Trong khi chờ Nobel 2019




Trang thơ Tomas Transtromer

Nobel 2011



Những suy tưỏng trong đêm
The poetry of Tomas Tranströmer.
Thơ TT
by Dan Chiasson
October 31, 2011 .
According to the London bookies, the favorite to win the Nobel Prize in Literature this year was Bob Dylan. Instead, the Swedish Academy placed a call to Tomas Tranströmer, now eighty and the greatest living Scandinavian poet. Tranströmer suffered a stroke in 1990 that robbed him of speech and impaired the use of his right arm. Rather than delivering the customary laureate’s address, he will play a piece on the piano using only his left hand, a form of self-expression he has perfected since the stroke. But Tranströmer’s primary form of expression is the taciturn, enigmatic poetry he has been writing for sixty years. The poems are usually short and muted. His oeuvre, collected in “The Great Enigma” (translated from the Swedish by Robin Fulton; New Directions; $17.95) and, courtesy of various translators, in two reissued volumes, “For the Living and the Dead” (Ecco; $15.99) and “Selected Poems” (Ecco; $14.99), is probably smaller than any previous laureate’s. Much of Tranströmer’s work feels like a dreamed metaphor for what dreams do, stranding us in the alien stretches of our own minds. There have been, among poets, many psychiatric patients; psychologists are scarcer. Tranströmer worked for years as a psychologist, mainly with juveniles. Born in 1931 and brought up by his mother in Stockholm, he learned piano as a boy, and his poems match the virtues of music to the virtues of psychological analysis. His fascination with the unconscious ignites his fear of its fickleness, its ruthless and random devastations; few poets have made so much of spooking themselves. Tranströmer seeks not the “deep image,” but the elusive surface of things. The stroke and the poems that Tranströmer has written from inside its cruel sentence have only dramatized what was always there in him; the sensation of being arrested by silence, the hope that poetry can make small gains upon it.


Theo đám cá cược London, cơ may đợp Nobel Văn Học 2011 là con gà nòi Bob Dylan. Thay vì vậy, thì là gà nhà, 1 con gà già, nhà thơ bị liệt Tomas Trantromer, năm nay đúng tám bó, nhà thơ lớn lao nhất hiện chưa ngỏm của Thụy Ðiển. Ông bị tim quật cho 1 cú thật nặng vào năm 1990, trấn lột tiếng nói, liệt cánh tay phải. Thay vì đi một đường diễn văn cám ơn đời và Hàn Lâm Viện TD, ông sẽ chơi một mẩu dương cầm, theo kiểu “độc thủ đại hiệp” Vương Vũ ngày nào, một tuyệt chiêu học được sau cú bị tim quật.
Nhưng tuyệt chiêu, độc chiêu, primary, diễn tả của ông, là thơ, một thứ thơ lầm lì, bí hiểm, ông chơi với nó suốt 60 năm. Những bài thơ thì thường ngắn, và câm nín. Gia tài thơ 60 năm thì hơi bị khiêm tốn, nhét gọn cái túi quần sau, có thể nói như thế, mượn cách diễn tả của tay thư ký Nobel. Tác phẩm của TT, rất nhiều, làm chúng ta cảm nhận, như là một ẩn dụ mơ tưởng, về phần việc của những giấc mơ: ngăn chặn chúng ta ở những vùng với dài xa lạ của cái đầu, quá đó là bỏ mẹ, là “đâu cái điền”. Trong số những thi sĩ, có rất nhiều bịnh nhân tầm thần. Những nhà tâm lý học thì là của hiếm. TT làm việc như là 1 nhà tâm lý học, chủ yếu là với đám thanh thiếu niên. Sinh năm 1931, được mẹ nuôi nấng, ở Stockholm, khi còn nhỏ học piano, và những bài thơ của ông thì giống như 1 cuộc hôn phối giữa đức hạnh của âm nhạc và của nghiên cứu tâm lý học. Bị tiềm thức mê hoặc, và ông chỉ sợ tiềm thức tóm lấy ông, gây họa, vì tiềm thức vốn cà chớn [hay thay đổi, không kiên định], tàn nhẫn, và tình cờ, ẩu tả [random, hai người yêu nhau rất tình cờ. TTT].
Ít thi sĩ nói cà chớn như thế về mình. TT tìm kiếm, không phải “hình ảnh sâu xa”, nhưng mà là cái bề mặt lẩn tránh của sự vật.
Cú tim quật và những bài thơ TT viết, từ bên trong câu thơ độc ác của nó, chỉ làm thê thiết thêm điều luôn luôn có ở trong ông: cái cảm giác bị VC tóm bằng câm lặng, [nhét giẻ vô miệng nó cho ta, không thấy giẻ thì nhét kít!], và hy vọng, biết đâu đấy, nhờ vậy, nhờ bị VC nhét giẻ vô miệng mà làm thơ lại có tí bồi đắp, chăng?
THMN rồi, hà, hà! [To K]


Staring Through the Stitches
October 8, 1998
Helen Vendler


Nhìn qua những mũi khâu
Hai nhà thơ đáng mến thời hậu chiến, Wislawa Szymborska, (sinh 1923 tại Ba Lan), và Tomas Tranströme, sinh 1931 tại Thụy Ðiển) băn khoăn trước những hụt hẫng về mặt đạo đức của cả tôn giáo hình thức và chủ nghĩa lạc quan Mác xít, đã tìm kiếm những hiểu biết tinh thần ở bên ngoài những định chế đã được tổ chức, an bài. Những ai thực sự sống thời của họ, thực sự trải qua những năm tháng đó, thì cũng có cùng suy nghĩ như vậy. Nhưng thi sĩ, và văn sĩ, một khi âu lo về những gì xẩy ra trong xã hội, họ phải cô động những câu hỏi xã hội thành những câu hỏi cá nhân, và phải chuyển hoá ngôn ngữ viết, bằng cách thổi vào đó nhịp điệu, và âm thanh.
Cả hai Szymborska và Tranströmer thì đều là những nhà thơ ngắn gọn, c
ực ngắn gọn: Szymborska tra hỏi những chuyển động có tính quy ước của tư tưởng trong cuộc sống tâm thần và xã hội của chúng ta, trong khi Tranströmer trầm tư về những sức mạnh vô hình, vô thức nằm bên dưới những khoảnh khắc âu lo, tỉnh thức.
Szymborska đư
ợc Nobel năm 1996, và bây giờ, 2011, tới lượt Tranströmer.
*
Cái vòng hoa Nobel “tạo một lối đi mới mẻ vô thực tại”, và luôn cả cái chuyện trao Nobel cho nhà thơ Thụy Ðiển, bề ngoài có vẻ như là 1 phản ứng trước những lời chỉ trích giải Nobel những năm gần đây [lại tụi Mafia Do Thái], làm chúng ta quên đi, cái lý do chính, tại làm sao ông này, Tomas Tranströme, sau bà kia, Wislawa Szymborska?
Câu trả lời, của...  GCC: Thơ Wislawa Szymborska là thơ của điêu tàn, đêm đen, con phượng hoàng thò mỏ ra khỏi Lò Thiêu, còn của Tomas Tranströme, quả đúng là của 1 cõi riêng, vùng bán đảo Scandinavia:
Phong cảnh thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong thẳng tuột và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.
Nobel Thơ năm nay làm nhớ tới Horace [lại Horace!] Ông này tự gọi mình là Musarum sacerdos [Tu sĩ của Thánh Nữ, Nữ Thần Thi Ca, a priest of the Muses], và tuyên bố: “Odi profanum vulgus et arceo”. [Tớ ghét đám đông phàm tục, báng bổ và giữ 1 khoảng cách với họ].
Hai bài viết về TT, Tin Văn đang dịch dở & tính dịch, thấy đăng trên Blog NXT.
Tks anyway. NQT

*


The Swedish poet you will soon be reading
Prospero.
Nhà thơ Thụy Ðiển sẽ được đọc rất sớm sủa.
Giữa trận cá độ vào phút chót 100/1 dành cho Bob Dylan, ở 1 nhà cái, thì đùng 1 phát, nhà thơ ít được người đời biết tới, Tomas Tranströmer, người Thụy Ðiển, đất nước sở tại, thắng Nobel văn chương.
“Ông là nhà thơ, nhưng chưa từng bao giờ là người viết toàn thời gian”, tay thư ký thường trực của Viện Hàn Lâm, Peter Englund, giải thích.
Mặc dù hồi sau này, ông ít viết, do bị 1 cú sốc tim vào năm 1990 khiến Mr. Tranströmer bị liệt, nhưng đây là nhà thơ được yêu mến ở Thụy Ðiển, nơi tên của ông được nhắc tới đã nhiều năm mỗi lần Nobel. Thập niên vừa rồi,  một ông phó nhòm, cứ tới mùa lá rụng trong vườn, là bèn túc trực nơi cửa nhà ông, để kịp bấm máy.
Sinh năm 1931, Mr Tranströmer bắt đầu in thơ từ những năm đầu đời, thuở làm thơ yêu em như một nhà thơ Mít viết, và, khi người ta hai mươi tuổi thì… khiếp lắm. Kể từ đó, thơ của ông được dịch qua 60 ngôn ngữ. Nhưng túi thơ của ông thì hơi bị khiêm tốn - bạn có thể nhét gọn vô “cái túi quần sau” của bạn, có thể nói như vậy, theo ông thư ký thường trực, a not too-large pocket-book, một cái túi đựng sách không lớn quá.
Mr Tranströmer mần thơ, trong khi mần toàn thời gian, đầu tiên thì như là một nhà tâm lý học, và rồi thì như là công chức của Viện Thị Trường Lao Ðộng ở Västerås. Bất cứ 1 cái thứ vinh danh nào mà ông khoái thì đều thuộc loại trầm lặng, kiệm lời, kín tiếng. Khi thông báo chiến thắng của Mr Tranströmer, Viện Hàn Lâm thổi, đây là 1 thứ tác phẩm “kinh tế cao”, bảo đảm cho người đọc 1 lối đi mới mẻ, tươi mát tới thực tại. Ông là nhà thơ thứ nhất, kể từ khi nữ thi sĩ Ba Lan, Wislawa Szymborska được giải này vào năm 1996.
Tay thư ký Nobel có lẽ phải lèm bèm 1 tí để bảo vệ sự chọn lựa, [lại một đấng Âu Châu, và hơn thế nữa, đúng 1 đấng ở trong nhà], nhưng quan trọng hơn, tại làm sao ông số 1 lại là Mr Tranströmer?
Nhưng câu hỏi này, có lẽ nên để chính ông số 1 trả lời, bởi vì chỉ có ông số 1 mới có thể trả lời bằng tác phẩm của ông, chắc chắn là sẽ được độc giả vồ vập, trong những ngày sắp tới.
*
Thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ. Brodsky
Cái đặc trưng kinh tế cao, là đặc trưng của thơ. Thơ là phải như thế.
Ðâu phải trường ca cà chớn như ở xứ Mít?
Làm 1 câu thơ chưa nên thân, mà động đến là ỉa ra cả 1 đống!
Posted on 08.10.2011
Tomas Transtromer, nhà thơ người Thụy Điển, vừa đoạt giải Nobel văn chương năm 2011. Tôi quan tâm đến giải Nobel, như một người nuôi ngựa quan tâm đến giống ngựa chạy nhanh nhất, như một người ít tiền cảm thấy kích động khi bắt tay một tỉ phú đô la. Làm một người viết văn mà nói mình không quan tâm đến giải Nobel văn chương cũng giống như làm một anh bán mì gõ mà nói mình không mơ ước mở được nhà hàng trên đại lộ Nguyễn Huệ. Hãy nhìn những người hay nói “Em chả” xem họ đã làm gì để tâng bốc chính họ, để đánh bóng cái ghế tre của họ trong văn chương: họ không từ bất cứ một trò lố bịch hay cải lương nào. Những người này, chỉ cần ai đó vờ gọi điện thoại đến thì thào rằng tên của họ vừa được đề cử vào giải “Mít Vàng” là lập tức họ sẽ lăn đùng ra bất tỉnh vì quá kích động.
Một nhà thơ được trao giải Nobel là cách tốt nhất để nói rằng thơ vẫn đang sống. Thật ra thơ chưa bao giờ ngắc ngoải. Nó chỉ luôn sống cái đời sống của riêng nó, theo cái cách hơi ẩn dật nhưng tự tin của nó. Đời sống của nhà thơ khác với đời sống của minh tinh màn bạc hay ca sĩ. Thơ luôn bị dè biểu và coi thường, đôi khi từ chính cửa miệng những nhà thơ. Nhưng sau cùng nó vẫn là thứ mà cái đám đông dễ dãi không với tới được, những lãnh tụ quyền lực trên cao khom người hết cỡ vẫn không thể chạm tay. Công nghệ phát triển, đời sống bận rộn và nhanh hơn, những điều này đẩy thơ ra xa trung tâm sự chú ý, như sự trương nở của đô thị đẩy những vườn rau ngày càng xa phố phường. Nhưng rồi những trang trại rau vẫn tồn tại. Ngày thơ chết là ngày mà con người không còn ăn rau; con người chỉ uống thuốc mà sống. 
Thơ là bữa ăn ngoài trời có phần đạm bạc trong một ngày mùa xuân giữa những người bạn hiểu biết, ung dung. Khi tôi còn ở Việt Nam cuối những năm 80 đói kém, tôi hay ngồi với vài người bạn họa sĩ hay nhà thơ trong những bữa rượu sơ sài nhưng hào hứng như vậy. Đôi khi những cuộc tụ tập có thêm một hai người không ở trong giới văn nghệ nhưng rủng rỉnh tiền. Họ mang đến một chai rượu ngoại và ít thuốc lá thơm, và với những thứ đó họ nghĩ họ có thể huyên hoang về những điều mà họ không biết, không làm, không sống như chúng tôi. Đó là những bữa rượu gượng gạo và thậm chí mang lại cảm giác xấu hổ.
Thơ ca hôm nay cũng có dăm kẻ ngoại đạo huyên hoang như vậy. Họ mang đến những thứ lý thuyết cóp nhặt đó đây vào bàn tiệc, rồi sau vài ly ngà ngà thấy mình có vẻ được chấp nhận, bắt đầu lên giọng chỉ dạy những nhà thơ. Họ quên rằng làm thơ và nói về thơ là hai điều rất khác nhau. Người ta có thể nhờ vào học hành mà trở thành nhà phê bình nhưng không thể chỉ nhờ vào kiến thức mà trở thành nhà thơ. Hãy nhìn những nhà phê bình làm thơ như thế nào: phần lớn dưới mức trung bình, giọng điệu cũ kỹ và đặc biệt rất sến. Điều đáng nói là cái thái độ khiếp nhược và thậm chí a dua của những nhà thơ thứ thiệt trước loại phê bình rượu ngoại và thuốc lá thơm này. Các nhà thơ hiện nay vẫn còn đói kém như thời những năm 80 đến nỗi phải ngồi chịu trận để được… kéo một hơi thuốc thơm hay sao? 
Nhà thơ cần tự do sáng tạo như cần không khí. Nhà thơ phải được sống và sáng tác trong môi trường xã hội dân chủ, không kiểm duyệt, không tồn tại những thứ được chính trị nặn ra chỉ để thuần hoá và bào mòn năng lực sáng tạo, những thứ như Hội Nhà Văn và các Hội Nghị Nhà Văn Trẻ-Già-Sồn Sồn-Ấu Nhi. Bên cạnh nhu cầu tự do chính trị, nhà thơ cần tự giải phóng mình ra khỏi hai ràng buộc sau đây: 
Thứ nhất, ràng buộc vào thị hiếu của đám đông. Tôi không chủ trương văn chương tháp ngà. Thơ ca đáng đọc là thơ ca lấy cảm hứng trực tiếp từ đời sống. Nhà thơ cần quan tâm đến chính trị, nhất là khi hắn sống trong một xã hội độc tài. Thị hiếu đám đông tôi muốn nói đây là thị hiếu của thứ công nghệ giải trí, của các cuộc thi hoa hậu và trình diễn thời trang. Nhà thơ không thể và không nên cố gắng bằng mọi cách để được nổi tiếng như ca sĩ hay người mẫu. Sự phổ biến của các phương tiện truyền thông đại chúng như blog và facebook khiến một số nhà thơ ảo tưởng rằng họ cũng có thể được công chúng biết đến như một ngôi sao giải trí. Và để đạt được điều đó họ viết những bài thơ chỉ với mục đích nhận được những lời khen lập tức trên blog hay những phản hồi lụn vụn trên các diễn đàn văn chương. Có bao nhiêu người Mỹ từng nghe tên Tomas Transtromer trước ngày thứ Năm hôm qua, dù thơ ông được dịch ra tiếng Anh mấy chục năm nay bởi một trong những nhà thơ Mỹ hàng đầu? Sự thật là nhà thơ lớn nhất hôm nay cũng không thể nổi tiếng bằng Paris Hilton, một cô gái mà không ai có thể trả lời rõ ràng rằng có tài cán gì. Nhà thơ cần giải thoát mình khỏi nhu cầu làm hài lòng đám đông, kể cả đám đông văn nghệ. Khao khát được ngồi vào những bàn tiệc đông người biến nhà thơ thành kẻ thỏa hiệp và thậm chí khúm núm. 
Thứ hai, nhà thơ cần tự mình giải phóng ra khỏi ràng buộc với giới phê bình. Đừng trông đợi vào bất cứ sự hướng dẫn nào từ họ. Đúng ra khi họ bắt đầu lên giọng hướng dẫn về thơ, nhà thơ cần đứng dậy rời khỏi bàn ngay lập tức. Nhà phê bình Việt Nam hiện nay không có gì để chỉ bảo nhà thơ. Trong vài trường hợp khá nhất nhà phê bình Việt có thể viết lách cỡ một sinh viên cử nhân ở Mỹ, đa số còn lại chỉ làm những bài luận văn trung học và thường không biết cách trích dẫn. 
Thoát được hai ràng buộc bên trên: ám ảnh làm vui lòng đám đông và thái độ e dè đối với nhà phê bình, nhà thơ Việt sẽ trở nên tự do và can đảm hơn. 
Thơ Việt hôm nay là thơ quê mùa. Có hai loại nhà quê. Loại thứ nhất là nhà quê trong lũy tre làng: đóng kín, cũ kỹ, ẩm mùi rơm rạ. Đây là loại thơ của phần lớn các nhà thơ hội viên Hội Nhà Văn xuất hiện nhan nhản trên các báo văn nghệ và không văn nghệ trong nước. Loại thứ hai là nhà quê “cách tân”: loại này không làm thơ mà làm công việc độ lại các xe gắn máy nghĩa địa ngoại nhập. Quan tâm duy nhất của loại thứ hai là làm sao bịp được đám đông rằng mình đang cỡi một xe gắn máy thứ xịn. Cũng như mọi thứ trên đời, từ nghề thợ may cho đến chế tạo điện thoại di động, thơ có nhu cầu làm mới. Nhưng điều này phải  diễn ra một cách tự nhiên theo sự trải nghiệm đời sống và kiến thức văn chương mà nhà thơ tích lũy được qua thời gian. Cái mới trong thơ là quá trình kết tủa, không phải chụp bắt. Việc chọn một lý thuyết hay kiểu thơ nào đó bên ngoài rồi thực hành y chang không phải là làm mới. Nó chỉ là hành động sao-chép-lại-những-thứ-đã-từng-mới, nhưng nay đã cũ. Một món đã cũ trong  văn chương thì dù ở đâu cũng cũ, như chiếc áo cũ dù được bán trong tiệm đồ cũ Salvation Army ở Mỹ hay trên đường 3 Tháng 2 ở Sài Gòn vẫn là áo cũ. Hãy nhìn những nhà thơ nổi tiếng ở Mỹ hiện nay, có bao nhiêu người tự tuyên bố mình đang làm thơ “cách tân” hay thực hành một chủ thuyết?  Đọc những nhà thơ như Tomas Transtromer ta có cảm giác mới không phải vì họ lật đổ và dựng lên một cái gì chưa từng có, mà vì nét độc đáo trong suy tư và sâu sắc trong tâm cảm của tác giả, kỹ năng phối trí một cách tài tình những hình ảnh có vẻ ít ăn nhập trong đời thực nhưng rất đẹp khi đứng cạnh nhau trong bài thơ, và vì vậy tạo nên hiệu ứng ngạc nhiên, mới lạ. Cái mới của nhà thơ lớn đến từ việc vun trồng cần mẫn rồi thu hái những trái cây tươi, không phải từ việc độ lại xe gắn máy nghĩa địa. Ám ảnh cách tân trong một nền thơ nhà quê là có thể hiểu được, và trong chừng mực nào đó có tính cấp thiết, nhưng đừng tạo thêm ngộ nhận. 
Thơ ca Việt Nam hôm nay đầy rác. Bị đóng khung nhiều năm trong thứ mỹ học Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa cứng ngắt [c mới đúng. NQT], thơ Việt bung ra bằng cách phủ nhận tất cả những tiêu chuẩn tối thiểu về cái đẹp. Những cuộc tranh luận về thơ nhanh chóng đi đến kết luận mị dân đại loại mọi thứ trên đời đều có thể được coi là thơ, rằng không tồn tại những đường biên trong văn chương và tất cả đều tương đối. Nỗi sợ bị tấn công với những mũ cối “bảo thủ” và “lạc hậu” khiến không ai còn dám gọi đích danh một bài thơ dở là thơ dở, một bài thơ hay là thơ hay. Và điều này dẫn đến hậu quả tai hại: người ta đua nhau sản xuất những bài thơ dễ dãi, những món nửa sống nửa chín được nhanh chóng tung lên internet với yên tâm rằng sẽ không ai dám chê thơ mình. Đúng là mọi giá trị đều tương đối, nhưng sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu sự tương đối bị đẩy đến chỗ hư vô. Có thật chúng ta không còn phân biệt được đẹp với xấu, hay với dở? Các nhà thơ là những người hơn ai hết ao ước được cặp với gái đẹp – gái đẹp theo nghĩa “cổ điển,” theo “tiêu chuẩn thông thường” thôi — mặc dù trong đời thực họ ít có khả năng đạt được điều này. 
Thơ phụ thuộc vào ngôn ngữ nhiều nhất. Điều này tạo nên những nhà thơ đậm đặc tính dân tộc nhưng khó được tiếp cận bởi thế giới bên ngoài. Nguyễn Du là nhà thơ ngôn ngữ, và việc đọc Nguyễn Du trong tiếng Anh hay Pháp, bất chấp những nỗ lực đáng khâm phục của nhiều thế hệ người dịch, là một tra tấn. Bùi Giáng là một thiên tài ngôn ngữ khác, và sẽ là chuyện bất khả để dịch những câu thơ như: “Em đi cây cỏ dậy thì/ Ngày xuân vô lượng cùng đi lên đường/ Trùng lại giây phút phố phường/ Niềm vui quá khứ phi thường hồi sinh.” Thanh Tâm Tuyền, với ngôn ngữ đẹp một vẻ đẹp sáng lạnh như kim loại của ông, về căn bản là nhà thơ hình ảnh. Và hình ảnh có thể được di chuyển từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ kia dễ dàng hơn các biện pháp tu từ. Những hình ảnh vừa hiện thực vừa siêu thực trong thơ Thanh Tâm Tuyền khi chuyển sang ngôn ngữ khác sẽ không bị nhòa nét hay mất màu, vẫn nguyên vẻ lung linh: “Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường/ tôi xin một chỗ quỳ thầm kín/ cho đứa nhỏ linh hồn/ sợ chó dữ/ con chó đói không màu.”  Tomas Transtromer là một nhà thơ hình ảnh. Octavio Paz cũng là một nhà thơ hình ảnh. Trừ khi quý vị viết bằng một ngôn ngữ có tính quốc tế như tiếng Anh, việc làm kiểu thơ ngôn ngữ sẽ gây khó khăn cho dịch thuật. Mặc dù người ta làm thơ trước hết để dân tộc mình đọc, đây là một chi tiết kỹ thuật nên được lưu ý đối với những nhà thơ Việt có tham vọng đưa tác phẩm của mình ra khỏi biên giới quốc gia. 
Bất chấp những la lối về cái chết của thơ phát ra từ miệng những kẻ luôn ác cảm với thơ hay chính những nhà thơ ủy mị, thơ vẫn đang sống. Bất chấp sự lan tràn của các phương tiện truyền thông xã hội khiến cái đám đông trong quá khứ vốn e dè trước thơ bỗng trở nên véo von, thơ vẫn không phải là trò hát karaoke, và nhất định phải khá hơn karaoke. Bất chấp những trò tung khói mù, đánh lận con đen, vẫn có những thứ không phải thơ, và vẫn có những bài thơ hay bên cạnh rất nhiều thơ dở. Việc trao giải Nobel cho một nhà thơ hay như Tomas Transtromer là khích lệ có ý nghĩa cho tất cả những nhà thơ trung thực trên trái đất. Và quan trọng hơn, nó nhắc nhở rằng thơ có khả năng trở nên lớn lao, nhà thơ không nên phí thời gian vào những trò ruồi.
7 tháng Mười, 2011
Note: Lại có giải "Mít Vàng" cho thơ nữa ư? 
Golden Mit?
NQT

Tim Parks
So the Swedish poet Tomas Tranströmer wins the Nobel prize for literature. Aside from a couple of long poems available on the net, I haven’t read Tranströmer, yet I feel sure this is a healthy decision in every way. Above all for the Nobel jury. Let me explain.
Nobel văn chương có gì cà chớn, hình như thế. Có thể có tụi Mafia Do Thái thật! Đúng là tụi nó chứ ai vào đây nữa.
Vậy là nhà thơ Thụy Điển thắng giải Nobel văn chương. Tớ chưa đọc ông ta, kiếm trên net thì lơ thơ tơ liễu vài cụm thơ của ông, tuy nhiên tớ cảm thấy đây là 1 quyết định khoẻ khoắn như mọi năm. Nhất là cho Ban Giám Khảo. Để tớ giải thích…


Trang thơ Tomas Transtromer
Tim Parks
So the Swedish poet Tomas Tranströmer wins the Nobel prize for literature. Aside from a couple of long poems available on the net, I haven’t read Tranströmer, yet I feel sure this is a healthy decision in every way. Above all for the Nobel jury. Let me explain.
Nobel văn chương có gì cà chớn, hình như thế. Có thể có tụi Mafia Do Thái thật! Đúng là tụi nó chứ ai vào đây nữa.
Vậy là nhà thơ Thụy Điển thắng giải Nobel văn chương. Tớ chưa đọc ông ta, kiếm trên net thì lơ thơ tơ liễu vài cụm thơ của ông, tuy nhiên tớ cảm thấy đây là 1 quyết định khoẻ khoắn như mọi năm. Nhất là cho Ban Giám Khảo. Để tớ giải thích…
Helen Vendler
Poems New and Collected, 1957-1997
by Wislawa Szymborska, translated by Stanislaw Baranczak, by Clare Cavanagh
Harcourt Brace, 273 pp., $27.00                                                  
New Collected Poems
by Tomas Tranströmer, translated by Robin Fulton
Bloodaxe Books Ltd./Dufour Editions, 219 pp., $21.95 (paper)
Helen Vendler, NYRB, đọc hai nhà thơ Nobel
Two admirable postwar poets, Wislawa Szymborska (born in 1923 in Poland) and Tomas Tranströmer (born in 1931 in Sweden), troubled by what they saw as the moral insufficiencies of both formal religion and Marxist optimism, have sought spiritual understanding outside organized institutions. Of course, few reflective persons who lived through the same period were exempt from such thoughts. But lyric poets, who may be as aware as any novelist of what is happening in society, must condense social questions into personal ones and must transform written language by giving it rhythmic breath and musical cadence. Both Szymborska and Tranströmer are poets of striking brevity: Szymborska questions the conventional movements of thought in our mental and social life, while Tranströmer meditates on the powerful unseen, unconscious forces that underlie our moments of waking awareness. Szymborska was awarded the Nobel Prize in 1996; Tranströmer is frequently, and justly, mentioned as a poet deserving the same prize.
                     
Dịch TT
TT là nhà thơ phức tạp, để mà dịch. Cái sự nén ép thanh tú, và hình ảnh sống động như xinê, tức thì gây quyến rũ, bén bắt, nhưng do thưa thớt, kiệm từ khiến thơ TT như không màu, như mỉa mai, dè bỉu.
Nhịp thơ trong nguyên tác thì mềm mại, dễ uốn, thành thử thật khó lập lại trong bản dịch, và cũng thế, tính nhạc bùng nổ của ngôn ngữ Thụy Ðiển, thí dụ từ “domkyrkoklocklang”, sẽ mất tính cộng hưởng rổn rảng như rót vào tai, một khi trở thành một cụm từ, một “chùm chuông nhà thờ"
Cái phong cảnh thơ ông, trống rỗng, nơi cư ngụ của thần tiên hay ma quỉ thì thật thoải mái thân quen với những nhà thơ phía Bắc, nhưng khi chi ly, phân tích siêu hình phong cảnh này rồi nhét nó vô phong cảnh của chỉ một Thụy Ðiển, thì quả là 1 thách đố.
Trong lời giới thiệu “Imitations” [Bắt chuớc], một tập thơ dịch, thơ Âu Châu, Robert Lowell viết, trích Pasternak, “Người dịch đáng tin cậy thường có được cái nghĩa đen nhưng mất mẹ cái giọng… và trong thơ, giọng, lẽ tất nhiên, thì là tất cả.” Trong mấy bài thơ dịch thơ TT của tôi, tôi cố làm sao để mình ở giữa hai thái cực trên đây, cố giữ vóc dáng của bài thơ, mở toang nghĩa của nó, và cố - như Lowell thật đúng khi phán, phải cố - giữ cho được cái giọng của nó

Cái vấn nạn “dịch thơ thì nó sẽ thành cái quái gì”, TLS mới đi 1 bài thật thú vị. Link ở đây. Lèm bèm sau.
Transtromer squabbles

Trang thơ Tomas Transtromer
TOMAS TRANSTROMER 
Here, the Greece of islands and ports gives occasion to Swedish poet Tomas Transtromer for a descriptive poem which changes into a moral parable.
SYROS 
In Syros' harbor abandoned merchant ships lay idle.
Stem by stem by stem. Moored for many years:
CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.
Dark paintings on the water, they have been hung aside.
Like playthings from our childhood, grown gigantic,
that remind us
of what we never became. 
XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
The ocean scans them no more. 
But when we first came to Syros, it was at night,
we saw stem by stem by stem in moonlight and thought:
what a powerful fleet, what splendid connections! 
Translated from the Swedish by May Swenson and Leif Sjoberg
Ở đây, Hy Lạp của những hòn đảo và bến cảng là dịp để nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Transtromer
đi một đường miêu tả, và bài thơ miêu tả, tới lượt nó, đi một đường ẩn dụ đạo đức.
SYROS
Cảng Syros hoang phế
Những tầu hàng nằm ì
Từ đầu tầu tới cuối tầu tới cuối tầu.
Bỏ neo hàng bao nhiêu năm.
CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.
Những bức họa u tối trên mặt nước, chúng được treo một bên.
Như những đồ chơi thời con nít, trở thành khổng lồ
Nhắc nhở chúng ta
Về điều chúng ta chẳng bao giờ trở thành.
XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
Biển chỉ chiếu rọi có thế.
Nhưng khi chúng tôi tới Syros lần đầu thì là vào ban đêm.
Dưới ánh trăng chúng tôi nhìn từ đầu tầu tới đuôi tầu và nghĩ:
Hạm đội mới dũng mãnh làm sao!
Những móc nối mới tuyệt vời làm sao!
Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê tay này lắm. Phê bình gia, điểm sách gia số 1!
Cái chi tiết thần kỳ mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy”], làm GCC nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:
Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.
Nobel prize for literature
Oct 6th 2011, 18:43
AMID the flurry of last-minute bets for Bob Dylan (once rated by bookies at 100/1), a relatively unknown Swedish poet, Tomas Tranströmer, has won the Nobel prize for literature. “He is a poet but has never really been a full-time writer,” explained Peter Englund, the permanent secretary of the Swedish Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer has not written much lately, since suffering from a stroke in 1990 that left him partly paralysed, he is beloved in Sweden, where his name has been mentioned for the Nobel for years. One newspaper photographer has been standing outside his door on the day of the announcement for the last decade, anticipating this moment.
Born in 1931, Mr Tranströmer began publishing poems when he was in his early 20s. He has been translated into 60 different languages since then. But his output is notably sparse—you “could fit it into a not too-large pocket-book, all of it,” Mr Englund says. Mr Tranströmer wrote poetry while working full-time, first as a psychologist and then at the Labour Market Institute in Västerås. Any fame he has enjoyed has been of the quiet, understated sort. In announcing Mr Tranströmer’s victory, the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy” and that grants “fresh access to reality”. He is the first poet to win the award since Wislawa Szymborska in 1996.
Mr Englund has had to defend giving the literature award once more to a European (seven of the last ten have gone to the continent), and also to a Swede. In doing so, Mr Englund has perhaps had to deflect attention from the more pressing question of why Mr Tranströmer won in the first place. Perhaps that is a question that only Mr Tranströmer can answer, in work that will finally be more widely read. 
The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man

Thơ ông là những thám dò vào thế giới nội tại và những tương quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy Điển.
Nguyên tác tiếng Anh:
Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.
GCC dịch:
Những thám hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại, và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.  
Mấy từ quan trọng, TQ đều bỏ, chán thế.
Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi, là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của ông này rồi.
Chứng cớ:
The landscape of Tranströmer's poetry has remained constant during his 50-year career: the jagged coastland of his native Sweden, with its dark spruce and pine forests, sudden light and sudden storm, restless seas and endless winters, is mirrored by his direct, plain-speaking style and arresting, unforgettable images. Sometimes referred to as a "buzzard poet", Tranströmer seems to hang over this landscape with a gimlet eye that sees the world with an almost mystical precision. A view that first appeared open and featureless now holds an anxiety of detail; the voice that first sounded spare and simple now seems subtle, shrewd and thrillingly intimate.
[Phong cảnh thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong thẳng tuột và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.]
Chỉ đến khi ngộ ra cõi thơ, thì Gấu mới hiểu ra là, 1 Nobel văn chương về tay 1 nhà thơ là 1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời một người…  mê thơ.
Người ta thường nói, thời của anh mà không đọc Dos, đọc Kafka… thí dụ, là vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất hạnh!
Hà, hà!
Thành thử, Gấu rất bực vị sư phụ tiếng Anh của Gấu, khi bà khăng khăng không chịu dịch thơ, không thích đọc thơ dịch, không… thơ, tuy bà là 1 nữ thi sĩ rất ư là khiêm nhường với những bài thơ khiêm nhường của bà.
Nhớ, lần đọc Phu nhân ở Somerset, Gấu nghĩ ngay đến sư phụ, bà này đúng là 1 vị bà con với sư phụ của Gấu!
Hà, hà!
Câu chuyện sau đây, thật thi vị, thật tuyệt vời, và lẽ tất nhiên, vì thật thi vị, thật tuyệt vời cho nên, thật.. sến, và vào những ngày đầu năm, thật quá đắc địa để mà kể ra, bởi vì nó đẹp như là những lời chúc mừng ngày đầu năm vậy.
Mario Vargas Llosa dùng câu chuyện này để mở ra tập Ngôn ngữ của đam mê, The language of passion, chắc cũng là vì thế.
Thơ, ngôn ngữ của đam mê?
The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man:
Giải văn chương năm nay có nghĩa là thế giới thi ca sau cùng có thể nâng ly để chào mừng người thi sĩ bình dị, khiêm tốn này.
Tuyệt.
Nhất là từ “sau cùng”.
"No poet expresses better the relationship between humans and the natural world. The black and melancholy seas, the drifting seagulls, the oaks and elks, the storms, rowanberries, the moon and stars, the well, salt, and wolves are agents rather than background; they are what the world is, as much as we are. It's dark, and thoughtful. It is, also, bleakly intelligent."

Teju Cole, also writing on the New Yorker blog, calls Tranströmer one of his "ports of refuge" in a beautiful, affectionate hymn of praise to a poet who he reads "when I wish to come as close as possible to what cannot be said". I love the line he quotes from Tranströmer describing New York, as "a high place where with one glance you take in the houses where eight million human beings live".
Source


 (AP)  STOCKHOLM — The 2011 Nobel Prize in literature was awarded on Thursday to Tomas Transtromer of Sweden, whose surrealistic works about the mysteries of the human mind won him wide recognition as the most influential Scandinavian poet of recent decades.
Nhà thơ Thụy Ðiển, Tomas Transtromer ,“nhà thơ nhà”, “ta về ta tắm ao nhà vẫn hơn”, đã được Nobel văn chương năm nay, 2011: Những tác phẩm siêu thực của ông về những huyền bí của cái đầu của con người khiến ông được nhìn nhận rộng rãi như là nhà thơ Scandinavian ảnh hưởng nhất trong những thập kỷ gần đây.
*
Swedish poet Tomas Transtromer is pictured at his home in Stockholm, in this file photo taken March 31, 2001. Sweden's most famous living poet, Tomas Transtromer, won the Nobel prize for literature on Thursday, the first time in more than 30 years the award has gone to a native of the Nordic country. – Reuters Photo
A poem by the 2011 Nobel prize for literature winner
*
One evening in February I came near to dying here.
The car skidded sideways on the ice, out
on the wrong side of the road. The approaching cars –
their lights – closed in. 
My name, my girls, my job
broke free and were left silently behind
further and further away. I was anonymous
like a boy in a playground surrounded by enemies. 
The approaching traffic had huge lights.
They shone on me while I pulled at the wheel
in a transparent terror that floated like egg white.
The seconds grew – there was space in them –
they grew as big as hospital buildings.
You could almost pause
and breathe out for a while
before being crushed. 
Then something caught: a helping grain of sand
or a wonderful gust of wind. The car broke free
and scuttled smartly right over the road.
A post shot up and cracked – a sharp clang – it
flew away in the darkness.

Then – stillness. I sat back in my seat-belt
and saw someone coming through the whirling snow
to see what had become of me. 
    II 
I have been walking for a long time
on the frozen Östergötland fields.
I have not seen a single person. 
In other parts of the world
there are people who are born, live and die
in a perpetual crowd.
To be always visible – to live
in a swarm of eyes –
a special expression must develop.
Face coated with clay.
The murmuring rises and falls
while they divide up among themselves
the sky, the shadows, the sand grains. 
I must be alone
ten minutes in the morning
and ten minutes in the evening.
– Without a programme.

Everyone is queuing at everyone's door. 
Many. 
One.

Note: Cái sự kiện, trang TV giới thiệu thơ [mũi lõ] ào ào, quả là đi đúng cái nhịp đập thơ ca của trái tim nhân loại!
Thần sầu!
Tuyệt cú mèo!
Thôi, đừng... "Tạ lỗi Trường Sơn" nữa nhé!  
Hà, hà!
The Nobel Prize in Literature 2011 was awarded to Tomas Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org
Nobel văn chương 2011 được trao cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì, qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập vô thực tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.

Sau cùng Nobel đã đến với Tomas Tranströmer
Chuyển ngữ: Thường Quán
Theo Richard Lea & Alison Flood (The Guardian), bản dịch của Thường Quán.
Note:
1. “Sau cùng”, tại sao? Trong "nguyên tác" đâu có từ này?
2. Ðã “chuyển ngữ”, thì bỏ “theo’, bỏ “bản dịch”, dùng 1 chữ thôi chứ?
NQT
Sau đây là nguyên tác, được TQ "chuyển ngữ, theo, bản dịch của...".
Không thấy chữ "sau cùng"!
Câu mở ra bài viết, là để phản biện đám "Mafia Do Thái", chuyên xía mũi vào giải thưởng Nobel, nhà thơ TQ bèn thiến mẹ nó mất!
The Swedish Academy has responded to accusations of insularity over recent years by awarding the 2011 Nobel prize for literature to one of their own: the Swedish poet Tomas Tranströmer.
Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển đã phản biện những lời buộc tội về “tính hòn đảo” [đây là muốn nhắc lại cái vụ vị thư ký Nobel chê văn chương Mẽo chỉ có tính cục bộ, chỉ dành cho đám di dân], của những giải thưởng mấy năm gần đây, bằng cách cho béng cái giải này, năm này, cho một vị của chính họ, thuộc hòn đảo của chính họ, Scandinavia: nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Tranströmer.
Richard Lea and Alison Flood
The Swedish Academy has responded to accusations of insularity over recent years by awarding the 2011 Nobel prize for literature to one of their own: the Swedish poet Tomas Tranströmer.
Tranströmer becomes the eighth European to win the world's premier literary award in the last 10 years, following the German novelist Herta Muller in 2009, the French writer JMG le Clezio in 2008 and the British novelist Doris Lessing in 2007.
Sweden's most famous poet becomes the 104th literature laureate, joining former winners including Mario Vargas Llosa and Orhan Pamuk, and is the first poet to take the laurels since Wislawa Szymborska in 1996. Praised by the judges for "his condensed translucent images" which give us "fresh access to reality", Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.
Peter Englund, permanent secretary of the Swedish Academy, admitted the choice of a Swede could "perhaps" be seen as controversial internationally, but added that "one should also keep in mind that is soon 40 years since this happened": the last Swede to win the literature Nobel was in 1974, when the Swedish authors Eyvind Johnson and Harry Martinson took the prize jointly. "It's not that we spread them around on Swedes each and every year," said Englund. "We have been quite thoughtful about this - we have not been rash in choosing a Swede."
And Tranströmer is also well known internationally, translated into over 50 languages and "one of the world's now living poet that has been translated the most," said Englund, recommending two collections which have been translated into English, The Half-Finished Heaven and New Collected Poems. "Both of them are pure gold. They are very good, and I understand that he translates very well," said Englund.
The Scottish poet Robin Fulton, who translated New Collected Poems and has worked on Tranströmer's writing for years, said that "in some sense the win was expected - it's looking back on a life's work".
"He's terribly famous already - just about as famous as a poet could be," he said. "Some writers become famous after they get the Nobel - he was famous before."
The poet Robin Robertson, who wrote versions of the Swedish writer's poems for the collection The Deleted World, said that "readers of Tomas Tranströmer had almost given up any hope that this extraordinary poet might ever be recognised by his own country and receive the Nobel Prize". Robertson called the decision "a happy end to a long wait: joy with a wash of relief. Tranströmer is not only Scandinavia's most important poet, he is a writer of world stature – and that has finally been publicly acknowledged."
Fulton agreed with the Nobel committee's praise of Tranströmer's "condensed, translucent images". "These do jump through over linguistic boundaries," he said, adding that some poets "use their own language so densely they won't translate at all. Tranströmer is not one of these. In many ways the language he uses is relatively unadventurous and simple [but] he gives people unusual images [which are] sometimes very surprising, and give the reader a shock. That should be what poets do."
"I lean like a ladder and with my face / reach into the second floor of the cherry tree. / I'm inside the bell of colours, it chimes with sunlight. / I polish off the swarthy red berries faster than four magpies," Tranströmer writes in "Winter's Gaze". "A sudden chill, from a great distance, meets me. / The moment blackens / and remains like an axe-cut in a tree-trunk."
Although Englund said that Tranströmer 's production has been "sparse" - "you could fit it into a not too large pocket book, all of it" - the permanent secretary praised the poet's "exquisite" language. "He is writing about the big questions -about death, history, memory, nature," he said. "Human beings are sort of the prism where all these great entities meet and it makes us important. You can never feel small after reading the poetry of Tomas Tranströmer."
Born in Stockholm in 1931, Tranströmer studied at the University of Stockholm and worked as a psychologist at an institution for young offenders. His first collection of poetry, 17 Dikter (17 Poems), was published in 1954, while he was still at college. Collections including Hemligheter på vägen (1958) and Klangar och spår (1966) reflected on his travels in the Balkans, Spain and Africa, while the poems in Östersjöar (1974) examine the troubled history of the Baltic region through the conflict between sea and land.
He suffered a stroke in 1990 which affected his ability to talk, but has continued to write, with his collection Sorgegondolen going on to sell 30,000 copies on its publication in 1996. At a recent appearance in London, his words were read by others, while the poet, who is a keen amateur musician, contributed by playing pieces specially composed for him to play on the piano with only his left hand. "He is very gifted," said Fulton. "He has hardly any words, though. His wife communicates for him."
Tranströmer has described his poems as "meeting places," where dark and light, interior and exterior collide to give a sudden connection with the world, history or ourselves. According to the poet "The language marches in step with the executioners. Therefore we must get a new language."
"He is very subtle, very musical and multi-layered," said Neil Astley at Bloodaxe Books, which published New Collected Poems this year. Tranströmer is a "very immediate" poet, added the publisher. "He is metaphysical and visionary but very particular, and very personal," he said. "He worked as a psychologist for most of his life, and all that psychological insight is there in the poems. He writes about the border between sleeping and waking, between the conscious and the unconscious."

Tại hạ tò mò lục lọi trên Google, xem thử ông già 80 tuổi Tomas Tranströmer vừa được vinh danh bằng giải Nobel văn học 2011 là ai. Cũng có khá nhiều thông tin về thân thế và sự nghiệp của ông, nhưng không may tại hạ chẳng tìm được tác phẩm nào – chắc do vấn đề bản quyền nên không ai chịu post lên tác phẩm của ông chăng – trừ đọc được khổ thơ sau đây:….
The airy sky has taken its place leaning against the wall.
It is like a prayer to what is empty.
And what is empty turns its face to us
and whispers:
“I am not empty, I am open.”
….
Chắc là ông không viết bằng tiếng Anh và khổ thơ trên đã được dịch lại từ tiếng Thụy Điển. Dù vậy khổ thơ cũng rất hay. Thấy “khoái” nên tại hạ bèn dịch lại lần nữa ra tiếng Việt để thưởng thức chơi:
...
Bầu trời thoáng đãng chiếm lĩnh chỗ của bức tường cố chấp.
Như kẻ cầu nguyện chiếm lấy hư không
Và cái hư không quay mặt về phía ta
Thì thầm:
“Ta chẳng phải hư không, ta rộng mở.”
...
Ngộ thiệt, ông già Thụy Điển này viết thơ rất đậm mùi thiền phải không…!?
Lạy trời người đã dịch ra bản tiếng Anh đã không đi xa quá ý thơ gốc của ông, và tại hạ cũng không làm gì hư hại ý thơ đó! 
Note: Theo tôi, NQT, bạn hiểu sai ý đoạn thơ.
Ðúng ra, phải như vầy, vẫn theo tôi:
Bầu trời thoáng đãng lấy cái chỗ của nó dựa lên bức tường.
Như 1 người cầu nguyện trước cái trống không.
Và nếu như thế thì cái trống không đối mặt với người cầu nguyện
Và thì thầm:
Ta đâu phải trống không, mà là ta mở ra.
Từ ý trên, có thể liên tưởng tới câu 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa nhà’, qua trích đoạn dưới đây, từ bài viết Một chuyến đi:

Nguyễn Tuân, trong một truyện ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm: trong cái chưa chín có cái chưa tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh chùa dở dang: cứ để dành một khoảng trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự khác biệt rất cơ bản giữa Đông và Tây. Charles Moore, trong lời giới thiệu tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối của nhà văn Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh mãnh liệt nhất (the most powerful ally) của chúng ta (Tây phương) là ánh sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc: 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những đòi hỏi cơ bản, đòi hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu ăn xổi ở thì với nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng) đối với chúng ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải giúp đồng minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe chuyện ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận ra rằng, nhạc sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để nắm bắt sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng không.
Trân trọng
NQT
*
Thơ ông là những thám dò vào thế giới nội tại và những tương quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy Điển.
TQ dịch
Nguyên tác:
Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.
Những thám hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại, và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.  
Mấy từ quan trọng, TQ đều bỏ, chán thế.



*

*

Note: Ông này là 1 trong những dịch giả thơ TT, và là tác giả bài viết Translating Tomas Tranströmer, Dịch TT
Gấu tính dịch bài thơ trên, và giữ nguyên cái form của nó trên tờ báo, thay vì scan.
Bởi vì cái tít của bài thơ làm nhớ đến 1 bài thơ của Gấu.
Bài thơ của Gấu cũng có hải âu, cũng có tiếng thì thầm của hải âu, của Gấu, và của biển
TOMAS TRANSTROMER 
Here, the Greece of islands and ports gives occasion to Swedish poet Tomas Transtromer for a descriptive poem which changes into a moral parable.
SYROS 
In Syros' harbor abandoned merchant ships lay idle.
Stem by stem by stem. Moored for many years:
CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.
Dark paintings on the water, they have been hung aside.
Like playthings from our childhood, grown gigantic,
that remind us
of what we never became. 
XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
The ocean scans them no more. 
But when we first came to Syros, it was at night,
we saw stem by stem by stem in moonlight and thought:
what a powerful fleet, what splendid connections! 
Translated from the Swedish by May Swenson and Leif Sjoberg
Ở đây, Hy Lạp của những hòn đảo và bến cảng là dịp để nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Transtromer
đi một đường miêu tả, và bài thơ miêu tả, tới lượt nó, đi một đường ẩn dụ đạo đức.
SYROS
Cảng Syros hoang phế
Những tầu hàng nằm ì
Từ đầu tầu tới cuối tầu tới cuối tầu.
Bỏ neo hàng bao nhiêu năm.
CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.
Những bức họa u tối trên mặt nước, chúng được treo một bên.
Như những đồ chơi thời con nít, trở thành khổng lồ
Nhắc nhở chúng ta
Về điều chúng ta chẳng bao giờ trở thành.
XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
Biển chỉ chiếu rọi có thế.
Nhưng khi chúng tôi tới Syros lần đầu thì là vào ban đêm.
Dưới ánh trăng chúng tôi nhìn từ đầu tầu tới đuôi tầu và nghĩ:
Hạm đội mới dũng mãnh làm sao!
Những móc nối mới tuyệt vời làm sao!
Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê tay này lắm. Phê bình gia, điểm sách gia số 1!
Cái chi tiết thần kỳ mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy”], làm GCC nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:
Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.
Nobel prize for literature
Oct 6th 2011, 18:43
AMID the flurry of last-minute bets for Bob Dylan (once rated by bookies at 100/1), a relatively unknown Swedish poet, Tomas Tranströmer, has won the Nobel prize for literature. “He is a poet but has never really been a full-time writer,” explained Peter Englund, the permanent secretary of the Swedish Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer has not written much lately, since suffering from a stroke in 1990 that left him partly paralysed, he is beloved in Sweden, where his name has been mentioned for the Nobel for years. One newspaper photographer has been standing outside his door on the day of the announcement for the last decade, anticipating this moment.
Born in 1931, Mr Tranströmer began publishing poems when he was in his early 20s. He has been translated into 60 different languages since then. But his output is notably sparse—you “could fit it into a not too-large pocket-book, all of it,” Mr Englund says. Mr Tranströmer wrote poetry while working full-time, first as a psychologist and then at the Labour Market Institute in Västerås. Any fame he has enjoyed has been of the quiet, understated sort. In announcing Mr Tranströmer’s victory, the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy” and that grants “fresh access to reality”. He is the first poet to win the award since Wislawa Szymborska in 1996.
Mr Englund has had to defend giving the literature award once more to a European (seven of the last ten have gone to the continent), and also to a Swede. In doing so, Mr Englund has perhaps had to deflect attention from the more pressing question of why Mr Tranströmer won in the first place. Perhaps that is a question that only Mr Tranströmer can answer, in work that will finally be more widely read. 
The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man

Thơ ông là những thám dò vào thế giới nội tại và những tương quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy Điển.
Nguyên tác tiếng Anh:
Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.
GCC dịch:
Những thám hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại, và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.  
Mấy từ quan trọng, TQ đều bỏ, chán thế.
Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi, là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của ông này rồi.
Chứng cớ:
The landscape of Tranströmer's poetry has remained constant during his 50-year career: the jagged coastland of his native Sweden, with its dark spruce and pine forests, sudden light and sudden storm, restless seas and endless winters, is mirrored by his direct, plain-speaking style and arresting, unforgettable images. Sometimes referred to as a "buzzard poet", Tranströmer seems to hang over this landscape with a gimlet eye that sees the world with an almost mystical precision. A view that first appeared open and featureless now holds an anxiety of detail; the voice that first sounded spare and simple now seems subtle, shrewd and thrillingly intimate.
[Phong cảnh thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong thẳng tuột và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.]
Chỉ đến khi ngộ ra cõi thơ, thì Gấu mới hiểu ra là, 1 Nobel văn chương về tay 1 nhà thơ là 1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời một người…  mê thơ.
Người ta thường nói, thời của anh mà không đọc Dos, đọc Kafka… thí dụ, là vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất hạnh!
Hà, hà!
Thành thử, Gấu rất bực vị sư phụ tiếng Anh của Gấu, khi bà khăng khăng không chịu dịch thơ, không thích đọc thơ dịch, không… thơ, tuy bà là 1 nữ thi sĩ rất ư là khiêm nhường với những bài thơ khiêm nhường của bà.
Nhớ, lần đọc Phu nhân ở Somerset, Gấu nghĩ ngay đến sư phụ, bà này đúng là 1 vị bà con với sư phụ của Gấu!
Hà, hà!
Câu chuyện sau đây, thật thi vị, thật tuyệt vời, và lẽ tất nhiên, vì thật thi vị, thật tuyệt vời cho nên, thật.. sến, và vào những ngày đầu năm, thật quá đắc địa để mà kể ra, bởi vì nó đẹp như là những lời chúc mừng ngày đầu năm vậy.
Mario Vargas Llosa dùng câu chuyện này để mở ra tập Ngôn ngữ của đam mê, The language of passion, chắc cũng là vì thế.
Thơ, ngôn ngữ của đam mê?
The literature prize means the world of poetry can finally raise a glass to salute this humble man:
Giải văn chương năm nay có nghĩa là thế giới thi ca sau cùng có thể nâng ly để chào mừng người thi sĩ bình dị, khiêm tốn này.
Tuyệt.
Nhất là từ “sau cùng”.
"No poet expresses better the relationship between humans and the natural world. The black and melancholy seas, the drifting seagulls, the oaks and elks, the storms, rowanberries, the moon and stars, the well, salt, and wolves are agents rather than background; they are what the world is, as much as we are. It's dark, and thoughtful. It is, also, bleakly intelligent."

Teju Cole, also writing on the New Yorker blog, calls Tranströmer one of his "ports of refuge" in a beautiful, affectionate hymn of praise to a poet who he reads "when I wish to come as close as possible to what cannot be said". I love the line he quotes from Tranströmer describing New York, as "a high place where with one glance you take in the houses where eight million human beings live".
Source


TOMAS TRANSTROMER 
Here, the Greece of islands and ports gives occasion to Swedish poet Tomas Transtromer
for a descriptive poem which changes into a moral parable.

SYROS 
In Syros' harbor abandoned merchant ships lay idle.
Stem by stem by stem. Moored for many years:
CAPE RION, Monrovia.
KRITOS, Andros.
SCOTIA, Panama.
Dark paintings on the water, they have been hung aside.
Like playthings from our childhood, grown gigantic,
that remind us
of what we never became. 
XELATROS, Piraeus.
CASSIOPEIA, Monrovia.
The ocean scans them no more. 
But when we first came to Syros, it was at night,
we saw stem by stem by stem in moonlight and thought:
what a powerful fleet, what splendid connections! 
Translated from the Swedish by May Swenson and Leif
Sjoberg

TOMAS TRANSTROMER 
A transformation of the landscape, and awareness of the alienation of man
in new surroundings,
transpire in this poem by Transtromer.
OUTSKIRTS
Men in overalls the same color as earth rise from a ditch.
It's a transitional place, in stalemate, neither country nor city.
Construction cranes on the horizon want to take the big leap, but
       the clocks are against it.
Concrete piping scattered around laps at the light with cold
      tongues.
Auto-body shops occupy old barns.
Stones throw shadows as sharp as objects on the moon surface.
And these sites keep on getting bigger
like the land bought with Judas' silver: "a potter's field for burying
      strangers." 
Translated from the Swedish by Robert Bly 
TOMAS TRANSTROMER 1931- 
This poem by Transtromer is the most literally spoken in the now, and it's so impressive that we forget to ask when-how long ago-the observer lived through it. It's like a snapshot, though enriched by things known from the past, in a dream or during illness.

TRACKS
Night, two o'clock: moonlight. The train has stopped
in the middle of the plain. Distant bright points of a town
twinkle cold on the horizon. 
As when someone has gone into a dream so far
that he'll never remember he was there
when he comes back to his room.
And as when someone goes into a sickness so deep
that all his former days become twinkling points, a swarm,
cold and feeble on the horizon. 
The train stands perfectly still.
Two o'clock: full moonlight, few stars. 
Translated from tire Swedish by Robert Bly

Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things

A poem by the 2011 Nobel prize for literature winner
One evening in February I came near to dying here.
The car skidded sideways on the ice, out
on the wrong side of the road. The approaching cars –
their lights – closed in.
My name, my girls, my job
broke free and were left silently behind
further and further away. I was anonymous
like a boy in a playground surrounded by enemies.
The approaching traffic had huge lights
They shone on me while I pulled at the wheel
in a transparent terror that floated like egg white.
The seconds grew – there was space in them –
they grew as big as hospital buildings.
You could almost pause
and breathe out for a while
before being crushed.
Then something caught: a helping grain of sand
or a wonderful gust of wind. The car broke free
and scuttled smartly right over the road.
A post shot up and cracked – a sharp clang – it
flew away in the darkness. 
Then – stillness. I sat back in my seat-belt
and saw someone coming through the whirling snow
to see what had become of me.
    II
I have been walking for a long time
on the frozen Östergötland fields.
I have not seen a single person.
In other parts of the world
there are people who are born, live and die
in a perpetual crowd.
To be always visible – to live
in a swarm of eyes –
a special expression must develop.
Face coated with clay.
The murmuring rises and falls
while they divide up among themselves
the sky, the shadows, the sand grains.
I must be alone
ten minutes in the morning
and ten minutes in the evening.
– Without a programme.
Everyone is queuing at everyone's door.
Many.
One.






Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư