Dương Tường Kẻ Chữ
Dương Tường Kẻ Chữ
Đặng
Tiến
Ngày 16.1.2009, đại sứ quán Pháp ở Hà Nội sẽ tổ chức một buổi lễ trao tặng huân chương Nghệ Thuật và Văn Học, Officier des Arts et Lettres cho nhà thơ, dịch giả Dương Tường. Nhân dịp này, nhà văn Đặng Tiến đã gửi cho Diễn Đàn bài phác hoạ chân dung ông.
Gấu cũng có vài kỷ
niệm về Dương Tường, và qua đó cho thấy, Đặng Tiến hình như bỏ qua một nghề
của chàng:
Nghề hướng dẫn du lịch.
Lần về Hà Nội, Gấu gặp ông, trong một cuộc biểu diễn hát quan họ cho một đoàn khách dụ lịch, ông làm hướng dẫn viên, và Gấu tới quán đó, hoàn toàn do tình cờ. Tay PNT - Pham Ngoc Tien - gật gù, vậy là anh may lắm, được coi biểu diễn hát quan họ, hay hát chèo, free. Gấu mang theo cái camera, bèn đi một đường bấm máy, bấm tới ông, thừa thắng xông lên xin phỏng vấn, ông nói, lúc nào mà chẳng được, sao lại lúc này?
Quả có thế.
Lần sau gặp tại nhà ông. DMT đưa tới. Tiếp đãi lịch sự. Chạy lên lầu, lấy một cuốn sách dịch, trong có bài của NTV, dịch Paz, nhờ về đưa tặng giùm.
NTV nhận sách, nói, lần trước, tôi có anh bạn, về Hà Nội, nhờ anh ta ghé hỏi thăm DT, ông ta không đưa sách. Vậy mà đưa cho anh cầm giùm.
Trong đoàn khách du lịch có một em đầm xinh lắm, Gấu có xin chụp hình em, để bữa nào trình độc giả.
Lần về Hà Nội, Gấu gặp ông, trong một cuộc biểu diễn hát quan họ cho một đoàn khách dụ lịch, ông làm hướng dẫn viên, và Gấu tới quán đó, hoàn toàn do tình cờ. Tay PNT - Pham Ngoc Tien - gật gù, vậy là anh may lắm, được coi biểu diễn hát quan họ, hay hát chèo, free. Gấu mang theo cái camera, bèn đi một đường bấm máy, bấm tới ông, thừa thắng xông lên xin phỏng vấn, ông nói, lúc nào mà chẳng được, sao lại lúc này?
Quả có thế.
Lần sau gặp tại nhà ông. DMT đưa tới. Tiếp đãi lịch sự. Chạy lên lầu, lấy một cuốn sách dịch, trong có bài của NTV, dịch Paz, nhờ về đưa tặng giùm.
NTV nhận sách, nói, lần trước, tôi có anh bạn, về Hà Nội, nhờ anh ta ghé hỏi thăm DT, ông ta không đưa sách. Vậy mà đưa cho anh cầm giùm.
Trong đoàn khách du lịch có một em đầm xinh lắm, Gấu có xin chụp hình em, để bữa nào trình độc giả.
Nhà
thơ Dương Tường vừa được
Cộng hòa Pháp tưởng thưởng
huân chương Nghệ Thuật và Văn
Học, Officier des Arts et Lettres, có lẽ trong
tư cách dịch giả, vì anh đã
chuyển ngữ rất nhiều tác phẩm
Phương Tây sang tiếng Việt, bắc
nhịp cầu giao kết hai bờ văn hóa
Việt Nam và Âu Tây – trong đó
có nước Pháp là thân thiết
nhất. Dương Tường có nhiều
dịp viếng thăm Pháp, thích dạo
chơi Paris, và thường nhầm đường
vì tưởng mình đang đi giữa
Hà Nội ; ở Hà Nội thì khi
cao hứng lại thích hát bài Tây.
Gọi
anh là dịch giả là đúng, vì
sinh hoạt chính của anh, thậm chí là
nghề. Gọi là thi sĩ càng đúng,
vì anh sống ở đời trong tâm thế
thi nhân. Tôi gọi anh là ngữ nhân,
hay kẻ chữ, người sống với
ngôn ngữ, thao tác trên ngôn ngữ,
lấy ngôn ngữ làm lương thực
trần gian. « Ngữ nhân »
rộng nghĩa, và trầm trọng hơn từ
« phu chữ » mà bạn
anh, Lê Đạt đã dùng.
Phu,
dù là đại phu, trượng phu hay phu
phen vẫn còn giới hạn nghiệp vụ
hay giai cấp.
Nhân
là người. Ngữ nhân là
người sống bằng ngôn ngữ, xem ngôn
ngữ là lẽ sống. Ngôn là lời
nói cá nhân, là parole, ngữ là
tiếng nói cộng đồng, là langue,
của nhiều dân tộc.
Người
dịch thuật sống lắc lư giữa lời
và tiếng : cuộc đời Dương
Tường là con tàu say lắc lư triền
miên trên đại dương ngôn ngữ
không bờ không bến.
*
Họ
tên họ đầy đủ là : Trần
Dương Tường. Ai gửi thư, nên
ghi tên họ đầy đủ thư mới
đến ; thận trọng hơn, đề
tên chị ấy, Nguyễn thị Trinh, thư
đến nhanh hơn.
Trần
Dương Tường, sinh ngày 4 tháng 8,
1932, tại Nam Định. Dòng dõi gia thế,
ông nội đỗ cử nhân, làm đốc
học. Thân sinh phá nghiệp, đi kinh
doanh, làm thầu khoán. Gia tư khá
giả, gia đình anh ngày nay thừa hưởng
ngôi nhà 3 b, ngõ Phan huy Chú, Hà
Nội, một thời làm nơi tụ họp
của bạn bè lãng tử. Về sau biến
thành phòng triển lãm tranh, Gallery Mai,
đứng tên con gái, nơi tụ họp
nghệ sĩ nhiều lớp tuổi khác nhau,
không nhất thiết bè phái. Nhưng
hợp tính thì vẫn vui
hơn.
Dương Tường học tiểu học tại
Nam Định. Lên Hà Nội vào trung
học vài năm thì gặp Cách mạng
tháng 8. Anh bỏ trường, đi làm
liên lạc cho Việt Minh, khu Vĩnh Yên.
Gia đình gọi về, đi học lại
vài tháng tại trường Phan chu Trinh,
rồi lại đi kháng chiến, làm
tuyên truyền. Gia nhập bộ đội
1949. Không biết chiến sĩ Dương
Tường đánh chác ra sao, nhưng
trong ba lô thường có hai từ điển
tiếng Pháp và tiếng Anh : anh tự
học ngoại ngữ từ đó và
bằng cách ấy.
Năm
1950, tại mặt trận Hối Đào, Nam
Định, chiến sĩ Dương Tường
thuộc trung đoàn 66, đọc « A
l’Ouest, rien de nouveau »
của E.M. Remarque, và khám phá ra rằng… phương Tây cũng có điều mới
lạ.
Xong chiến tranh, anh về công tác tại
Thông tấn Xã Việt Nam đến 1964.
Tham gia Ủy ban điều tra tội ác đế
quốc Mỹ tại Vịnh Bắc Bộ, rồi
chuyển sang dịch thuật.
Đời
sống khó khăn và dao động, nhất
là vào thời điểm vụ án
xét lại chống Đảng. Anh là người
kêu gọi tập hợp mua vòng hoa viếng
Dương Bạch Mai bị đột tử và
bị kết án câu kết với Liên
Xô. Dương Tường mang vòng
hoa đến ngay tang lễ. Chi tiết thôi,
nhưng Hà Nội thời ấy là sự
cố, và nói lên dũng khí và
tình nghĩa.
Bắt
đầu dịch từ 1960 : Cây Tường
vi, tập truyện Liên Xô.
1960 :
dịch Tchekov, cùng với Cao Nhị, Nhị
Ca, Lê Phát. La Mouette, Hải Âu (cháu
trai Hải Âu do tên vở kịch) ;
L’oncle Vania, Ông Cậu (nhắc lại :
Nguyễn Tuân viết bài về Tchekov nên
thành có « vấn đề »).
1963 :
Anna Karénine của Tolstoi cùng với
Nhị Ca, và được phép ký
tên dịch giả.
Sau đó
không được phép ký tên cho
đến 1972.
Tiếp
theo là Đất Dữ, Terres Violentes, của
Jeorges Amado, truyện Ehrenbourg, Simonov, từ tiếng
Pháp. Thư người đàn bà
không quen của Stefan Zweig, một số kịch
Shakespeare, truyện Đồi gió hú
của E. Bronte, Cội Rễ của Alex Haley,
1980 ; Cuốn theo chiều gió của
Margaret Mitchell, 1989.
Có
lúc anh quan tâm đến Patrick Modiano Đại
lộ ngoại vi, Les Boulevards de Ceinture, (giải Hàn Lâm Viện
Pháp) ; Phố
những cửa hiệu u tối, Rue des Boutiques
Obscures (giải Goncourt), rồi đến Claude Simon
(Nobel 1985) vừa khó vừa dài : Con
đường xứ Flandres, La route des Flandres ;
Günter Gras (Nobel 1999) : Cái trống thiếc,
Le Tambour. Cuốn l’Etranger của Albert Camus, anh
dịch Người Dưng đã gây
tranh cãi. Mặt trời nhà Scorta, Le
soleil des Scorta, của Laurent Gandé, 2005.
Nhiều
người nhận xét : Dương Tường
ham vui, thậm chí ham chơi. Thì giờ
đâu mà dịch nhiều thế ? Và
tuổi cao, thân xác gầy còm thì
sức khỏe đâu ra mà vừa dịch,
vừa viết phê bình, lý luận, đặc
biệt về Mỹ Thuật, tập hợp thành
sách dày cộm, Chỉ tại con Chích
Chòe, 2003. Và nhiều tập thơ :
36 Bài tình (chung với Lê Đạt),
1989 ; Đàn, 2003, một thể nghiệm
thơ bằng hội họa ; Thơ Dương
Tường (2005) gồm nhiều bài tân
kỳ, có bài bằng tiếng Anh, tiếng
Pháp, đáp ứng lại với tư
trào thi ca mới trên thế giới. Và
quan niệm mới về thơ, khác với
ngôn ngữ đời thường. Thơ không
còn là công cụ biểu đạt
khái niệm : thơ là câu chữ
tự lấy mình làm đối tượng,
chủ yếu về ngữ âm.
Trên
tạp chí Sông Hương tháng 6.1990,
Dương Tường trả lời phỏng
vấn : « vật liệu chính
của thơ tôi không phải con chữ mà
là con âm. Có lẽ điều phân
biệt giữa các bạn thơ khác và
tôi là ở chỗ họ làm việc
ngôn ngữ trên chiều ‘biểu nghĩa’
(signifié), còn tôi làm việc ngôn
ngữ trên chiều ‘năng nghĩa’
(signifiant). Những gì ở thơ
họ là ‘đã’ thì ở
tôi là ‘đang’. Nói cách
khác, ở thơ
các bạn đó là mặt chữ
nhìn ‘thẳng’ còn ở tôi là
mặt chữ nhìn ‘nghiêng’. Tôi
nghĩ sức gợi của thơ
mình nằm ở mặt chênh đó,
nó nảy lên một cái gì giống
như âm bồi
(son harmonique) trong âm nhạc vậy. Tôi muốn
đi theo một thi pháp âm bồi, nếu
có thể gọi thế. Và nếu như
những câu thơ
tôi có một nghĩa nào đó
thì là do các âm chữ hắt ánh
lên thành một thứ cầu vồng trên
mặt chữ mà thôi ».
Dương
Tường sành âm nhạc, thích nhạc
cổ điển Tây Phương.
Dương Tường tự họa
***
Nhà
thơ Hoàng Hưng, trong lời bạt cho tập
Thơ Dương Tường, để làm
sáng tỏ đề tài, phân biệt
hai quan niệm, hai dòng thơ : « dòng
nghĩa » làm việc trên chiều
biểu nghĩa, signifié, (thường gọi
là « cái được biểu
hiện ») và « dòng chữ » làm việc
trên chiều năng nghĩa,
signifiant (giới ngữ học gọi là
« cái biểu hiện »).
Nói khác đi, Dương Tường ngoài công tác
dịch thuật, đã góp sức vào việc cách tân thơ Việt Nam, vừa bằng sáng
tác, vừa bằng lập thuyết, vừa bằng cách ủng hộ những nhà thơ trẻ và tư
trào thơ mới đương đại.
Ngoài ra, trong hội họa, bằng những
bài phê bình, giới thiệu và nhờ phòng triển lãm của gia đình, anh cũng
đóng góp vào sự nghiệp gầy dựng cho đất nước một quan niệm nghệ thuật
hội họa mới. Và bản thân anh cũng vẽ tranh.
Nhìn chung vào cuộc đời và sự nghiệp
Dương Tường, tôi gọi anh là « ngữ nhân » hay
« kẻ chữ » là vì vậy.
Dương Tường Kẻ Chữ : với nhau,
nôm na thế thôi. Vậy thôi
Dương Tường gánh gần trọn gia tài thế kỷ 20, loạng choạng bước vào thế kỷ 21 với nhiều món hàng cách tân lỉnh kỉnh. Lịch sử điêu linh, con người phiêu linh gần trọn kiếp, có lúc anh phải bán máu (chuyện thật) để nuôi tiếp cuộc sống và niềm tin văn nghệ : cái huân chương « văn nghệ », Arts et Lettres, của nước ngoài hôm nay không thêm vinh dự nào, cũng không đánh giá được Dương Tường trong quá trình gian nan, oan khuất và thành đạt mà anh đã trải qua. Nó chỉ là một vạt nắng bất ngờ, sau những ngày giông bão, hắt vào hình trạng một hành nhân, nhắc cho bè bạn và độc giả quãng đường gập gềnh anh ấy đã đi qua.
Để
rồi Dương Tường đi tiếp, còn
đi tiếp, sẽ đi nữa, và đi
mãi :
Trời
chưa cho nghỉ thì mình cứ đi.
Tản
Đà, đâu đó, đã rù
quến chúng ta như thế.
Đặng Tiến
Orléans,
14.01.2009
Thơ
Đàn
Comments
Post a Comment