From Russia With Love







**

From Russia With Love
Reading in Iowa City, Iowa
Đọc thơ ở Iowa City

 
SOME YEARS ago, Joseph came to Iowa City, the University of Iowa where I directed the Translation Workshop, to give a reading; I was to read the English translation. At the end, he was asked a number of (mostly loaded) questions, including one (alluded to earlier) about Solzhenitsyn. "And the legend which had been built around him?" His answer managed to be both artfully diplomatic and truthful: "Well, let's put it this way. I'm awfully proud that I'm writing in the same language as he does." (Note, again, how he expresses this sentiment in terms of language.) He continued, in his eccentrically pedagogical manner, forceful, even acerbic, but at the same time disarming, without any personal animus: "As for legend ... you shouldn't worry or care about legend, you should read the work. And what kind of legend? He has his biography ... and he has his words. "For Joseph a writer's words were his biography, literally!
    On another visit to Iowa, in 1987, Joseph flew in at around noon and at once asked me what I was doing that day. I told him that I was scheduled to talk to an obligatory comparative literature class about translation. "Let's do it together", he said. Consequently I entered the classroom, with its small contingent of graduate students, accompanied by that year's Nobel Laureate.
    Joseph indicated that he would just listen, but soon he was engaging me in a dialogue, except it was more monologue than dialogue. Finally, he was directly answering questions put to him by the energized students. I wish I could remember what was said, but, alas, even the gist of it escapes me now. I did not debate with him, even though our views on the translation of verse form differed radically. Instead, I believe that I nudged him a little, trying - not very sincerely or hopefully, though perhaps in a spirit of hospitality and camaraderie - to find common ground. After the class, I walked back with him to his hotel, as he said he wanted to rest before the reading. On the way, the conversation, at my instigation, turned to Zbigniew Herbert, the Polish poet so greatly admired by Milosz and, I presumed, by Brodsky, and indeed translated by the former into English and by the latter into Russian. Arguably, Herbert was the preeminent European poet of his remarkable generation. He was living in Paris and apparently was not in good health. "Why hasn't Zbigniew been awarded the Nobel Prize? Can't something be done about it", I blurted out - recklessly, tactlessly, presumptuously. The subtext was: Surely you, Joseph Brodsky, could use your influence, etc. Joseph came to a standstill: "Of course, he should have it. But nobody knows how that happens. It's a kind of accident." He locked eyes with me. "You're looking at an accident right now!" This was not false modesty on his part, but doubtless he was being more than a little disingenuous. Nevertheless, I believe that, at a certain level, he did think of his laureateship as a kind of accident. Paradoxically, while he aimed as high as may be, he was not in the business of rivalling or challenging the great. They remained, in a sense, beyond him, this perception of destiny and of a hierarchy surely being among his saving graces.
    In a far deeper sense, though, they were not in the least beyond him, nor was he uncompetitive, but it did not (nor could it) suit his public or even private persona to display this.
     Brodsky certainly considered himself to be - and it is increasingly clear that he was - in the grand line that included Anna Akhmatova, Boris Pasternak, Osip Mandelstam and Marina Tsvetayeva. Even I sensed this, despite my ambivalence about his poetry. Indeed, the continuity embodied in his work accounts, in part, for my uncertainty: I have tended to rebel against grand traditions. But perhaps this is to exaggerate. At times I hear the music, at other times the man, even if, as a rule, I do not hear them both together ... But take, for instance, this (the last three stanzas of "Nature Morte" in George Kline's splendid version in the Penguin Selected Poems):    
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son? - or God?
You are nailed to the cross.
Where lies my homeward road?
How can I close my eyes,
uncertain and afraid?
Are you dead? - or alive?
Are you my son? - or God?
Christ speaks to her in turn:
"Whether dead or alive,
Woman, it's all the same-
son or God, I am thine."
It is true that, as I listen to or read the English, I hear the Russian too, in Joseph's rendition. I even see Joseph, his hands straining the pockets of his jacket, his jaw jutting, as though his eye had just been caught by something and he were staring at it, scrutinizing it, while continuing to mouth the poem, almost absent- mindedly, that is, while the poem continues to be mouthed by him. His voice rises symphonically: Syn ili Bog (Son or God), "God" already (oddly?) on the turn towards an abrupt descent; and then the pause and a resonant drop, a full octave: Ya tvoi (I am thine). And the poet, with an almost embarrassed or reluctant nod, and a quick, pained smile, departs his poem.
Daniel Weissbort: From Russia With Love

Note: Bài này cũng cực thú. Bị khán giả chất vấn, mi so sao với Solz, Brodsky bèn trả lời, tớ có cái hãnh diện là viết bằng cùng thứ tiếng với ông ta:
"And the legend which had been built around him?" His answer managed to be both artfully diplomatic and truthful: "Well, let's put it this way. I'm awfully proud that I'm writing in the same language as he does." (Note, again, how he expresses this sentiment in terms of language.)

Chỉ có hai nhà thơ sống "sự thực tuyệt đối" của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là Brodsky và TTT!

Son of Man and Son of God
Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 
Theo tôi, nên dịch như sau:
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 
Best regards,
DHQ
 
Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
NQT

Note: Không làm sao kiếm ra khúc dịch trật nữa!

Son of Man and Son of God (2)
Today at 12:02 PM
Dear ông Gấu
Cháu xin phép giúp ông tìm lại bản dịch "trật"
Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?

Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Best regards,
 Phúc đáp:
Tks
Take Care
Như vậy là GCC không dịch được từ “thine”, và không hiểu, từ "woman", trong câu thơ.

…   Anh khoe khong?
K
OK rồi, không què đâu. Tks
NQT
Mạnh khỏe la vui roi!
O.

Tks. Tưởng là què luôn.
V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó
Bác Tru theo dao nao vậy?
Toi theo dao tho ong ba
Den gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.

Gentile or Jew or simply a man
Whose face has been lost in time,
We shall not save the silent
Letters of his name from oblivion.
What could he know of forgiveness,
A thief whom Judea nailed to a cross?
For us those days are lost.
During his last undertaking,
Death by crucifixion,
e learned from the taunts of the crowd
That the man who was dying beside him
Was God. And blindly he said:
Remember me when thou eomest
Into thy kingdom, and from the terrible cross
The unimaginable voice
Which one day will judge us all
Promised him Paradise. Nothing more was said
Between them before the end came,
But history will not let the memory
Of their last afternoon die.
O friends, the innocence of this friend
Of Jesus! That simplicity which made him,
From the disgrace of punishment, ask for
And be granted Paradise
Was what drove him time
And again to sin and to bloody crime.
                                [Mark Strand]
J.L. Borges
Luke XXIII
Không phải Do Thái, hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời gian bào mòn
Chúng ta cũng không thể nào
Giành lại được từ quên lãng
Những con chữ câm lặng
Là cái tên của anh ta
Anh ta biết gì về tha thứ
Tên trộm từ Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú cuối cùng của anh ta
Chết bằng đóng đinh thập tự
Anh ta biết, từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang chết kế bên anh ta,
Là Chúa. Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ đến tôi khi Người vô
Nước Thiên Đường
Và từ cây thập tự khủng khiếp
Một giọng nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào sẽ phán xét tất cả chúng ta
Hãy hứa với anh ta Thiên Đàng.
Chẳng lời nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự ngây thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn cầu
Và được ban cho Thiên Đàng
Cho anh ta thời gian
Và nữa, nữa, tội lỗi, và tội ác

Note: Bài thơ này, GCC lôi ra, tính dịch, hoá ra là dịch rồi.
Nhưng có lẽ, bạn nên đọc thêm, những dòng thơ này, trong bài viết của G. Greene:


THE LOST CHILDHOOD

In ancient shadows and twilights
Where childhood had strayed,
The world's great sorrows were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of Judas
Christ was betrayed.



&

TLS Mar 6 2015
Mẩu Đoạn
Bóng nắng chạy ngoằn ngoèo theo con bãi, vô tới đám cây anh túc
Như sau cùng được con gió buông tha
Những điều em nói, Gấu chỉ nhớ ba chớp ba nháng
Nhưng đếch thèm ghi notes
Who cares?
Gấu thú thật cũng có tí ham muốn ghi lại
Cái gì gì, lời nào em không nói,
Tình nào không gian dối
Nhưng lúc này, đến lượt Gấu nhăn mặt với cái bãi.
Em sẽ ngồi ở cái ghế bành
Và ngắm Gấu nhăn mặt

With the help of people and the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.
When someone living dies that way
blood flows at every blow.
But marble statues die white
and not always completely.
From the one under discussion only the torso lingers
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.
And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.
Wislawa Szymborska: Here
Tượng Hy Lạp
Với sự giúp đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.
Khi một người nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.
Nhưng tượng đá chết trắng
Và không phải luôn luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang được bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào chính nó
tất cả ân sủng và trọng lực (1)
cái phần đã bị liếm mất
Và nó làm được
Kể từ giờ này nó làm được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng hai từ này của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí” của Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà nói lên được cái ý "ân sủng và trọng lực"!
NQT
ROMANTIC LANDSCAPE
To grieve, always to suffer
At the thought of time passing.
The outside world shadowy
As your deepest self.
Melancholy meadows, trees so still,
They seem afraid of themselves.
The sunset sky for one brief moment
Radiant with some supreme insight,
And then it's over. Tragic theater:
Blood and mourning at which
Even the birds fall silent.
Spirit, you who are everywhere and nowhere,
Watch over the lost lamb
Now that the mouth of the Infinite
Opens over us
And its dumb tongue begins to move darkly.
Charles Simic
Phong cảnh lãng mạn
Đau buồn, luôn luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính chúng.
Bầu trời hoàng hôn, trong một thoáng
Bỗng long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu me, tang tóc
Ngay cả lũ chim cũng đành chết sững.
Tinh thần, mi, ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng ta
Và cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động

*
Coetzee, kết thúc bài viết “Cees Nooteboomm, tiểu thuyết gia, du lịch gia”, [trong “Những bến bờ xa lạ hơn, Stranger Shores] bằng những dòng, "dù muốn hay không, Nooteboom là 1 phần của kỹ nghệ du lịch, part of tourism industry."
Nhưng, Cees Nooteboom còn là 1 thi sĩ. Khi ông bắt đầu làm thơ, ở Hà Lan vào năm 1956, ông bị coi là 1 kẻ bị ruồng bỏ, an outcast, vì đếch chiều theo cung cách mần thơ vào thời này, for not abiding by the conventional experience style popular at the time.
Thay vì chiều theo, thì ông bèn học làm thơ từ hải ngoại, và dịch chúng.
Đúng là 1 kinh nghiệm quá cần thiết cho thơ Mít.
Thơ của ông, thì trong sáng, và huyền bí, lucid and mysterious, khơi gợi và thoái thác, evocative and elusive, và tuyển tập thơ "Ánh sáng khắp nơi" gồm những bài do chính tác giả tuyển chọn.
traveller
In the tortured reeds, those two women
wrapped in their cloaks.
They've been there for hundreds of years.
Tonight they guard my fear.
And you, the devil of my poisoned dreams,
pursuing and confusing me
on an Oriental evening like this,
what do you want?
There are so many things I haven't learnt,
I only know myself in reverse, a refugee
running to meet me,
fleeing punishment.
Two Japanese women, once seen
in a storm, preserved and drawn
in a flaming gust of leaves.
What are these things?
I am a traveller, who was looking for peace.
AN OLD DOG
Okinamaro
are you still keeping watch
without sleep through the short summer nights
            Washing my feet in a basin
            I see that the basin leaks
            water running out like the last of spring
A fish in an old well
leaps at mosquitoes
a sound of darkness
Yosa Buson
Japanese
1716-1783
W.S. Merwin: Selected Translations
Chó Già
Okinamaro,
Mi vưỡn canh chừng, đếch chịu ngủ
Suốt những Đêm Hè ngắn ngủi?
            Rửa chân nơi cái chậu ở ngoài sân
            Gấu nhận ra cái chậu nứt
            Con nước cuối của Mùa Xuân
            Bèn chảy ra
Một chú cá nơi giếng cũ
Đợp muỗi
Tiếng Động Đen
Parting
Three hundred nights like three hundred walls
must rise between my love and me
and the sea will be a black art between us.
Nothing will be left but memories.
o afternoons earned with suffering,
nights hoping for the sight of you,
fields along my way, firmament
that I am seeing and losing ...
Final as marble
your absence will sadden other afternoons.
W.S. Merwin [Translated]
Borges: Selected Poems
Gấu Đi Xa
Ba trăm đêm như ba trăm bức tường
Phải mọc lên giữa Người Yêu Gấu và Gấu
Và biển sẽ là Nghệ Thuật Đen giữa đôi ta
Chẳng để lại cái gì, nếu có chăng, thì là hồi nhớ
Ôi những buổi chiều đớn đau như lệ không rơi ngoài tim mình
Đêm - miệt mài trông ngóng bóng hình Em -
Trải dài con đường Gấu Đi Xa
Bầu Trời
Gấu nhìn và mất dần ….
Tận cùng như cẩm thạch
Sự vắng mặt của Em
Thành Biển Sầu, những buổi chiều khác
.


*



THE DOORMAN
WHEN I CAME home from a long walk, the doorman said that I no longer lived here.
"Why?" I asked, more out of surprise than fright.
"You didn't exist enough," he answered.
"What do you mean?"
"Well, my dear sir," he went on, "those bouts of sadness, silence, melancholy ... They did not go unremarked."
"And what about you?" I shouted. "You don't exist at all.
All you do is read the sports section and watch television."
"That's true," the doorman agreed, "sacred truth. Except that I don't have to exist. I'm a doorman, an observer."
"No," I countered, "I'm the observer."
"You are mistaken, my dear sir," he answered firmly. "But it doesn't matter anyway. We were counting on your existing beautifully. "
"And you mean I disappointed you?"
"The best proof is that you no longer live here."
Indeed, I noticed at that very moment that someone new was moving into my apartment.
When we passed each other, I whispered maliciously,
"Well, you won't be staying here long."
Adam Zagajewski: Two Cities
Tên Gác Cửa
Tớ trở về nhà sau 1 chuyến tản bộ dài, và người gác cửa phán, mi không còn ở đây nữa.
Tại sao? Tớ hỏi, ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi.
Mi không có sống đủ. Hắn trả lời.
Ông nói chi?
“Vâng thưa ông", hắn tiếp tục,”những mẩu buồn bã, câm nín, sầu muộn, cái gì gì, "nhân hậu và cảm động"… chúng vắng mặt 1 tí, là thiên hạ nhận ra liền”
Thế còn mi thì sao? Mi cũng đâu có hiện hữu, tồn tại cái con mẹ gì! Tối ngày ôm tờ Thể Thao, hoặc dán mắt vô cái TV!
“Đúng thế”, người gác cửa phán. “Đó là sự thực, sự thực thiêng liêng, thần thánh!”
“Tuy nhiên, tớ mà cần gì hiện hữu!”. “Tớ là kẻ ngoại cuộc, một tên gác cửa!”
No! Không, Ta mới mà tên ngoại cuộc, người quan sát, “Dư Luận Viên”!
Ngài lầm rồi, ngài Gấu Cà Chớn! Hắn nói 1 cách rất ư là vững vàng.
Nhưng cũng chẳng có gì là quan trọng, nói cho cùng.
Chúng tôi trông mong vào sự hiện hữu của GCC, GNV, Hai Lúa… sự hiện hữu tuyệt đẹp của trang TV của Ngài, hà, hà!
Như vậy là thằng cha GCC làm ông không hài lòng?
Thì rõ ràng là như thế. Chứng cớ rõ ràng, ông có còn ở đây nữa đâu?
Quả thế thực, vì đúng lúc đó, có 1 tên dọn vô.
Hai đứa đụng nhau. GCC nói thầm vào tai kẻ lạ, một cách rất ư là láu cá chó, mi không ở đây lâu được đâu!
Hà, hà!


THE DOORMAN
WHEN I CAME home from a long walk, the doorman said that I no longer lived here.
"Why?" I asked, more out of surprise than fright.
"You didn't exist enough," he answered.
"What do you mean?"
"Well, my dear sir," he went on, "those bouts of sadness, silence, melancholy ... They did not go unremarked."
"And what about you?" I shouted. "You don't exist at all.
All you do is read the sports section and watch television."
"That's true," the doorman agreed, "sacred truth. Except that I don't have to exist. I'm a doorman, an observer."
"No," I countered, "I'm the observer."
"You are mistaken, my dear sir," he answered firmly. "But it doesn't matter anyway. We were counting on your existing beautifully. "
"And you mean I disappointed you?"
"The best proof is that you no longer live here."
Indeed, I noticed at that very moment that someone new was moving into my apartment.
When we passed each other, I whispered maliciously,
"Well, you won't be staying here long."
Adam Zagajewski: Two Cities
Tên Gác Cửa
Tớ trở về nhà sau 1 chuyến tản bộ dài, và người gác cửa phán, mi không còn ở đây nữa.
Tại sao? Tớ hỏi, ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi.
Mi không có sống đủ. Hắn trả lời.
Ông nói chi?
“Vâng thưa ông", hắn tiếp tục,”những mẩu buồn bã, câm nín, sầu muộn, cái gì gì, "nhân hậu và cảm động"… chúng vắng mặt 1 tí, là thiên hạ nhận ra liền”
Thế còn mi thì sao? Mi cũng đâu có hiện hữu, tồn tại cái con mẹ gì! Tối ngày ôm tờ Thể Thao, hoặc dán mắt vô cái TV!
“Đúng thế”, người gác cửa phán. “Đó là sự thực, sự thực thiêng liêng, thần thánh!”
“Tuy nhiên, tớ mà cần gì hiện hữu!”. “Tớ là kẻ ngoại cuộc, một tên gác cửa!”
No! Không, Ta mới mà tên ngoại cuộc, người quan sát, “Dư Luận Viên”!
Ngài lầm rồi, ngài Gấu Cà Chớn! Hắn nói 1 cách rất ư là vững vàng.
Nhưng cũng chẳng có gì là quan trọng, nói cho cùng.
Chúng tôi trông mong vào sự hiện hữu của GCC, GNV, Hai Lúa… sự hiện hữu tuyệt đẹp của trang TV của Ngài, hà, hà!
Như vậy là thằng cha GCC làm ông không hài lòng?
Thì rõ ràng là như thế. Chứng cớ rõ ràng, ông có còn ở đây nữa đâu?
Quả thế thực, vì đúng lúc đó, có 1 tên dọn vô.
Hai đứa đụng nhau. GCC nói thầm vào tai kẻ lạ, một cách rất ư là láu cá chó, mi không ở đây lâu được đâu!
Hà, hà!

Charles Simic
Charles Simic is a sentence.
A sentence has a beginning and an end.
Is he a simple or compound sentence?
It depends on the weather,
It depends on the stars above.
What is the subject of the sentence?
The subject is your beloved Charles Simic.
How many verbs are there in the sentence?
Eating, sleeping, and fucking are some of its verbs.
What is the object of the sentence?
The object, my little ones,
Is not yet in sight.
And who is writing this awkward sentence?
A blackmailer, a girl in love,
And an applicant for a job.
Will they end with a period or a question mark?
They'll end with an exclamation point and an ink spot.
Charles Simic
Gấu Cà Chớn
GCC là 1 câu
Một câu với 1 khởi đầu và 1 kết thúc.
Câu, đơn hay kép?
Cái đó còn tùy thời tiết
Tùy mấy ngôi sao ở trên đầu
Đề tài của câu là cái gì?
Thì là thằng cu Gấu thân thương của độc giả TV chứ là gì nữa?
Có bao nhiêu động từ trong câu?
Ăn ngủ đụ ị…là một vài động từ của nó
Túc từ của câu văn?
Túc từ ư? Thì cũng vài cái thân thương
Nhưng chưa lộ rõ hẳn ra
Ai đang viết câu văn cà chớn đó?
Một tên tống tiền, một cô gái đang êu.
Và 1 kẻ đang xin việc làm
Chúng sẽ chấm dứt với dấu chấm hay dấu hỏi?
Chúng sẽ chấm dứt bằng dấu than, và 1 giọt mực
Roque Dalton
Spanish
1935-1975
THE CONCEITED
I'd be wonderful at being dead.
Then my vices would shine like ancient jewels
with those delicious colors of poison.
There'd be flowers of every scent on my tomb
and the adolescents would imitate my expressions of joy,
my occult words of anguish.
Maybe somebody'd say I was loyal and good.
But you'd be the only one who'd remember
the way I looked into eyes.
1971
W.S. Merwin: Selected Translations
Tên phách lối, láu cá chó

Hắn sẽ thần sầu vào lúc hắn ngỏm
Khi đó, những thói xấu của hắn sẽ sáng ngời như châu báu vạn niên
Với những màu sắc tuyệt vời của thuốc độc
Sẽ có vạn thứ hoa, đủ thứ mùi, trên mộ của hắn
Và đám hậu duệ sẽ bắt chước những biểu hiện của niềm vui,
những lời tối tăm khó hiểu của nỗi thống khổ của hắn.
Có thể, có kẻ nào đó sẽ bênh vực hắn
Thằng chả thì... nhân hậu và cảm động!
Nhưng bạn là người độc nhất nhớ
Cái cách mà hắn nhìn vô mắt bạn.
Hắn là Gấu Cà Chớn
Hà, hà! 


Bài này đang Top. GCC đã dịch ra tiếng Mít. Post lại ở đây
Bài thơ này có trong From Russia with Love, mà Tin Văn đang lai rai giới thiệu, và trong W.S. Merwin, Selected Translations.
Những lời lèm bèm về nó, là của tác giả cuốn From Russia with Love.

The Jewish cemetery near Leningrad.
A crooked fence of rotten plywood.
And behind it, lying side by side,
lawyers, merchants, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves.
They accumulated money for themselves.
They died for others.
But in the first place they paid their taxes, and
respected the law,
and in this hopelessly material world,
they interpreted the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they saw more.
Perhaps they believed blindly.
But they taught their children to be patient
and to stick to things.
And they did not plant any seeds.
They never planted seeds.
They simply lay themselves down
in the cold earth, like grain.
And they fell asleep forever.
And after, they were covered with earth,
candles were lit for them,
and on the Day of Atonement
hungry old men with piping voices,
gasping with cold, wailed about peace.
And they got it.
As dissolution of matter.
Remembering nothing.
Forgetting nothing.
Behind the crooked fence of rotting plywood,
four miles from the tramway terminus.
Joseph Brodsky
Nghĩa địa Do Thái gần Leningrad
Một hàng rào gỗ cong queo, mục nát
Và đằng sau nó, nằm, kế bên nhau
luật sư, thương nhân, nhạc sĩ, những nhà cách mạng
Họ hát cho họ
Họ tích tụ tiền bạc cho họ
Họ chết cho những người khác
Nhưng trước hết, trên hết, họ đóng thuế
Và tuân theo luật pháp
Và trong cái thế giới trần tục, vật chất, vô hy vọng
Họ giải thích Kinh Talmud, và luôn giữ mình,
như những con người lý tưởng
Có thể họ nhìn nhiều hơn
Có thể, họ mù lòa tin tưởng
Nhưng họ dậy con cái hãy kiên nhẫn
Và bám sát vào sự vật
Và họ không gieo mầm
Họ không hề gieo mầm
Họ giản dị nằm xuống
Trên đất lạnh như hạt
Và chìm vào giấc ngủ đời đời
Và sau đó, đất phủ họ
Những cây đèn cầy vì họ được đốt lên
Và vào cái Ngày Chuộc Lỗi, Đền Tội
Những ông già đói khát, với giọng như tiếng sáo,
Thở hổn hển vì lạnh
Rên rỉ về hòa bường, hòa bường
Và họ có nó
Như phân huỷ vật chất
Nhớ, chẳng nhớ gì
Quên, chẳng quên gì
Đằng sau hàng rào gỗ cong queo mục nát
Cách trạm xe điện cuối bốn dặm.
"Cemetery", as this poem is called in the article, is uncharacteristic, not only on account of the subject but prosodically as well. The first stanza is rhymed, but thereafter the poem resolves itself into vers libre. I know of no other poem like it in Joseph's published oeuvre. Indeed, were it not that he never denied writing it, one might almost have thought it was by someone else. In a sense, perhaps it was.
    I never discussed it with Joseph, since we didn't talk about our Jewishness, or even Judaism as such, though I may have mentioned my own ambivalence. While it is sometimes suggested or claimed that Joseph had rejected Judaism, as far as I know he neither embraced it nor denied it. I think that his attitude did not really change. He was a Jew of the assimilated, Russified kind, a "bad Jew", as he put it, and not much interested in adopting or reclaiming the tradition; in short, he was no "refusenik". On the other hand, for instance, Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to be included in the book, Joseph replied that he wanted to be in it. And when, for instance, he was asked at a press conference in Stockholm, in December 1987, at the Nobel ceremonies, how he would describe himself, he answered: "I feel myself a Jew, although I never learnt Jewish traditions." He added, however: "But as for my own language, I undoubtedly regard myself as Russian."
    Being a Jew, like being an exile, has certain advantages, in that (anywhere other than in Israel, perhaps New York, or wherever Jewish ghettos survive) it situates one on the margins, rather than at the centre of society. Jews tend to take on the colour of their surroundings. Jewish history, as a whole - and even "bad" Jews are heirs to that history - gives the individual Jew a claim, however tenuous, on a variety of cultural or linguistic territories. This is a source of strength, but also of weakness, in that he may feel that he truly belongs to none. Of course, Joseph did live in New York, but he was frequently on the road, in the States or abroad, and had another home in New England. Further- more, his exceptionally wide, international circle of friends and acquaintances far transcended the Jewish cultural world, assuming that there is such a thing.
"Nghĩa địa" như bài thơ được gọi, trong bài viết, thì chẳng hay ho gì, không chỉ ở cái giọng kể lể, mà còn cả ở cái chất thơ xuôi của nó. Khổ đầu thì còn có vần điệu, nhưng sau biến thành thơ tự do. Ngoài nó ra, không còn bài nào như thế, trong số tác phẩm của Joseph... nhưng khi được 1 tay xb hỏi, có cho nó vô 1 tuyển tập Những tiếng nói ở bên trong [chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái Hiện Đại, do anh ta xb, hay là không [Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to be included in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn" có nó, trong đó!
Hay, thí dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng Chạp, 1987, ở Stockholm, khi tới đó lấy cái Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên…  Ngụy, dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó ra làm sao”, và nói thêm, “Về ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng là của 1 tên… Mít”!
Là 1 tên Ngụy, thì giống như 1 tên lưu vong, có tí lợi; nó đẩy tên đó ra bên lề, thay vì ở trung tâm xã hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng cho chúng 1 màu của chung lũ chúng, ở loanh quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban cho từng cá nhân Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây là nguồn sức mạnh của chúng, nhưng vưỡn không làm sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng ra cái chó gì cả, hắn đếch thuộc về ai, về đâu, đại khái thế!

The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….
Đáp ứng, của Akhmatova, khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and to preserve their memory among the living….

Trong 1 bài viết trên talawas, đại thi sĩ Kinh Bắc biện hộ cho cái sự ông ngồi nắn nón viết tự kiểm theo lệnh Tố Hữu, để được tha về nhà tiếp tục làm thơ, và tìm lá diêu bông, rằng, cái âm điệu thơ Kinh [quá] Bắc [Kít] của ông, buồn rầu, bi thương, đủ chửi bố Cách Mạng của VC rồi.
Theo sự hiểu biết cá nhân của Gấu, thì chỉ hai nhà thơ, sống thật đời của mình, không 1 vết nhơ, không khi nào phải “edit” cái phẩm hạnh của mình, là Brodsky và ông anh nhà thơ của GCC.
Chẳng thế mà Milosz rất thèm 1 cuộc đời như của Brodsky, hay nói như 1 người dân bình thường Nga, tớ rất thèm có 1 cuộc đời riêng tư như của Brodsky, như trong bài viết của Tolstaya cho thấy.
Bảnh như Osip Mandelstam mà cũng phải sống cuộc đời kép, trong thế giới khốn nạn đó. Để sống sót,  Mandelstam cũng đã từng phải làm thơ thổi Xì, như bà vợ ông kể lại, và khi những người quen xúi bà, đừng bao giờ nhắc tới nó, bà đã không làm như vậy:
Nadezhda Mandelstam recalled how her husband Osip Mandelstam had done what was necessary to survive:
To be sure, M. also, at the very last moment, did what was required of him and wrote a hymn of praise to Stalin, but the "Ode" did not achieve its purpose of saving his life. It is possible, though, that without it I should not have survived either. . . . By surviving I was able to save his poetry.... When we left Voronezh, M. asked Natasha to destroy the "Ode." Many people now advise me not to speak of it at all, as thou it had never existed. But I cannot agree to this, because the truth would then be incomplete: leading a double life was an absolute fact of our age and nobody was exempt. The only difference was that while others wrote their odes in their apartments and country villas and were rewarded for them, M wrote his with a rope around his neck. Akhmatova did the same, as they drew-the noose tighter around the neck of her son. Who can blame either her or M.
Roberta Reeder: Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên tri
Trong khi lũ nhà văn nhà thơ Liên Xô làm thơ ca ngợi Xì và được bổng lộc, thì M làm thơ ca ngợi Xì với cái thòng lọng ở cổ, và bài thơ “Ode” đó cũng chẳng cứu được mạng của ông. Người ta xúi tôi, đừng nhắc tới nó, nhưng tôi nghĩ không được, vì như thế sự thực không đầy đủ: sống cuộc đời kép là sự thực tuyệt đối của thời chúng ta.
Tuyệt.
Chỉ có hai nhà thơ sống sự thực tuyệt đối của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là Brodsky và TTT!
Etkind relates how this trial pitted two traditional foes against each other, the bureaucracy and the intelligentsia. Brodsky represented Russian poetry.

Bosnia Tune
As you sip your brand of scotch,
crush a roach, or scratch your crotch,
as your hand adjusts your tie,
people die.
In the towns with funny names,
hit by bullets, caught in flames,
by and large not knowing why,
people die.
In small places you don't know
of, yet big for having no
chance to scream or say goodbye,
people die.
People die as you elect
brand-new dudes who preach neglect,
self-restraint, etc.-whereby
people die.
Too far off to practice love
for thy neighbor/brother Slav,
where your cherubs dread to fly,
people die.
While the statues disagree,
Cain's version, history
for its fuel tends to buy
those who die.
As you watch the athletes score,
check your latest statement, or
sing your child a lullaby,
people die.
Time, whose sharp bloodthirsty quill
parts the killed from those who kill,
will pronounce the latter band
as your brand.
                [1992]
Joseph Brodsky: Collected Poems in English
Trong khi bạn nhâm nhi ngụm cô nhắc
Chơi miếng cá, gãi tí háng
Hay sửa cái cà vạt
Người ta chết
Trong những thành phố với những cái tên tức cười
Trúng bom, đạn hỏa tiễn, cháy hàng loạt
Chẳng hiểu tại sao
Người ta chết
Tại những nơi chốn nho nhỏ, bạn chẳng biết đến, tuy nhiên thật lớn,
Bởi là vì bạn chẳng có cơ hội để mà than khóc, hay để vĩnh biệt,
Người ta chết
Người ta chết khi bạn bầu lên một thằng chăn trâu, học lớp 1 làm thủ tướng
Để rao giảng về sự lơ là, tự kiềm chế, etc - ở đó
Người ta chết
Quá xa để mà thực tập tình yêu
Cho người hàng xóm/người anh em Slav
Nơi chú bé thiên sứ của…  Sến sợ hãi không dám bay
Người ta chết
Khi những pho tượng cãi lộn om xòm
Về thằng anh Bắc Kít làm thịt thằng em Nam Kít
Lịch sử cần “bôi trơn”
Bằng ba triệu người chết trong cuộc chiến
Và, bằng hàng hà, sau đó.
Khi bạn coi Ký Ức Điện Biên,
Hay đi 1 đường stt trên fb
Hay tôi ru em ngủ, ru mãi ngàn năm cái con khỉ gì đó
Người ta chết
Thời gian với cái ngòi bút nhọn, lúc nào cũng thèm máu
Tách kẻ bị giết ra khỏi kẻ giết
Sẽ tuyên bố, lũ sát nhân
Như là nhãn hiệu của bạn
Note: Bài thơ này, post lại, là để mừng thôi nôi Văn Vịt!
GCC

*

NYRB Mar, 20

Cái Gối
Buổi sáng
Anh cô đơn, vững vàng làm sao
Một tên khắc kỷ trong tay áo vải bông
Anh có mơ bước ra ngoài trời
Mưa hay nắng
Một cây nấm cân bằng, chỉnh tranh trên cái xương ức
Bắt kịp em nơi hè đường?
Đó là nụ cuời của anh ư?
Bởi là vì anh chẳng nói lên điều gì
Chẳng nói lên anh ở đâu, thí dụ?
Lặng lẽ làm sao anh vui với những dáng điệu, tính khí của em
Hẹn gặp anh đêm nay
Nơi ngôi đền tình ái tối thượng
Khi đó, anh mới khác, làm sao
Note: Tính kiếm 1 bài thơ cho ngày 8/3, nhưng, dịch thoáng, lấy ý, thì lại bật ra câu của Mít, ban ngày anh như...  thần, ban đêm anh tần mần như...  ma!
Đành thay bằng bài thơ sau đây:
Last Dawn
Your hair lost in the forest,
your feet touching mine.
Asleep you are bigger than the night,
but your dream fits within this room.
How much we are who are so little!
Outside a taxi passes
with its load of ghosts.
The river that runs by
                                is always
running back.
Will tomorrow be another day?
Octavio Paz
Bình Minh Chót
Tóc em lạc trong rừng
Chân em đụng chân anh
Nửa thức nửa ngủ, em lớn hơn đêm
Nhưng giấc mơ của em thì gọn lỏn trong căn phòng
Đôi ta mới nhỏ bé làm sao!
Bên ngoài chiếc tắc xi chạy qua
Đong đầy hồn ma
Con sông chảy qua đi
       Luôn luôn
Trở lại.
Liệu ngày mai sẽ là một ngày khác?





THE WHITE LABYRINTH
There is one waiting for you,
On every blank sheet of paper.
So, beware of the monster
Guarding it who'll be invisible
As he comes charging at you,
Armed as you are only with a pen.
And watch out for that girl
Who'll come to your aid
With her quick mind and a ball of thread,
And lead you by the nose
Out of one maze into another.
-Charles Simic
Mê cung trắng
Có một mê cung như thế đấy
Nó đang chờ bạn
Trên mọi tờ giấy trắng
Vậy thì, hãy coi chừng
Con quỷ vô hình canh giữ nó
Nó sẽ quạt cho bạn 1 trận
Yếu ớt như bạn,
Trang bị bằng, chỉ cây viết.
Và hãy trông chừng
Luôn cả cô gái
Tới cứu bạn
Với cái đầu lanh lẹn, với cuộn chỉ len
[Bằng 1 cuộn chỉ như thế, 1 cô gái đã từng cứu được dũng sĩ Hercules
Ra khỏi mê cung có quái thú Minotaur]
Cô gái sẽ xỏ mũi bạn bằng sợi len
Kíu bạn ra khỏi mê cung,
Và đẩy bạn vô 1 mê cung khác.

Thơ TTT

*

&

NYRB March 5, 2015.
Bài thơ thần sầu! Đúng vô tâm trạng GCC. Nhất là khúc sau.
Nhà thơ như biết, GCC rất ư đang cần, hà, hà!
Em nắm mũi GCC,
Dẫn ra khỏi mê cung [trắng, tức tờ giấy]
Tới một mê cung khác [đen thui ?]
Chắc hẳn!
&
Tiếng còi trên sông Hồng
Tờ "Người Nữu Ước", 9, Tháng Ba, 2015 tưởng niệm Mai Thảo!
Chắc là nhân đọc 1 tên cha căng chú kiết nào đó, thay vì đọc Gió O của Bà Huệ!     
"cá quẫy trong bụng cá, cá chết trong bụng cá, cá đẹp trong bụng cá
.....không một hạt máu cá, rơi ra ngoài miệng cá "
-Lãng Thanh-
*
Note: Giang hồ vặt ghé net, đọc bài viết thì bèn nhớ đến dòng thơ TTT, “lệ không rơi ngoài tim mình vs cá chết trong bụng cá]

Bèn bật ra dòng thơ waka, dưới đây, trong cuốn thơ bạn đường:
One more year
The snow is piled up high
On Komachi Temple
[Chỉ cần 1 năm thôi, là... NTN]
Komachi: (Ono no Komachi): One of the six most admired waka poet in Kosinshu, the ten-century Imperial anthology. Her verse “Soon faded are the flowers/of the world/in the human heart” is often quoted to illustrate transience in life.
Câu thơ waka nói về tính ngắn ngủi của đời người, thì lại làm nhớ ra 1 câu bạn K tặng GCC, nhưng ngại trích ở đây…
V/v dòng thơ waka, GCC ưa dòng thơ sau đây, hơn, được trích dẫn nơi bìa sau:
Gấu mang nỗi buồn của Gấu - như cục đá Sisyphus 
Lên đỉnh đồi
Giữa những bông hoa dại
I have brought the melancholy of my heart
Up the hill
To the wild roses in flower
[Thay vì trích câu của K!]

HIGH TERRACES
Terraces high above the brightness of the sea.
We were the first in the hotel to go down to breakfast.
Far off, on the horizon, huge ships maneuvered. 
In King Sigismund Augustus High School
We used to begin each day with a song about dawn.

I wake to light that warms
My eye
And feel Almighty God
Nearby.
 
All my life I tried to answer the question, where does evil come from?
Impossible that people should suffer so much, if God is in Heaven
Sân thượng cao hơn cả vùng sáng của biển
Chúng tôi là những người khách đầu tiên của khách sạn
Đi xuống dùng điểm tâm
Xa tít xa, ở nơi đường chân trời, những con tầu  lớn loay hoay vận hành
Ở trường trung học King Sigismund Augustus High School
Chúng tôi thường bắt đầu mỗi ngày bằng 1 bài hát về rạng đông
Tôi thức dậy sưởi ấm mắt bằng ánh mặt trời
Và cảm thấy Thượng Đế Cao Cả
Ở ngay kế bên 
Cả đời tôi, tôi cố trả lời câu hỏi, cái ác, cái quỉ ma đến từ đâu
Thật không thể, nếu con người đau khổ như thế đó, mà lại có một đấng Thượng Đế ở Thiên Đàng
Hay
Ngay kế bên


He remembered her words: "You are a good man." 
He did not quite believe it. Lyric poets
Usually have-as he knew-cold hearts.
It is like a medical condition.
Perfection in art 
Is given in exchange for such an affliction.
GNV nhớ lời của BHD:
Mi là 1 thiện nhân
Hắn không tin. 
Mi làm thơ, viết văn, tán gái giỏi.
Thì ta ban cho mi trái tim của 1 kẻ đại ác!

Milosz

*
If one saves a butterfly, has one saved the world?
Nếu bạn kíu một em bướm, bạn kíu thế giới ?
David Shapiro
RICCI
Rose
This young
rose, it represents all of us here.
Careful! It is the prettiest young rose
we have: life needs love,
love needs life.

Translated from the Spanish by Spencer Reece

BHD
Bông hồng trẻ này đại diện cho tất cả chúng ta ở đây
Hãy cẩn thận
Đó là bông hồng nhỏ bé tuyệt đẹp mà chúng ta có:
Đời cần tình yêu
Tình yêu cần đời


*   
The Mailman
It is midnight.
He comes up the walk
and knocks at the door.
I rush to greet him.
He stands there weeping,
shaking a letter at me.
He tells me it contains
terrible personal news.
He falls to his knees.
"Forgive me! Forgive me!" he pleads.
I ask him inside.
He wipes his eyes.
His dark blue suit
is like an inkstain
on my crimson couch.
Helpless, nervous, small,
he curls up like a ball
and sleeps while I compose
more letters to myself
in the same vein:
"You shall live
by inflicting pain.
You shall forgive."
   
Người nhà giây thép
Nửa đêm
Anh ta vội bước và gõ cửa
Gấu chạy ra đón
Anh ta đứng đó, khóc nức nở
Tay run lẩy bẩy lá thư
Tin cá nhân, tin dữ
Anh ta té quỵ xuống
“Tha thứ cho tôi! Tha thứ cho tôi!” anh ta năn nỉ
Gấu mời anh vô nhà
Anh ta lau mắt
Bộ đồ màu xám sậm
Như mực viết
Trên cái đi văng màu đỏ của Gấu.
Bất lực, bối rối, nhỏ bé
Anh ta cuộn người như trái banh
Và ngủ, trong khi Gấu thảo vài đường, cho chính Gấu
Theo cái dòng suy nghĩ sau đây:
“Mi sẽ sống bằng cách tẩm vào mi nỗi chết
Mi sẽ tha thứ”
 The Rose
The sorrows of the rose were mounting up.
Twisted in a field of weeds, the helpless rose
felt the breeze of paradise just once, then died.
The children cried, "Oh rose, come back.
We love you, rose." Then someone said that soon
they'd have another rose. "Come, my darlings,
down to the pond, lean over the edge, and look
at yourselves looking up. Now do you see it,
its petals open, rising to the surface, turning into you?"
"Oh no," they said. "We are what we are - nothing else."
How perfect. How ancient. How past repair.

Mark Strand: New Selected Poems

 
Poems February 25, 2013 Issue
By Joseph Brodsky (1940-1996) 
In villages God does not live in corners
as skeptics think. He’s everywhere.
He blesses the roof, he blesses the dishes,
he holds his half of the double doors.
He’s plentiful. In the iron pot there.
Cooking the lentils on Saturday.
He sleepily jigs and bops in the fire,
he winks at me, his witness. He
assembles a fence, he marries some sweetheart
off to the woodsman. Then for a joke
he makes the warden’s every potshot
fall just short of a passing duck.
The chance to watch all this up close,
while autumn’s whistling in the mist,
is the only blessed gift there is
in villages, for the atheist. 
(Translated, from the Russian, by Glyn Maxwell and Catherine Ciepiela.)
Ở trong làng Chúa không sống ở trong những góc
Ở trong làng Chúa không sống ở trong những góc
Như những người bi quan nghĩ
Người ở khắp mọi nơi
Người ban phước cho cái mái nhà, mấy cái dĩa,
Người giữ một nửa, những cánh cửa kép của Người
Người thì tràn đầy. Ở trong cái nồi sắt đằng kia
Nấu món đậu lăng cho ngày Thứ Bẩy.
Người nhẩy bebop, ra vẻ ngái ngủ, trên ngọn lửa
Người nháy mắt với Gấu, người chứng của Người.
Người sửa bờ dậu
Người gả cô gái đáng yêu
Cho một anh thợ rừng
Rồi thì Người biến mọi cú bắn của anh dân phòng thành một trò cười
Cơ may nhìn Người dỡn chơi thì liền ngay ở đây
Trong lúc Mùa Thu đang tỉ tê trong sương mù
Đó là lời chúc phúc độc nhất cho mọi tên vô thần
Ở trong làng
*

Tôi chỉ tới St Petersburg một lần, chừng 10 năm trước đây. Tôi quan tâm tới nó là vì tôi đọc những thi sĩ Mandelstam và Akhmatova, cả hai đã sống ở đó. Đó là 1 thành phố với những viễn cảnh thật đẹp, với cảm quan, ý nghĩa lớn, về sự sống sót vây hãm [Leningrad, 1941-44], và lẽ dĩ nhiên, còn những kết hợp, móc nối văn học liên can đến từng bước ngoặt của nó. Có “vùng Dos”, chẳng hạn, hay “Triển vọng Nevsky”. Mandelstam viết 1 bài thơ về tòa nhà Admiralty Building, và Pushkin thì viết về bức tượng đồng của Đại Đế St Peter. Chúng tôi đi thăm căn phòng của Brodsky. Chúng tôi biết ông ở Mỹ, và ông có viết về “Căn phòng rưỡi” nơi ông lớn lên. Chúng tôi gặp nhiếp ảnh viên đã chụp hình ông, ngày ông lưu vong. Anh ta làm 1 cái bánh, lôi ra 1 chai vodka, và chúng tôi có 1 bữa tiệc nho nhỏ tưởng nhớ tới Brodsky.
Seamus Heanys, thi sĩ, Nobel văn chương
Intel số Tháng Giêng, Tháng Hai, 2013: Những Nơi Chốn [Places]

Seasons in Heaven
There is no Winter
Save for recreational
Snow (which melts by dawn).
Days are boyhoods in
high Summer, and there'll always
be a cricket match
you could join in on,
or it's Autumn, and sixth-form
girls playing hockey
on the next pitch,
(gymslips kirtled, cheeks and thighs
aglow, the air champagne
as after frost, and
elm leaves heaped in yellow drifts).
At night, though, it's Spring,
And each boy, showered,
with his wet hair combed, puts off
all callowness but
not his innocence,
as girls put on mascara.
We meet in soft dusk
singly, and pair off
and go into the cornfield,
mouths dry, hand in hand.
DUNCAN BUSH
TLS Dec 12, 2014
Mùa màng ở Thiên Đàng
Không có Mùa Đông
Dành cho Tuyết tiêu khiển
[Cỡ rạng đông thì bèn tan]
Ngày tháng như trẻ thơ
Mùa hè lớn
Luôn có trận chọi dế
Bạn có thể tham dự
Hay là vào Mùa Thu
Khi mấy cô nữ sinh lớp Đệ Lục
Chơi bóng chuyền
Trong cuộc chơi ném bóng kế tiếp
(Áo váy đồng phục thể thao, má háng đỏ rực, mùi sâm banh như sau sương giá, và lá cây du chất thành đống mầu vàng)
Vào ban đêm, đó là Mùa Xuân
Và mỗi cậu con trai, tắm rửa
Đầu ướt, chải chuốt, trút bỏ lông măng, ngoại trừ sự ngây thơ
Và những cô gái bôi mi mắt
Chúng mình gặp nhau buổi tối nhẹ nhàng,
Hát nhẹ nhàng
Từng đôi
Đi ra cánh đồng.

7:00 AM Sunday 11.1.2015.
Toronto đang hứng trận lạnh, từ Bắc Cực thổi về.    
 Poor North 
It is cold, the snow is deep,
the wind beats around in its cage of trees,
clouds have the look of rags torn and soiled with use,
and starlings peck at the ice.
It is north, poor north. Nothing goes right. 
The man of the house has gone to work,
selling chairs and sofas in a failing store.
His wife stays home and stares from the window into the trees,
trying to recall the life she lost, though it wasn't much.
White flowers of frost build up on the glass.
It is late in the day. Brants and Canada geese are asleep
on the waters of St. Margaret's Bay.
The man and his wife are out for a walk; see how they lean
into the wind; they turn up their collars
and the small puffs of their breath are carried away.
Mark Strand: Collected Poems
Bắc tội nghiệp
Lạnh. Tuyết sâu
Gió quần thảo trong chuồng cây của nó
Mây, như rẻ rách, tả tơi, dơ dáy
Do bị sử dụng quá mức
và như những con sáo đá, khoét trên mặt băng
Đó là Bắc, Bắc đáng thương, tội nghiệp.
Chẳng có gì đúng, ở đó.
Người đàn ông trong nhà, đi làm
Bán ghế, xô pha trong một cửa hàng sa sút
Bà vợ ở nhà, từ cửa sổ, nhìn ra cây cối
Cố nhớ cuộc đời bà bỏ mất
Dù cuộc đời đó chẳng có gì, cho lắm.
Sương kết thành hoa trắng trên mặt đá
Ngày, muộn
Ngỗng Canada và Brants
Lừ khừ ngủ trên mặt nước ở Vịnh St. Margaret’s Bay
Người đàn ông và vợ đi ra ngoài, làm 1 cú dạo
Nhìn kìa,
Họ tựa vào nhau, tựa vào gió
Kéo cao cổ áo
Và những đợt khói, do hơi thở của họ, gầy dựng thành, bay theo gió.
Note: Mark Strand là nhà thơ Mẽo, nhưng gốc Canada.
Bài thơ này, ông làm để....  tặng vợ chồng Gấu.
Tks. RIP
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
Thơ Gấu Cà Chớn

Seasons in Heaven
There is no Winter
Save for recreational
Snow (which melts by dawn).
Days are boyhoods in
high Summer, and there'll always
be a cricket match
you could join in on,
or it's Autumn, and sixth-form
girls playing hockey
on the next pitch,
(gymslips kirtled, cheeks and thighs
aglow, the air champagne
as after frost, and
elm leaves heaped in yellow drifts).
At night, though, it's Spring,
And each boy, showered,
with his wet hair combed, puts off
all callowness but
not his innocence,
as girls put on mascara.
We meet in soft dusk
singly, and pair off
and go into the cornfield,
mouths dry, hand in hand.
DUNCAN BUSH
TLS Dec 12, 2014


*
A man is, after all, what he loves.
Brodsky

Nói cho cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái", được không, nhỉ] hắn yêu. 
"What", ở đây, nghĩa là gì?
Một loài chim biển, được chăng?
The world is ugly,
and the people are sad. 
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
The Good Life
You stand at the window.
There is a glass cloud in the shape of a heart.
The wind's sighs are like caves in your speech.
You are the ghost in the tree outside.
The street is quiet.
The weather, like tomorrow, like your life,
is partially here, partially up in the air.
There is nothing you can do.
The good life gives no warning.
It weathers the climates of despair
and appears, on foot, unrecognized, offering nothing,
and you are there.
Một đời OK
Mi đứng ở cửa sổ
Mây thuỷ tinh hình trái tim
Gió thở dài sườn sượt, như hầm như hố, trong lèm bèm của mi
Mi là con ma trong cây bên ngoài
Phố yên tĩnh
Thời tiết, như ngày mai, như đời mi
Thì, một phần ở đây, một phần ở mãi tít trên kia
Mi thì vô phương, chẳng làm gì được với cái chuyện như thế đó
Một đời OK, là một đời đếch đề ra, một cảnh báo cảnh biếc cái con mẹ gì cả.
Nó phì phào cái khí hậu của sự chán chường
Và tỏ ra, trên mặt đất, trong tiếng chân đi, không thể nhận ra, chẳng dâng hiến cái gì,
Và mi, có đó!
IN MEMORIAM
Give me six lines written by the most honourable of men,
and I will find a reason in them to hang him.
-Richelieu
We never found the last lines he had written,
Or where he was when they found him.
Of his honor, people seem to know nothing.
And many doubt that he ever lived.
It does not matter. The fact that he died
Is reason enough to believe there were reasons.
IN MEMORIAM

Cho ta sáu dòng được viết bởi kẻ đáng kính trọng nhất trong những bực tu mi
Và ta sẽ tìm ra một lý do trong đó để treo cổ hắn ta

-Richelieu
Chúng ta không kiếm ra những dòng cuối cùng hắn viết
Hay hắn ở đâu, khi họ tìm thấy hắn
Về phẩm giá của hắn, có vẻ như người ta chẳng biết gì
Và nhiều người còn nghi ngờ, có thằng cha như thế ư
Nhưng cũng chẳng sao, nói cho cùng
Sự kiện hắn ngỏm là đủ lý do để mà tin rằng có những lý do.

*
379
ochioute
oto naku nareru
shimizu kana 
Mountain streams flow down
into each other
out of their sounds 
380
zenigame ya
aoto mo shiranu
yarna-shlmizu
Maruyama Ohkyo asked me to write an inscription for his
painting of a small tortoise. I'd rather drag my tail through
mud than seek fame in government -

Maruyama Ohkyo nhờ tôi phụ đề cho bức họa, 1 con rùa nhỏ. Tôi bèn lắc đầu, thà quậy đuôi vô bùn còn hơn cầu danh vọng nơi triều đình
A tortoise the shape of a coin
in the clear mountain stream
even Aoto the coin hunter will not see it
The foreword refers to the famous Chinese Taoist,
Zhuangzi, who refused to accept the King of Chu's
offer of a position as minister by saying he would rather
drag his tail in the mud like a tortoise than have his ashes
placed in a kingly mausoleum. [Shimizu]

381
futari shite
musubeba nigoru
shimizu kana
Two lovers cup their hands
scoop clear water from a spring
stirring up mud
Yosa Buson
Translated by W.S. Merwin & Takako Lento
Hai kẻ yêu nhau
Ly trong tay
Múc nước suối
Quậy bùn lên
*
Joseph Brodsky and Charles Simic
January 8, 2015 Issue
The poet Mark Strand, a contributor to these pages, died on November 29.
Note: Tin Văn sẽ đi bài này, từ báo giấy, tất nhiên!
JOSEPH BRODSKY
The following was given by Joseph Brodsky as an introduction to a reading by Mark Strand at the American Academy of Poets in New York City on November 4, 1986.
It’s a tall order to introduce Mark Strand because it requires estrangement from what I like very much, from something to which I owe many moments of almost physical happiness—or to its mental equivalent. I am talking about his poems—as well as about his prose, but poems first.
A man is, after all, what he loves. But one always feels cornered when asked to explain why one loves this or that person, and what for. In order to explain it—which inevitably amounts to explaining oneself—one has to try to love the object of one’s attention a little bit less. I don’t think I am capable of this feat of objectivity, nor am I willing even to try. In short, I feel biased about Mark Strand’s poems, and judging by the way his work progresses, I expect to stay biased to the end of my days.
My romance with Mr. Strand’s poems dates back to the end of the Sixties, or to the beginning of the Seventies, when an anthology of contemporary American poetry—a large paperback brick (edited by, I think, among others, Mark Strand) landed one day on my lap. That was in Russia. If my memory serves me right, Strand’s entry in that anthology contained one of the best poems written in the postwar era, his “The Way It Is,” with that terrific epigraph from Wallace Stevens that I can’t resist reproducing here:
    The world is ugly,
    and the people are sad. 
What impressed me there and then was a peculiar unassertiveness in depicting fairly dismal, in this poem’s case, aspects of the human condition. I was also impressed by the almost effortless pace and grace of the poem’s utterances. It became apparent to me at once that I was dealing with a poet who doesn’t put his strength on display—quite the contrary, who displays a sort of flabby muscle, who puts you at ease rather than imposes himself on the reader. 
This impression has stayed with me for some eighteen years, and even now I don’t see that much reason for modifying it. Technically speaking, Strand is a very gentle poet: he never twists your arm, never forces you into a poem. No, his opening lines usually invite you in, with a genial, slightly elegiac sweep of intonation, and for a while you feel almost at home on the surface of his opaque, gray, swelling lines, until you realize—and not suddenly, with a jolt, but rather gradually and out of your own idle curiosity, the way one sometimes looks out a skyscraper’s window or overboard of …
*

A man is, after all, what he loves.
Nói cho cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái", được không, nhỉ] hắn yêu. 
"What", ở đây, nghĩa là gì?
Một loài chim biển, được chăng?
The world is ugly,
and the people are sad. 
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
ELEVATOR
1.
The elevator went to the base-
ment. The doors opened.
A man stepped in and asked if I
was going up.
"I'm going down," I said. "I won't
be going up."
2.
The elevator went to the base-
ment. The doors opened.
A man stepped in and asked if
I was going up.
"I'm going down," I said. "I won't
be going up."

*
Archangelsk, the briny cold, the frigid Baltics,
Children throwing snowballs at Soviet statues.
The Arctic chill of the moon at midday,
The trees wrapped, the pedestrians bundled.
How the sun shivered behind the smokestacks
Like a soldier frozen in place.
At the dimly lit Museum of the Far North
The subject was the poet’s internal exile,
Metaphysics versus History, and the fateful
Struggle between Poetry and Time,
A Cold War that will never end.
Also, his love for watery ports
And stubborn cats, especially the Russian
Blue that hailed from the White Sea.
Afterwards, a slushy walk, salty air,
Sleep in an overcoat in a converted barracks.
All night I heard the muffled boots
Of an army marching through the streets
Under the thick cover of darkness.
But in the morning, anniversary mourning,
I woke to a magisterial silence.
Snow occupied the city.
-Edward Hirsch.
NYRB, Feb 11, 2010
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk, cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết 
Cái ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ 
Siêu hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc, bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.

Alexander Blok
Russian
1880-1921
TO ZINAIDA GIPPIUS
Those born in backwater years
forget their own way. Russia
gave birth to us in her years of anguish
and we can forget nothing.
Years of holocaust, do you
herald madness, or the advent of hope?
Days of war, days of freedom,
have stained our faces with bloody light.
We are speechless. The bells'
alarms sealed our lips. Where there was
a burning in our hearts once
there is nothing now, fixed, like a death.
Over the bed where we are dying
let the hoarse ravens sail-
may others, more worthy, O God, O God,
gaze on Thy kingdom!
1968, translated with Olga Carlisle
Những kẻ sinh trong những năm bùn lầy nước đọng
Quên con đường của chính chúng.
Gấu Mẹ Nga vĩ đại sinh ra lũ chúng ta trong những năm thống khổ của Bà
Và chúng ta không thể quên điều gì
Những năm của Lò Thiêu,
Mi rao truyền Khùng Điên
Hay Ngày Mai Hi Vọng?
Những ngày chiến tranh, những ngày tự do
Đã khắc lên mặt chúng ta ánh sáng máu
Chúng ta nghẹn lời
Tiếng chuông báo động đóng khằn môi chúng ta
Nơi ngày nào là nhà của chúng ta, với ngọn lửa trong trái tim của mình
Bây giờ chẳng còn gì, cứng đơ, như cái chết
Trên cái giường nơi chúng ta nằm chết
Hãy để cho lũ quạ khàn rong buồm –
Cầu cho những kẻ khác, xứng đáng hơn, Ôi Chúa, Ôi Phật
Hãy nhìn về Vương Quốc của tụi mi.


Alexander Blok
Russian
1880-1921
Beyond the mountains beyond the forests
beyond the dust of the roads
beyond the grave mounds
under other skies you flower
Whiteness will spread on the mountain
but spring will come back to the valley
and I will recall with an older sadness
my past as though it were yesterday
In the grief of my dreams I will know you
and I will seize in my palms
your gentle hand that has borne miracles
and repeat the distance in your name
    September 30, 1915
1968, translated with
Olga Carlisle
W.S. Merwin
Quá núi quá rừng
Quá bụi đường
Quá mồ mả
Dưới những bầu trời khác em hoa
Trắng sẽ trải trên núi
Nhưng Xuân sẽ về thung lũng này
Và tôi sẽ nhớ với một nỗi buồn xa xưa hơn
Quá khứ của mình như ngày hôm qua
Trong nỗi đau của những giấc mơ tôi sẽ biết em
Và tôi sẽ nắm trong lòng tay
Bàn tay dịu dàng của em nơi phép lạ nở rộ
Và lập lại khoảng cách trong tên em.

TO ZINAIDA GIPPIUS
Those born in backwater years
forget their own way. Russia
gave birth to us in her years of anguish
and we can forget nothing.
Years of holocaust, do you
herald madness, or the advent of hope?
Days of war, days of freedom,
have stained our faces with bloody light.
We are speechless. The bells'
alarms sealed our lips. Where there was
a burning in our hearts once
there is nothing now, fixed, like a death.
Over the bed where we are dying
let the hoarse ravens sail-
may others, more worthy, O God, O God,
gaze on Thy kingdom!
1968, translated with Olga Carlisle
Những kẻ sinh trong những năm bùn lầy nước đọng
Quên con đường của chính chúng.
Gấu Mẹ Nga vĩ đại sinh ra lũ chúng ta trong những năm thống khổ của Bà
Và chúng ta không thể quên điều gì
Những năm của Lò Thiêu,
Mi rao truyền Khùng Điên
Hay Ngày Mai Hi Vọng?
Những ngày chiến tranh, những ngày tự do
Đã khắc lên mặt chúng ta ánh sáng máu
Chúng ta nghẹn lời
Tiếng chuông báo động đóng khằn môi chúng ta
Nơi ngày nào là nhà của chúng ta, với ngọn lửa trong trái tim của mình
Bây giờ chẳng còn gì, cứng đơ, như cái chết
Trên cái giường nơi chúng ta nằm chết
Hãy để cho lũ quạ khàn rong buồm –
Cầu cho những kẻ khác, xứng đáng hơn, Ôi Chúa, Ôi Phật
Hãy nhìn về Vương Quốc của tụi mi.


Note: 1969 Gấu viết Cõi Khác, cũng là năm Borges chơi bài thơ này, mà đến bữa nay Gấu mới vớ được, khi lướt net - không phải trong những cuốn của Borges - nhiều lắm - mà Gấu có được:
You will forget your father's tongue
and learn the tongue of Paradise.
You shall be an Israeli, a soldier,
You shall build a country on wasteland,
making it rise out of deserts.
Your brother, whose face you've never seen,
will work by your side.
One thing only we promise you:
your place in the battle.
For some reason, this Poem on Underground reduced me to tears on my way to Bond Street. It seems to perfectly express an eternity as well as the inevitability of loss.  By Kathleen Raine. 
    Maire Macrae's Song 
    The singer is old and has forgotten
    Her girlhood's grief for the young soldier
    Who sailed away across the ocean,
    Love's brief joy and lonely sorrow:
    The song is older than the singer. 
    The song is older than the singer
    Shaped by the love and the long waiting
    Of women dead and long forgotten
    Who sang before remembered time
    To teach the unbroken heart its sorrow. 
    The girl who waits for her young soldier
    Learns from the cadence of a song
    How deep her love, how long the waiting.
    Sorrow is older than the heart,
    Already old when love is young,
    The song is older than the sorrow.
Note: Bài thơ này, đã post trên TV, nhưng quên chưa dịch, nay kiếm hoài không ra, bèn gõ Google, thay vì scan lại: Bài thơ làm tớ khóc ròng trên đường tới Bond Street. Nó diễn tả thần sầu sự vĩnh cửu cũng như điều không thể tránh được, của mất mát.
Và sau đây là bản tiếng Mít:
Bài hát của Maire Macrae
Người ca sĩ thì già và quên nỗi đau buồn thời con gái
Dành cho một người lính trẻ
Vượt trùng dương
Tình yêu là niềm vui ngắn ngủi và nỗi sầu cô đơn:
Bài hát thì già hơn ca sĩ.
Bài hát già hơn người hát
Được hình thành bằng tình yêu và nỗi chờ đợi dài
Của những phụ nữ đã chết và từ lâu chẳng còn ai nhớ
Họ đã từng hát trước khi nhớ thời gian
Dạy những trái tim cứng rắn nỗi sầu của nó
Người con gái đợi người lính trẻ
Học từ nhịp ca,
Tình yêu của cô mới sâu đậm, và đợi chờ mới dài cỡ nào.
Nỗi sầu thì già hơn trái tim
Đã trở nên già cằn khi tình yêu còn trẻ:
Bài hát thì già hơn nỗi sầu.

Số báo này, về dịch thuật. Có mấy bài đã giới thiệu trên TV

**

  MATTHEW ROHRER
The sound of the water jar
empties in the open graves
where the refugees live.
Because it does not touch me
near my pillow
I can sleep and dream
of the clean lines
of summer. What I thought
were faces turn out
to be elaborate plates of sweets
not this human sadness.
One or two inches above
my head until the mosquito
sticks his snout
into my dream.
Bài thơ ăn theo Basho
Tiếng nước rội cạn
Vô những cái mả lộ thiên
Nơi những tên tị nạn sống
Do nó không làm ướt gối tôi,
Nằm ngay kế bên
Thế là tôi bèn ngủ và nằm mơ vài phát
Về những dòng [nước] sạch của mùa hè
Những cái mà tôi mơ - những bộ mặt -
Hoá ra đếch phải -
Mà là những dĩa kẹo,
Bốc hơi, cũng theo hư không mà đi
Không phải nỗi buồn nhân thế này.
Một hay hai phân ở bên trên
Cái đầu của tôi đụng con muỗi
Nó đợp tôi một phát
Vô tới tận giấc mớ của tôi.
GRIGORI DASHEVSKY
The night approaches. Dusk drafts on buildings
their future ruins. Dusk deepens windows
and apertures. It hollows stones
with shadows like with water. It foretells
the near death of a hundred clouds
to the shining host. A thin layer of dust,
the seer leaves his footprints on the roofs
as he walks home from the future
not his own, swallowing his voice-
in its rays, fat blood flows down
the golden armor. Wet
blue entrails. Large heads
have rolled down the shoulders.
Speech has grown silent in deep mouths.
.............................................................
The signs of a life without past will emerge
like lies through the lines of an old page,
emptiness will turn into loss,
foreign sand into Ithaca.
Ithaca is the time
when there's nowhere to go. If it's night,
it means the night is the end of the voyage.
A sackcloth hiding the shoulders
of the stranger is truer than
speeches about past and future
he won't make. Nobody
will. On the streets rain readies
hollows for the funeral, already
overgrown with grass.
In a long puddle he sees:
a pauper, a random victim of the skies
hangs with his head down.
In height, he is a cloud, the size
of a lost faith
in returning home.
...........................................
So should I, a pauper sitting
by a stranger's door, declare: I'm Odysseus,
and I'm back. Should I say:
I'm recognized. After the mourning songs
tears are still rolling down my face. I have been
summoned to clothe the past
in the shining ice.
The twilight pushes a heavy box of reflection
out of the windows
and thumbs through a pale face
as if it were a stack of letters lying in a vacuum,
written by an unfamiliar hand.
You are in Ithaca, but you are not yet home
The soul goes home the way of flesh,
clothed in white rags,
so that to say
upon arrival: I recognize
and I am recognized. Window water,
vapor of window reflections
harden not in the shining of the ice
that has come out of a secret thought,
but from a permanent neighboring frame,
which has embraced life into its shores of death,
where my steps on the sand
are uneven and filled with water.
Old rags are stronger than old life.
Night, like dead water, sows together
the tattered contours of the past.
A stranger's death is a seed of your homeland,
sprouting from the graveyard statues,
from the clouds, forever still.
-Translated from the Russian by Valzhyna Mort
Poetry, Nov 2014

Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau

TCS
Giẻ cũ, áo cũ, tã cũ, cờ cũ (a)... thì mạnh hơn là đời cũ
Đêm, như nước chết, cùng nhau gieo
những đường viền tơi tả của quá khứ
Cái chết của kẻ lạ thì là mầm hạt quê nhà của mi đó
Nẩy lên từ những pho tượng ở nghĩa trang
Từ những đám mây, vưỡn miên viễn, hoài hoài
Ở Xề Gòn

KO UN
Ear
Someone's coming
from the other world.
Hiss of night rain.
Someone's going there now.
The two are sure to meet.
Tai
Một người nào đó tới
Từ thế giới khác
Huýt mưa đêm
Một người nào đó lúc này ở bên ngoài đó rồi
Cả hai hẳn là đã gặp nhau
  Thơ Mỗi Ngày


*
Phạm Thiên Thư
Xin chân thành cảm ơn những lời chúc mừng của tất cả các bạn!
Quoc Tru Nguyen Happy Birthday to You
 Note: Bữa nay SN PTT. Hóa ra là Người bò ra đúng đầu năm.
Chúc Mừng. NQT

PTT là bạn của Joseph Huỳnh Văn. Anh có trong Ban biên tập Tập San Văn Chương, nhưng phải đến sau 1975 Gấu mới có dịp gặp, tình cờ, ở 1 cà phê hè đường, hình như Phan Đình Phùng, hình như gần công viên Con Rùa, với Ngọc Minh.


'I saw a man pursuing the horizon'

I saw a man pursuing the horizon;
Round and round they sped.
I was disturbed at this;
I accosted the man.
'It is futile,' I said,
'You can never-'
'You lie,' he cried,
And ran on.

Stephen Crane

Poems on the Underground

"Tớ nhìn thấy 1 người rượt chân trời"
Tớ nhìn thấy một người rượt chân trời
Cả hai chạy lòng dòng
Buồn cười quá, và bực quá,
Bèn tới gần người rượt
Ích chi đâu, sao mà khùng như thế hở?
Mi nói láo!
Và, rượt tiếp
A Tune
A foolish rhythm turns in my idle head
As a wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Why is it when love, which men call deathless, is dead,
That memory, men call fugitive, will not die?
Is love not dead? Yet I hear that tune if I lie
Dreaming awake in the night on my lonely bed,
And an old thought turns with the old tune in my head
As a wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Arthur Symons

Điệu nhạc sến
Điệu nhạc khùng quay quay trong cái đầu lừng khừng của tớ
Khi cái cối xay gió quay quay trong bầu trời trống rỗng
Tại làm sao tình yêu - con người nói không chết - chết
Và kỷ niệm - con người gọi là phiêu lãng - không chết?
Tình yêu không chết?
Tuy nhiên cứ mỗi lần nằm mơ màng trong đêm
Trên chiếc giường cô đơn
Là cái ý nghĩ xa xưa
Quay quay
Cùng với điệu nhạc ngày nào trong đầu
Khi cái cối xa gió quay mòng mòng trong không gian trống rỗng
.

Maire Macrae's Song
The singer is old and has forgotten
Her girlhood's grief for the young soldier
Who sailed away across the ocean,
Love's brief joy and lonely sorrow:
The song is older than the singer.
The song is older than the singer
Shaped by the love and the long waiting
Of women dead and long forgotten
Who sang before remembered time
To teach the unbroken heart its sorrow. 
The girl who waits for her young soldier
Learns from the cadence of a song
How deep her love, how long the waiting.
Sorrow is older than the heart,
Already old when love is young:
The song is older than the sorrow. 
Kathleen Raine
Poems on the Underground
        Map of the New World:

Archipelagoes

At the end of this sentence, rain will begin.
At the rain's edge, a sail.
Slowly the sail will lose sight of islands;
into a mist will go the belief in harbours
of an entire race.
The ten-years war is finished.
Helen's hair, a grey cloud.
Troy, a white ashpit
by the drizzling sea.
The drizzle tightens like the strings of a harp.
A man with clouded eyes picks up the rain
and plucks the first line of the Odyssey.
Derek Walcott
[from Poems on the Underground]
Bản Đồ Tân Thế Giới:
Quần Đảo
Ở cuối câu văn này, mưa sẽ bắt đầu
Ở bìa cơn mưa, một cánh buồm
Dần dần, cánh buồm sẽ mất cái nhìn những hòn đảo;
Lặn vô sương mù, xuất hiện niềm tin vào những cảng
Của trọn một nòi giống
Cuộc chiến 10 năm sẽ kết thúc
Tóc Helen, một đám mây xám
Thành Troy, một hố tro
Kế biển mưa phùn
Mưa phùn kết lại như những sợi dây đàn harp.
Một người đàn ông tóc như mây
Nhặt lên cơn mưa
Và lấy ra dòng đầu tiên của Ô Đít Xê Mít!
           
Coda
Maybe we knew each other better
When the night was young and unrepeated
And the moon stood still over Jericho. 
So much for the past; in the present
There are moments caught between heart-beats
When maybe we know each other better. 
But what is that clinking in the darkness?
Maybe we shall know each other better
When the tunnels meet beneath the mountain.
Louis Mac Neice
[from Poems on the Underground]
           

Coda
[Đoạn đuôi]
Có lẽ chúng ta sẽ hiểu nhau rõ hơn
Khi đêm còn trẻ, và không lập lại
Và con trăng thì đứng sững trên nền trời Xề Gòn
Quá khứ quá quắt quắt quá
Hiện tại, có những khoảnh khắc, tóm bắt giữa tiếng đập của con tim
Khi chúng ta có lẽ hiểu nhau hơn 
Nhưng cái gì nghe như tiếng DM trong bóng tối?
Có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ nhau hơn
Khi những đường hầm Kủ Chi gặp nhau ở bên dưới rặng Trường Sơn.
Le cercle du Ciel est la mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.
Borges
GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ... 21
Bầu trời là thước đo vinh quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
Ta thấy hình ta những miếu đền

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương
Mai Thảo
The Moon
for Maria Kodama
There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
                                                                            -W.B.
Borges
Trăng
Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.

 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư