Tưởng Niệm Cách Mạng Hung




Tưởng Niệm Cách Mạng Hung


Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào

Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

12-56

**
*
Chấm dứt huyền thoại Cộng Sản
*
Hai bài thơ, thật lạ lùng,
cùng bắt đầu và chấm dứt, như nhau.
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Hãy học thuộc lòng bài thơ này của tôi.
Những ngày hạnh phúc của tôi ở Địa Ngục
Đó là tập thơ của một tiếng nói kháng chiến Hung, viết  trong trại tập trung cải tạo Stalin, bằng cọng chổi, và máu, trên giấy đi cầu. Ông vừa mất ngày 1 Tháng Chín, thọ 95 tuổi.
Đau khổ không phải là một đức hạnh, có lần nhà thơ nói.
[Người Kinh Tế 16-22 Tháng Chín 2006]
*

Nhà thơ đang ngắm ngọn lửa phần thư 30 Tháng Tư 1975 Sài Gòn, và nhắn nhủ:
Đó là khi thành phố của bạn bị đốt rụi,
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.*
*
Hãy cho anh khóc bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Thế mới đúng là áo thụng vái nhau chứ! NQT

Gyorgy Faludy
Hungarian poet and author whose life and work were his homeland's 20th century history.
George Gomori
Saturday September 9, 2006
The Guardian
Then, in 1950 he was charged with being an American agent. Asked the identity of his CIA contact, he gave the names of William Blake and Edgar Allan Poe. Faludy decided to agree to the wildest accusations, hoping that he would yet survive Stalin, and was sent to the infamous Recsk labour camp (1950-53)
Khi được nhà nước tra hỏi, mấy điệp viên Xịa thường liên lạc với mi là ai, ông cho tên William Blake và Edgar Allan Poe. Tội gì tao cũng nhận, bởi vì tao sẽ sống dai hơn chế độ của tụi mi
Kỷ niệm lần thứ 50 Cách Mạng Hung, chúng ta đã có bài thơ của TTT,
Hãy cho anh khóc bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Viết liền ngay khi nó nổ ra.
Tin Văn sẽ giới thiệu thêm, một truyện ngắn về nó,
Truyện ngắn Prayer, xuất hiện năm 1966.
Bản tiếng Anh, lần đầu xuất hiện trên TLS số đề ngày 1 Tháng Chín 2006.
Truyện kết thúc bằng câu:
Có thể nhìn thẳng vào cái chết, với hy vọng.
"It is possible to face death with hope"


*


Moscow 1941: Một thành phố và những người dân của nó trong cuộc chiến.


Đây có lẽ là cuốn sách mấy anh VC, nhất là "người Hà Nội" nên tìm đọc.
Và hãy luôn nhớ câu cảnh cáo dưới đây, từ bài điểm sách trên, mỗi khi hát,
"Hà Nội ta vẫn hiên ngang hất đầu lên trời":
Nga xô hiện đại càng cố gắng sử dụng chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh bao nhiêu
- như huyền thoại về chân lý muôn đời, nước Nga xô là một -
 thì càng cho thấy, Hitler và Stalin đều quỉ sứ chẳng thua gì nhau.

*
*
Chúng ta phải trả nợ "họa con Bọ", hậu quả của chiến thắng Miền Nam.
Còn thế giới ?
Umberto Eco :
"Nous payons toujours aujourd'hui l'effondrement de l'empire soviétique"
Bây giờ chúng ta luôn còng lưng trả nợ, hậu quả sự sụp đổ đế quốc Đỏ



Phải đợi một nửa thế kỷ, nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin Nhanh, L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười, 2006].


**
 


Cái tấm bia tưởng niệm đó, được giấu đằng sau một bức màn, tại trụ sở xưa kia của Đảng Cộng Sản Hung,
không phải tưởng niệm những người nổi dậy,
mà là những công chức CS, bị những người nổi dậy giết,
khi họ chiếm được trụ sở Đảng, vào năm 1956.
[Người Kinh Tế  21-27 Oct, 2006]
*

Đó là khi thành phố của bạn bị đốt rụi,
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.
*
Hãy cho anh khóc bằng mắt Em
Những cuộc tình duyên Budapest
["Quốc Tế Ca" (1) của những người tù VC]
(1) Chữ của ĐT
Trước 1975, Gấu có một anh bạn, sĩ quan Thủ Đức. Anh người Nam, cứ mong mãi, "Bắc Tiến thành công, thống nhất đất nước", tao sẽ có dịp thăm Hà Nội. Coi nó có đẹp như tụi mày ca hay không !
Cũng một anh sĩ quan Ngụy như thế, mặt cứ nghệt ra, khi đi đăng ký cải tạo, và được ông cán bộ hạch hỏi:
-Chúng mày sẽ đối xử với chúng ông như thế nào, nếu chúng mày chiếm được Hà Nội ?

*
Bài thơ của TTT, xuất hiện lần đầu tiên, ở hải ngoại, trên tờ Văn Học, của Nguyễn Mộng Giác, trong mục Tạp Ghi do Gấu, NQT, phụ trách, vào năm 1998, nhân đọc bài trên tờ NYRB.
Bức hình, đầu lâu Stalin lăn lóc trên đường phố, là cũng từ số báo này.
[Volume 43, Number 18 · November 14, 1996 Review Hungary's Revolution: Forty Years On By Timothy Garton Ash].

Một nhà thơ, ra đi từ Miền Bắc, nhận xét, lần đầu đọc, cứ tưởng là của một ông Tây !
Nhưng phải đợi Đặng Tiến - có thể thoạt đầu, như ông thường nói, 'vui thôi mà' -  coi đây là một thứ "Quốc Tế Ca", ý nghĩa của bài thơ mới lộ hẳn ra.
Cũng thế, cuộc cách mạng Hung, phải đợi nửa thế kỷ, mới định danh, khi thêm vào hai chữ "đạo đức".
Trong bài viết của Ash, ông nhận xét, nhân loại ngày càng biết ơn nó, vì nếu không có nó, không có Mùa Xuân Prague, là Âu Châu bị nhuộm đỏ từ lâu rồi.

*
Gyorgy Faludy, tiếng nói của kháng chiến Hung,
mất ngày 1 Tháng Chín, 2006, thọ 95 tuổi
[Người Kinh Tế, số đề ngày 16 Tháng Chín 2006]
Không có viết và mực, ở trong trại tập trung Stalinist tại Hung, Gyorgy Faludy dùng cọng chổi để viết, bằng máu, và trên giấy vệ sinh. Đau khổ, như một lần ông nói, không phải là một đức hạnh. Nhưng ba năm của ông tại Recsk, từ 1950 đến 1953, theo một nghĩa nào đó, quả là những năm tháng mặc khải. Tập thơ xuôi, "tản văn", như lối nói hiện nay, nổi tiếng ở bên ngoài nước Hung, kể lại quãng đời hưng phấn một cách âm u đó, darkly inspiring, tức thời gian ông ở tù "VC Hung" được ông đặt tên là “Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”.
Vẫn theo một nghĩa nào đó, Mr Faludy chọn nhà tù. Ông đã được đề nghị, một cơ may, chạy trốn quê hương, qua Áo tái định cư, nhưng từ chối, và lý luận, rằng, tôi phải tận mắt chứng kiến, những đau khổ, những rùng rợn, cho dù tới đỉnh cao cỡ nào, mà những người Cộng Sản mơ tưởng ra được, cho xứ sở của tôi. Trong bài thơ Mừng Thượng Thọ 70 Ông Xì, ông liệt kê danh sách những số phận dành cho kẻ can đảm: giầy đinh thúc vào mạng mỡ, đạn bắn vào đầu, và giá treo cổ. Và tất nhiên, làm sao tránh khỏi, số phận của thi sĩ, sau bài thơ: Ông chọn nhà tù, chẳng mấy chốc sau đó.
Thân thể trong tù, như Bác Hồ nói, nhưng cái đầu của nhà thơ thì ở bên ngoài nhà tù. "Đói khủng khiếp, lạnh cứng người," ông viết, "tôi co cụm, thu lu thành một đống trên sàn đá, phủ lên người đủ thứ mảnh vải đầy chấy rận rệp, áo choàng, giống như một tấm lều, và thở qua tay áo, thổi hơi thở vô thân mình để sưởi ấm nó, và cứ thế làm thơ". Khi tay quản giáo chìa cho ông xem, những bài thơ của người cháu trai của anh ta, nhà thơ nhăn mũi, phán, suy đồi, và phản cách mạng.
Tay quản giáo giận tái mặt.
Bị tống vô xà lim, chật cứng, tối thui, nhà thơ trải qua hàng giờ vận nội lực, trở thành chết cứng, rồi biến hoá, transfixed, thành một sợi nắng mùa đông chạy dài trên sàn xà lim. Ông tưởng tượng mình đang ở Biển Nam.
Ông và bạn tù mở một đại học đặc biệt, dậy thơ ca, lịch sử và văn chương. Một bạn tù huýt sáo trọn bài "Don Giovanni" của Mozart, một người khác kể "Chiến Tranh và Hòa Bình". Nhà thơ đề nghị bạn tù nhớ ở trong đầu họ, thơ của ông, khi ông viết chúng ra, theo cách như ở trên đã nói. Nếu có người nào được thả, thì người này sẽ tới thăm bà xã nhà thơ, và đọc cho bả nghe.
Ông được thả vào năm 1953, khi Stalin chết, nhưng trại tù chẳng bao giờ thả [tha, cũng được] ông. Nó trở lại thí dụ, như trong bài thơ sau đây, làm vào năm 1983.
Learn by heart this poem of mine,
       Books only last a little time,
       And this one will be borrowed, scarred,
       Burned by Hungarian border guards,
       Lost by the library, broken-backed,
       Its paper dried up, crisped and cracked,
       Worm-eaten, crumbling into dust,
       Or slowly brown and self-combust,
       When climbing Fahrenheit has got
       To 451, for that's how hot
       it will be when your town bums down.
       Learn by heart this poem of mine
*
Hãy học thuộc lòng bài thơ này của tôi,
Sách thọ đâu được bao lâu ?
Và cuốn này thì sẽ bị mượn, bị vạch nát,
Bị đốt bởi lính biên phòng Hung,
Bị mất bởi thư viện, bị long gáy,
Những trang sách khô, ròn, rồi vỡ vụn ra,
Bị gián, mọt ăn, gặm, nát thành bụi,
Hay cứ thế từ từ vàng ố đi, tự huỷ diệt bằng hơi nóng,
Một khi nhiệt độ leo đến 451 Fahrenheit,
Đó là khi mà thành phố của bạn bị đốt rụi.
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.
Chàng mê thơ rất sớm, và tất nhiên, không chỉ thơ, mà còn những quán cà phê Budapest, và một cuộc sống văn chương. Nhưng ông bố khoa học gia lắc đầu, phán, Budapest hiện đã có 20 ngàn thi sỡi, không một thằng nào trong số đó, nuôi nổi thân. Thế là ông đóng thùng ông con, tống đi Vienna, học kỹ sư hóa. Chẳng ông thầy hóa nào biết đến ông, ấy là vì ông dành thời giờ, thay vì học hóa, thì là để dịch và cho xb những dòng thơ của Francois Villon, một thi sĩ nổi loạn người Pháp, thế kỷ 15, và ông khởi nghiệp thơ của mình bằng cách đó. Ông còn viết một bài thơ phạng Hitler và được ông này thưởng cho 14 năm tù, nhưng ông trốn được, bằng cách giúi tiền vào túi quần tay quản giáo. Và khi cuộc chiến bùng nổ, ông chơi một cái thuyền, làm một chuyến du ngoạn tới Morocco, tìm cách tới Mẽo, và đăng lính Sao Sọc.

Làm thơ bằng những dấu chân chim.
Ông trở lại Budapest sau chiến tranh, để chứng kiến, quan sát, điều mà ông gọi là, "một nền dân chủ được xây dựng lên mà đếch cần đến những người dân chủ" ['democracy being built without democrats"].
Tháng Mười 1956 Cách Mạng Hung bùng ra, chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô. nhà thơ tắm đẫm mình vào trong đó, như là một thành viên của phái đoàn. Phái đoàn gì cơ chứ? Phái đoàn Hội Nhà Văn bên cạnh Hội Đồng những công nhân điều hành cuộc cách mạng. Nhưng khi chiến xa Liên xô tràn tới, ông lại chuồn đi Tây Phương: Vienna, Florence, Malta, New York, và Toronto. Tại đây, ông sống chung nhà với một tay khiêu vũ, dancer, người Mỹ tên là Eric Johnson.
Tay thanh niên trẻ đẹp trai này lần ra dấu vết của nhà thơ tại Malta sau khi đọc Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Tại Địa Ngục. Mr Faludy sống tại đây, sau khi bà vợ mất. Ông cảm nặng Eric, và làm một số bài sonnets vì anh ta. Tại Toronto, họ chia một căn phòng nhỏ cùng với một đôi chim sẻ. Đôi chim thường đậu trên bàn máy chữ của nhà thơ. Và chỉ bay lên khi tiếng chuông báo hiệu chấm dứt một dòng.
Trên hai chục năm, đến 1989, khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, nhà thơ sống tại Canada. Sau hết, nhà thơ cũng trở về cố hương, sách của ông hết còn bị cấm sau bốn thập kỷ, và sống trong trong một căn hộ rộng rãi trông ra sông Danube, do nhà chức trách thành phố ban cho ông. Tại quê nhà, ông gây sốc cho nhân dân, khi bỏ Eric, chạy theo một em nữ thi sĩ nhí, nhỏ hơn ông 60 tuổi, duyên dáng, uyển chuyển, và kết hôn với em, và xuất hiện với em, gần như hoàn toàn khỏa thân, trên trang bìa tờ Penhouse, ấn bản tại Hung. Với mớ tóc dài, trắng phau tỏa lên hai bờ vai, với đôi mắt nâu và cái nhìn chiếu xoáy, ông trông như một ông tiên trong truyện cổ tích, cùng với nàng Fanny của ông tiên.
Được dân chúng ngưỡng mộ, vinh danh, cùng những giải thưởng, ông làm thơ cho đến tận cùng. Tập thơ chót của ông, xuất bản năm 2003, có tên là Thế Kỷ Giông Bão.
Ông thường có thói quen dậy thật sớm, ngắm dòng sông Danube chảy bên ngoài, nhịp dòng sông cũng là nhịp của những bài thơ chảy trong máu ông.
*

.... Within the poetry of the Hungarian Gyorgy Faludy, who has died aged 95, Hungarian and other European traditions mingle, and there can be found a record of the turbulent 20th century.
Guardian
[Trong thơ của nhà thơ có truyền thống Hung và những truyền thống Âu Châu khác được trộn lẫn hòa nhập, và từ đó, là một ghi nhận về cơn chao đảo của thế kỷ 20].
Đặng Tiến cũng phán, gần như tương tự, về TTT, chỉ thiếu cái khúc "a record of the turbulent 20 th century", nhưng theo Gấu, có thể thay bằng câu của TTT, viết về Bếp Lửa, và về Hà Nội 1954, "đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết....".
Nguồn
*
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong «Guernica» của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế.
Nguồn


**
Chuyện gì xẩy ra tại Hung, vào năm 1956?
Đây là tóm tắt về nó, tại Tây Phương, trích Bách Khoa Toàn Thư Columbia Enclycopedia.
Vào ngày 23 Tháng Mười, 1956, một cuộc cách mạng Chống Cộng của dân chúng, tập trung tại Budapest, bùng nổ tại Hungary. Một chính quyền mới được thành lập, dưới quyền Imre Nagy, tuyên bố Hungary trung lập, rút ra khỏi Hiệp Ước Warsaw, kêu gọi LHQ cứu trợ. Tuy nhiên, Janos Kadar, một trong những bộ trưởng của Nagy, thành lập một chính quyền phản cách mạng, và yêu cầu sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô. Trong cuộc chiến đấu tàn bạo và quyết liệt, lực luợng Xô Viết dẹp tan cuộc cách mạng. Nagy và những bộ trưởng của ông bị bắt giữ và sau đó, bị hành quyết. Chừng 190 ngàn người tị nạn rời bỏ xứ sở, Kadar trở thành thủ tướng, của chế độ Cộng Sản.
*
Ở trong căn phòng của Lukacs, là ở trung tâm trận bão của thế kỷ chúng ta. Ông bị quản thúc tại gia, khi tôi tới gặp ông ở Budapest. Tôi thì còn quá trẻ, và sướt mướt không thể tin được, và khi tôi phải rời đi, nước mắt tôi ràn rụa: ông bị quản thúc tại gia còn tôi thì đi về với an toàn, với tiện nghi ở Princeton hay bất cứ một thứ gì. Tôi phải đưa ra một nhận xét nào đó, và sự khinh miệt hằn trên khuôn mặt ông. Ông nói, "Bạn chẳng hiểu gì hết, về mọi điều chúng ta nói. Trong cái ghế này, chỉ ba mươi phút nữa thôi, sẽ là Kadar," tên độc tài đã ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông.
"Hắn ta là sinh viên của tôi. Chúng tôi đã cùng làm việc, qua từng câu, từng câu, cuốn Hiện Tượng Luận của Hegel. Bạn không hiểu được đâu."
Thực như vậy, tôi đã không hiểu, tôi "đã" đã không hiểu. Chỉ mỗi câu chuyện này không thôi đã cải tạo tôi về cái thế giới mê cung kỳ quái của tầng lớp trí thức Mác-xít, và sự độc ác, và tính nghiêm trọng theo đó mọi trò như thế này diễn ra.
Steiner trả lời Paris Review.
Phỏng Vấn Steiner I
*
Trong những lỗi lầm của Sartre, có vụ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Budapest của nhân dân Hungary, vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa Liên Xô đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre, trong một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè dặt", sự can thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng vấn.
Lẽ dĩ nhiên, quyết định của điện Cẩm Linh là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc nổi dậy "có chiều hướng phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là "một tội ác", nhưng… "trong những nhóm người này, kết hợp nhằm chống lại những người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary, người ta nhận ra, có những thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi giục"…. "sự có mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của Liên Xô là "một điều cần thiết"….
Lịch sử sau đó cho thấy, nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở cuộc cách mạng Hungary vào năm 1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm đỏ cả Âu Châu, là một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc phỏng vấn kể trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách mạng không mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une révolution politique qui évoluait à droite).
Tất cả những khẳng định của Sartre đã được tờ Pravda đăng tải, cộng thêm những lời ca ngợi cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của Janos Kadar, vào ngày 5 tháng 11. Một tháng sau đó, chúng trở thành những lời buộc tội những người cầm đầu cuộc cách mạng…
Tạp ghi: Tin Văn Vắn 3




*
Hungary, October 1956
 Half a century of remembering.
The Hungarian uprising has inspired a new generation of books.
Cuộc nổi dậy ở Hung là nguồn hứng khởi cho một mớ sách mới.
Tờ Người Kinh Tế, số đề ngày 21 Tháng Mười, điểm một số


Bài điểm sách trên Người Kinh Tế


ANYONE puzzled by the recent violence in Budapest, the worst since the failed revolution of 1956, should look at the plaque concealed behind a curtain in a building on Republic Square. Once the headquarters of the Communist Party, it  now houses the communists' successors, the ruling socialists, who are led by the youthful multi-millionaire and prime minister Ferenc Gyurcsany. The plaque commemorates victims of 1956: not those killed fighting Soviet tanks or hanged after the revolution was crushed. Rather, it venerates the communist functionaries who were beaten, lynched and set on fire when the rebels captured the building.
   Looking at the powerful photographs in Erich Lessing's book, it seems as if what happened in Budapest was less an uprising against the Soviets than a civil war. His pictures show the corpses laid out in a row, covered with pictures of Hungary's hated dictator, Matyas Rakosi. Mr Lessing's work also illustrates how surreal urban warfare can be. During the worst of the fighting everyday life continued: housewives shopping for food delicately stepped around dead Soviet troops, passers-by stopped to watch an insurgent reload his rifle.
  If Mr Lessing shows what the uprising looked like, Viktor Sebestyen, Charles Gati and Michael Kordar seek to explain its causes and its sources. All have excellent credentials: Mr Sebestyen is a British journalist of Hungarian origin; Mr Gati, also a native Hungarian, witnessed the revolution at first hand before fleeing west. Mr Korda, nephew of the more famous Alexander, a film-maker, drove to Budapest from Oxford University, bringing a carload of medicines. His lively eyewitness account recalls the chaos and excitement of revolutionary Budapest.
   Mr Sebestyen's book should become the standard work on the uprising. His early chapters set the scene and he is especially strong on the terror of the early1950s, the Rakosi era that helped trigger the events. Politics in Stalinist Hungary operated a revolving door: officials were beaten near to death one day, returned to power another, dragged back to the prison cell the next. Mr Sebestyen uses multiple points of view to bring added perspectives from both Moscow and Washington, DC. Deft portraits of major characters—the tragic Imre Nagy, the duplicitous Janos Kadar and Yuri Andropov, the chilling Soviet ambassador to Budapest—bring the human drama alive and make for a gripping read.
   "Failed Illusions" sheds new light on American policy, especially the controversial role of Radio Free Europe as it encouraged the rebels. Published by Stanford University Press as part of the Cold War International History Project, the book draws heavily on newly declassified archives in Budapest, Moscow and America, and extensive interviews by the author.
   Mr Gati is strong on Nagy, the leader of the doomed revolution. The nationalist right in Hungary has sought to appropriate Nagy as an anti-communist figurehead. But as both Mr Sebestyen and Mr Gati show, Nagy was as much a communist as he was a Hungarian patriot. Nagy's dithering in the early days of the fighting, his continuing loyalty to the Soviet Union, his


Could it have been different?
         Eric Hobsbawm
                        JOURNEY TO A REVOLUTION:
A PERSONAL MEMOIR AND HISTORY OF THE HUNGARIAN REVOLUTION OF 1956
                              by Michael Korda.
             HarperCollins, 221 pp., $24.95, September, o 06 0772611
                      TWELVE DAYS: REVOLUTION 1956
                             by Victor Sebestyen.
                 Weidenfeld, 340 pp., £20, August, o 297 84731 j
       A GOOD COMRADE: JANOS KADAR, COMMUNISM AND HUNGARY
                              by Roger Gough.
                  Tauris, 323 pp., £24.50, August, 1845110587
                            FAILED ILLUSIONS:
   MOSCOW, WASHINGTON, BUDAPEST AND THE 1956 HUNGARIAN REVOLT
                               by Charles Gati.
Stanford, 264 pp., $24.95, Sept.
CONTEMPORARY HISTORY is useless unless it allows emotion to be recollected in tranquillity. Probably no episode in 20th-century history generated a more intense burst of feeling in the Western world than the Hungarian uprising 0^956.
Although it lasted less than two weeks, it was both a classic instance of the narrative of justified popular insurrection against oppressive government, familiar since the fall of the Bastille, and of David's in this case doomed victory against Goliath.

Liệu có thể khác đi không?
Điểm sách London nhìn lại Cách Mạng Hung qua những sách mới xb

Nhà thơ TTT cũng đã nhìn thấy ở Cách Mạng Hung, như vậy (1), và tự hỏi, liệu có thể khác ?
(1) Lịch sử đương thời sẽ vô dụng chỉ trừ khi nó khiến xúc động được thu gom. Trong im ả.
Xúc động nào khiến nhà thơ Việt Nam, liền sau khi Cách Mạng Hung xẩy ra, viết Quốc Tế Ca về nó, trong khi, tới bây giờ, lịch sử mới gọi ra được cái tên của nó: Một cuộc cách mạng đạo đức ?







Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư