng cái nỗi buồn đó bây giờ đang trở lại với cháu. Tình yêu giữa chú
và Mẹ, giống
như những cánh hoa buồn này!
Chú Josuke kính mến.
Chú hẳn chắc giận cháu vì đọc nhật ký của Mẹ. Hôm trước ngày Mẹ mất có
cái gì
đó bảo cháu Mẹ chắc là không thể hồi phục. Cháu có cái linh cảm này.
Như chú nhớ đấy, trừ cơn sốt nhẹ không có dấu hiệu nào xấu đáng kể ở
bà. Bà vẫn ăn được. Hai
má tươi và hình như còn hồng hơn thường lệ. Tuy nhiên cháu không thể
không cảm
thấy tuyệt vọng. Nhìn bà từ sau lưng - nhất là đường chạy từ vai xuống
cánh tay-
cháu thấy sờ sợ. Chiều hôm bà mất, lúc Dì Midori đến hỏi thăm, cháu
vào phòng Mẹ
nói cho bà biết. Khi cháu đẩy cánh cửa, cháu khựng lại. Bà đang ngồi
trên
giường, lưng quay về phía cháu. Bà mặc chiếc áo choàng kimono mầu xám
đỏ tô điểm mạnh bạo
với những hoa cúc gai, mà bà cất trong tủ và hiếm lấy ra. Bà đã nói bà
sẽ cho cháu vì nó quá nổi đối với bà.
"Chuyện gì vậy?" Bà hình như không hiểu tại sao cháu lại giật mình
"Nhưng mẹ..."
Cháu không thể nói tiếp. Bản thân cháu cũng không hiểu tại sao lại
giật mình. Một
cái cục lạ lùng trào lên trong cổ họng cháu. Dẫu sao không có gì ngạc
nhiên chuyện
Mẹ lấy chiếc áo kimono thời trẻ ra mặc vì bà vốn vẫn thích mặc kimono.
Từ khi bà đau
bà có thói quen mỗi ngày lôi ra mặc một kimono đã không mặc trong nhiều
năm. Có
thể bà muốn khuây khỏa tâm trí. Tuy nhiên về sau, cháu biết tại sao
cháu đã ngạc
nhiên. Mẹ trông đẹp đến nỗi không phải nói ngoa khi mô tả bà là đẹp
lộng lẫy. Nhưng đồng thời bà trông cô đơn bất hạnh, cô đơn bất hạnh
cháu chưa từng thấy
trước đây. Dì Midori bước vào phòng. "Ôi, đẹp quá!" dì kêu lên và ngồi
lặng một lúc như thể bị choáng ngợp. Hình ảnh Mẹ như cháu thấy khi nhìn
từ
sau lưng trong áo
choàng lụa Yuki không hề phai trong đầu cháu suốt ngày hôm đó, một
hình ảnh đẹp nhưng lẻ loi cô đơn, như một khối nặng lạnh lẽo đè trên
tim cháu.
Buổi chiều gió ngừng thổi. Cháu giúp chị người làm Sadayo quét gom lá
rải rác trong vườn để đốt. Cháu cũng lấy ít rơm mấy hôm trước cháu đã
mua giá cao một cách phi lý đến tức cười, để làm tro đệm cho lò than
của Mẹ. Mẹ đang ngồi trong phòng khách ngó ra
ngoài. Bà bước ra hàng hiên cầm một bọc gói ngay ngắn.
"Đốt cái này nữa."
Khi cháu hỏi bà đó là cái gì, bà trả lời giọng nghiêm nghị khác thường
rằng không
việc gì đến cháu. Rồi bà nói khẽ:
"Đó là nhật ký của mẹ. Làm ơn đốt nó."
Bà quay gót bước về phòng mình, loạng choạng lạ lùng như thể đang bị gió
thổi..
Cháu phải mất nửa giờ để có tro đệm. Khi rơm cuối cùng đã biến thành
khói tía,
cháu đi đến một quyết định. Cháu đem nhật ký của Mẹ lên phòng mình và
giấu sau
một kệ. Đêm đó gió lại nổi lên. Một con trăng mờ mờ âm u chiếu xuống
vườn.
Nhìn từ cửa sổ trên lầu cảnh trí giống như một bãi biển hoang đâu đó ở
miền bắc
xa xôi, và gió rì rào giống như sóng đập vào bờ. Mẹ và Sadayo đã đi
ngủ.. Chỉ có
cháu còn thức. Cháu lấy vài quyển sách dầy cộm của một bộ bách khoa đem
chẹn
cửa và hạ màn cửa sổ xuống. (Ngay cả ánh trăng cháu cũng sợ). Rồi cháu
điều
chỉnh cái chụp đèn và mở cuốn sổ là nhật ký của Mẹ....
Chú Josuke kính mến.
Cháu nghĩ cháu sẽ không bao giờ được biết về Bố và Mẹ nếu cháu bỏ lỡ
cơ hội đọc nhật ký. Cho tới lúc đó cháu chưa hề có ý muốn biết về Bố.
Dẫu sao khi cháu lập
gia đình Mẹ sẽ cho cháu biết. Cháu chỉ nhớ tên ông mà thôi, Kadota
Reiichiro.
Nhưng suy nghĩ cháu thay đổi sau khi cháu bắt gặp mẹ cháu trong chiếc áo
choàng
đó. Không hiểu tại sao cháu lại buồn rầu tin chắc bà không qua khỏi.
Cháu đã nghe bà ngoại ở Akashi và thân nhân khác, cháu không nhớ là hồi
nào, nói
rằng Mẹ đã phải bỏ Bố. Trong khi Bố đang làm luận án Bác Sĩ tại Khoa Nhi
Đại Học
Tokyo thì cháu sống trong nhà ở Akashi với Mẹ, Ông, Bà và một chị người
làm. Lúc
đó cháu 5 tuổi. Một ngày tháng Tư có gió, một phụ nữ trẻ bồng một đứa bé
sơ sinh
đến gặp mẹ. Khi cô ta được đưa vào phòng khách, cô đặt đứa bé vào chỗ
khuất
trong phòng, cởi giải lưng, lấy một cái áo - loại mặc bên trong kimono
- từ một cái
giỏ, và bắt đầu thay y phục. Mẹ đang bưng tách trà ra giật mình trước
cảnh này. Cô
ta bị mất trí. Sau này được biết đứa bé hình hài èo uột đang nằm ngủ ở
chỗ
trưng bầy hoa nandina đỏ là con của Bố.
Đứa bé ít lâu sau qua đời. Người phụ nữ chỉ bị diên khùng nhất thời và
sớm bình
phục. Cháu nghe nói bà ta lập gia đình hạnh phúc với một thương gia ở
Okayama.
Liền sau biến cố này Mẹ dẫn cháu rời Akashi. Gia đình quyết định là
Bố, trước được
nhận vào làm con nuôi, nay phải bị ly dị.
Bà ngoại ở Akashi có lần nói với cháu, lúc cháu vào trường nữ sinh:
"Mẹ cháu quá cứng rắn. Dẫu sao thì chuyện cũng đã rồi."
Mẹ rất khó tính, cho nên bà không thể tha thứ cho Bố.
Đó là tất cả những gì cháu biết về Bố và Mẹ. Cho tới 7 hoặc 8 tuổi
cháu nghĩ là bố không còn sống; hay đúng hơn, cháu được làm cho nghĩ
như vậy. Nhưng Bố đã
chết, ngay bây giờ, trong tim cháu. Cháu không thể hình dung bố thực của
mình,
ông, nghe nói, hiện đang điều hành một bệnh viện lớn ở Hyogo, xa cách
đây chưa đầy
một giờ. Ông vẫn còn độc thân. Ông vẫn còn sống, nhưng bố cháu thì đã
chết từ lâu.
Cháu mở nhật ký của Mẹ. Cái chữ đầu tiên mà đôi mắt háo hức của cháu bắt
gặp
là "tội lỗi", chữ cháu không hề ngờ sẽ tìm thấy. "Tội lỗi," "tội lỗi,"
"tội lỗi." Chữ
này được viết nguệch ngoạc lập đi lập lại. Cháu hầu như không thể tin
rằng Mẹ đã viết chúng.
Dưới các chữ "tội lỗi" cũng viết nguêch ngoạc: "Thượng Đế, xin hãy tha
tội cho con.
Midori, tha thứ cho chị." Bà hình như đang rên rỉ dưới sức nặng của
những chữ.
Phần còn lại của trang biến mất, và chỉ có hàng chữ này nằm gầm gừ như
con
yêu tinh, nhìn trừng trừng từ trang giấy như muốn nhẩy chồm lên cháu.
Cháu gập nhật ký lại. Một khoảnh khắc kinh hoàng. Giữa lặng thinh, cháu
có thể
nghe thấy tiếng đập của quả tim. Cháu nhỏm dậy khỏi ghế và một lần nữa
xem
chắc cửa và cửa sổ vẫn an toàn. Trở lại bàn giấy cháu sợ sệt mở lại
nhật ký. Rồi
cháu đọc từ đầu đến cuối, không bỏ sót chút nào, và
đồng thời cũng cảm thấy mình như một
con quỷ.
Không thấy nói gì đến Bố. Đây, với ngôn ngữ thành thật, là cuộc tình
giữa Mẹ
và chú, một cuộc tình cháu chưa bao giờ tưởng tượng nổi. Cháu đọc Mẹ
khi thì đau khổ
ra sao, lúc thì vui sướng thế nào, rồi cầu nguyện, thất vọng, đôi lần
còn
muốn tự tử
nữa. Vâng, bà đã quyết định kết liễu đời mình trong trường hợp cuộc
tình bị Dì Mirodi khám phá. A! Mẹ lúc nào cũng nói chuyện với Dì Midori
thân
ái dịu dàng là thế mà
lại sợ dì!
Nhật ký của Mẹ cho thấy bà đã sống bên cạnh cái chết trong suốt 13 năm
này.
Khi thì bà
ghi 4 hoặc 5 ngày liên tục, khi thì 2 hoặc 3 tháng để qua bên. Và trang
nào của nhật
ký cũng đối diện cái chết.
"Tôi phải chết. Chết sẽ giải quyết được mọi chuyện." Điều gì đã khiến
bà viết như
thế? "Tại sao ngươi lại sợ này nọ, một khi ngươi đã quyết định chết?
Can đảm lên,
Ayako!". Điều gì đã làm người mẹ dịu dàng của cháu phải than khóc thế
này? Tình
yêu chăng? Điều đẹp đẽ và tươi sáng gọi là tình yêu? Chú có lần đã cho
quà sinh
nhật cháu là một quyển sách mô tả một phụ nữ hãnh diện đứng khỏa thân
cạnh
một giòng suối, mớ tóc dài cuộn xõa trên vai, hai tay đỡ ngực, nâng vú
lên trông
giống như chồi hoa. Tình yêu của Mẹ và chú thật khác hẳn tình yêu mô tả
trong
quyển sách.
Từ lúc cháu đọc nhật ký của Mẹ, Dì Midori trở thành một người đáng sợ
nhất trên
đời. Đau đớn của Mẹ trở thành đau đớn của cháu. A, Dì Midori, người
hôn cháu với
đôi môi cong! Dì Midori thân yêu, người cháu coi như Mẹ! Chính
dì, khi
cháu vào trường sơ học ở Ashiya, đã cho cháu cái cặp đựng sách có tô
điểm những bông
hồng to; và chính dì đã cho cháu cái phao bơi lớn hình dạng như con mòng
biển
khi cháu đi trại hè. Ngày nọ ở trường lúc cháu học lớp hai, cháu được
vỗ tay khen
vì thuật một truyện của anh em Grimm. Cũng chính Dì Midori đã khuyến
khích cháu
tập dượt mỗi chiều và thưởng cho sự kiên trì của cháu. Dì Midori là họ
hàng của
Mẹ và rất thân với Mẹ. Mặc dù bây giờ Dì Mirodi chỉ còn khiêu vũ, nhưng
trước
đây dì
giỏi chơi mạt chược, gôn, bơi lội và trượt tuyết. Chính Dì Midori đã
nướng bánh
lăn bột to lớn hơn mặt cháu và đem nhóm vũ nữ từ Takarazuka về nhà làm
Mẹ và cháu
giựt mình. Tại sao dì đã bước vào đời mẹ con cháu dịu dàng thế, như
một đóa hồng?
Nếu cháu đã từng có thấy điềm gì về chú và Mẹ, thì chỉ có một lần duy
nhất. Đó là
cách đây khoảng 1 năm. Cháu đang cùng bạn trên đường đến trường. Khi
chúng
cháu tới Trạm Shukugawa, cháu chợt nhận ra đã quên quyển đọc tiếng Anh.
Cháu
bảo bạn đợi ở trạm và vội vàng quay về nhà. Không hiểu tại sao cháu
lại không
thể cố thử mở cửa. Chị người làm đã đi đâu đó lo việc vặt và chỉ có Mẹ ở
nhà. Cháu cảm thấy hơi không an tâm bà ở nhà một mình. Cháu sợ. Cháu
đứng ở cổng không biết
có nên vào hay không. Cháu ngó bụi cây đỗ quyên. Cuối cùng cháu bỏ cuộc
và trở
lại trạm xe lửa, tâm trạng kỳ lạ thế nào ấy không hiểu tại sao. Cháu
cảm thấy rằng
từ cái lúc cháu rời nhà tới trường thì cũng là lúc bắt đầu một thời
gian đặc biệt cho
Mẹ. Cháu cảm thấy nếu bước vào cổng thì sẽ làm phiền bà. Cảm thấy cô đơn
không
tả cháu vừa đi về trạm vừa đá mấy viên sỏi trên đường dọc theo Sông
Ashiya. Rồi
cháu thấy mình dựa vào chiếc ghế gỗ dài trong phòng đợi, lơ đãng nghe
bạn nói.
Đó là lần đầu và cũng là lần cuối cháu cảm nghiệm như vậy. Bây giờ mới
thấy
hình như đáng sợ thật. Con người sở hữu những đặc tính đáng gờm! Làm sao
cháu có thể bảo Dì Midori đôi khi không cảm thấy điềm như thế? Dì
Midori, khi chơi
bài thường tự hào mình có khả năng đọc được đầu óc tay bài khác. Cứ thử
nghĩ
xem có đáng sợ không? Có thể lo lắng như vậy là ngu ngốc, vì mọi sự đã
chấm
dứt và bí mật đã được giữ kín. Không,
bí mật không phải được giữ kín,
mà Mẹ chết là để giữ bí mật. Cháu tin như vậy.
Vào ngày buồn đó, ngay trước khi cơn đau đớn ngắn ngủi nhưng mãnh liệt
bắt đầu,
Mẹ gọi cháu, nói giọng đều đều kỳ lạ, hơi có vẻ khô khan: "Mẹ vừa uống
thuốc độc.
Mẹ quá mệt mỏi, không thiết sống...."
Giọng bà nghe giống nhạc trên không trung, rõ lạ lùng, như thể qua cháu
bà
đang nói với Thượng Đế. Cháu có thể nghe chữ "tội lỗi" chồng chất cao
như Tháp Eiffel, đổ nhào vào
tai cháu. Những tầng tội lỗi bà đã chống đỡ trong 13 năm bây giờ đang
đè bẹp thân xác
mệt mỏi của bà và cuốn sạch nó đi. Cháu chỉ thấy tràn ngập một nỗi tức
giận, như
bão táp của gió đông thổi từ thung lũng, khi cháu ngồi trước Mẹ và dõi
theo đôi mắt
mẹ đang ngó trân trân vô hồn vào xa tít. Nhìn khuôn mặt buồn của Mẹ cháu
chỉ đáp
được một tiếng "Ô?" như thể không có gì liên quan tới cháu. Rồi tim
cháu trở nên lạnh như bị dội nước. Đầu óc tĩnh lặng, tĩnh lặng đến
nỗi chính cháu cũng ngạc nhiên, và thay vì đi ngang qua phòng bên
cạnh, cháu đi dọc hành lang, bước đi như lướt trên nước (chính lúc này
cháu nghe tiếng kêu của Mẹ
như sắp bị cái chết nuốt chửng). Cháu
đến chỗ điện thoại cuối hành lang và gọi chú. Tuy nhiên không phải
chú, mà là Dì
Midori 5 phút sau đã ập vào nhà. Mẹ chết, nắm tay Dì Midori, người gần
nhất mà
cũng sợ nhất. Và những bàn tay này phủ một miếng vải trắng lên mặt Mẹ,
giờ thì
đã thoát khỏi lo lắng và buồn phiền.
Chú Josuké kính mến.
Đêm đầu tiên canh thức là một đêm yên tĩnh - yên tĩnh không thể tin
được. Đám
đông khách ban ngày, cảnh sát, bác sĩ, và hàng xóm tất cả đã rời khỏi.
Chỉ
có chúng ta -
chú, Dì Midori và cháu- Không ai nói một câu. Như thể chúng ta đang
lắng nghe tiếng nước vỗ yếu ớt vào bờ. Khi nhang tàn chúng ta lần lượt
đứng lên
thay nhang, và có lẽ cả mở cửa sổ cho thoáng khí nữa. Chú hính như buồn
nhất.
Khi chú đứng lên thắp nhang mới, chú ngó dịu dàng hình Mẹ. Trên khuôn
mặt buồn
của chú thoáng một mỉm cười, thoáng phớt hầu như khó có thể nhận ra. Đêm
đó biết
bao lần cháu nghĩ dẫu sao cuối cùng Mẹ hẳn phải hạnh phúc.
Khoảng 9 giờ, khi cháu đang ngồi gần cửa sổ cháu bật khóc. Chú nhỏm dậy
lặng lẽ
tới đặt tay lên vai cháu và đứng như vậy một lúc. Rồi chú trở về ghế
của mình không
nói một lời nào. Không phải vì cháu thấy đau nhói buồn cho Mẹ mà cháu
khóc. Cháu nghĩ tới chuyện Mẹ không nói gì về chú trong những giây
phút cuối và cháu tự hỏi tại sao
không phải chú mà là Dì Midori đã ập tới bên cháu khi cháu điện thoại.
Tim cháu quặn
đau. Tình yêu của chú và của Mẹ phải bị
giấu kín ngay lúc lâm chung. Nó
hình như
đáng thương giống những cánh hoa bị đóng đinh trong cái bầu thủy tinh.
Cháu đứng
lên, mở cửa sổ, ngó ra bầu trời sao lạnh lẽo, mang một nỗi buồn suýt
phải phát ra
thành tiếng. Nhưng rồi cháu chợt nghĩ tình yêu của Mẹ đang bay lên
trời thấp thoáng giữa những vì sao, không ai trong chúng ta được biết.
Với cháu hình như đau buồn
cho cái chết của một cá nhân gọi là "Mẹ" có vẻ nhỏ nhặt so với đau buồn
cho
một tình yêu đang thăng thiên.
Khi cháu ngồi xuống dùng bữa nửa đêm, cháu lại bật khóc. Dì Midori dịu
dàng bảo:
"Cháu phải can đảm. Dì đau lòng lắm thấy mình không giúp được gì."
Lau nước mắt và ngẩng đầu lên cháu thấy Dì Midori đang nhìn cháu. Mắt
dì cũng
ngấn lệ. Cháu lắc đầu. Dì chắc không để ý. Sự thật là cháu đột nhiên
cảm thấy buồn
cho dì. Cháu ngó dì sửa soạn 4 cái đĩa, cho chú, dì và cháu và Mẹ.
Cháu thình lình
cảm thấy dì là người buồn nhất ở đó. Đó là tại sao cháu khóc.
Đêm đó cháu còn khóc lần thứ ba. Đó là khi hai người bảo cháu đi ngủ.
Chú bảo ngày
mai sẽ là một ngày vất vả. Kiệt sức cháu thiếp đi ờ phòng bên. Khi
thức dậy người
ướt đẫm mồ hôi. Cháu thấy một giờ đã trôi qua. Phòng bên vẫn im ắng trừ
thỉnh
thoảng có tiếng chú bật lửa. Nửa giờ sau cháu nghe chú và Dì Midori
nói với nhau.
"Midori, em đi nghỉ đi. Tôi ở đây canh cho".
"Không, cám ơn. Anh nghỉ đi."
Tất cả chỉ có vậy, rồi im ắng trở lại. Cháu thổn thức có lẽ 3 lần. Lần
thổn thức này
chú dì không nghe. Cháu chỉ thấy có cô đơn và kinh hoàng. Ba người, các vị
- Mẹ,
người đã gia
nhập thế giới khác, và hai chú dì - cùng ở trong một phòng. Mỗi người ở
đó có ý nghĩ riêng khác nhau. Thế giới của người lớn đối với cháu hình
như cô đơn
và kinh hoàng không chịu nổi.
Chú Jokusé kính mến.
Cháu đã viết lan man. Cháu đã cố hết sức diễn đạt tốt cảm nghĩ của mình
để xin
chú thông cảm cái yêu cầu cháu sắp nêu ra đây.
Cháu chỉ yêu cầu chú một việc: cháu không muốn gặp lại chú hoặc Dì
Midori. Cháu
không còn có thể đóng vai đứa trẻ theo cách như trước đây khi cháu chưa
được
đọc nhật ký của Mẹ. Cháu muốn thoát ra khỏi cái mớ bòng bong "tội lỗi"
sau cùng đã
đè bẹp Mẹ. Cháu không có can đảm viết tiếp.
Cháu đang nhờ chú Tsumura tìm cách bán đi cái nhà này. Rồi cháu sẽ quay
về
Akashi một thời gian. Cháu tính mở một tiệm nhỏ cắt may quần áo. Trong
di chúc
Mẹ đề nghị cháu hỏi ý kiến chú. Bà sẽ không làm vậy nếu như bà biết tình
trạng
cháu hiện giờ.
Hôm nay cháu đã đốt nhật ký của Mẹ trong vườn. Quyển sổ rút lại chỉ còn
là một
nắm tro. Một cơn gió xoáy đã thổi bay đi cùng với lá khô trong khi
cháu lo đi kiếm xô nước.
Cháu cũng gửi chú thư của Mẹ trong một phong bì khác. Cháu tìm thấy nó
trong
bàn của bà hôm sau ngày chú rời đi Tokyo.
Xem tiếp
Thư của Midori
Comments
Post a Comment