30.4.2009



Tribute
1
2
3
4
5


30.4.2009

Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA
 


Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)(1)Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
The Quiet American by Graham Greene
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.
Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.
Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu:
Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.
Cuộc chiến đã qua mấy chục năm. Đã có thêm một số dữ kiện, và cùng với nó, một số vấn đề mới được đặt ra.
Thí dụ, vụ Maddox, hoàn toàn là do Mẽo phịa ra, để có cớ dội bom Miền Bắc, không phải để leo thang chiến tranh, nhưng mà là để chấm dứt nó. Không có dội bom Bắc Việt, là không thể nào thúc vô đít mấy đồng chí Bắc Bộ Phủ, bắt ngồi vô bàn hội nghị.
Mẽo tìm mọi cách để rút ra, và Maddox là cách của họ.
Cũng thế, VC cũng có cách của họ, để nhử Mỹ vô.
Gấu thực sự tin rằng, chính Bắc Việt tìm đủ mọi cách để nhử Mỹ vô Miền Nam Việt Nam. Cái sự kiện,"có 'thằng' vào giết vợ anh, giết con anh, đốt con anh thì phải đánh lại chứ?", là do Bắc Việt gây ra, ngư ông hưởng lợi đủ đường là vậy.
Và cái cú nhử Mỹ vô, là phịa ra vụ đầu độc tù VC trong nhà tù Phú Lợi.
Đầu độc tù, rồi la lên, mới có cớ thành lập MTGP, coi đây là nội bộ Miền Nam. Mẽo sợ mất Miền Nam, đang chỉ có mấy anh cố vấn quèn, bèn đưa thêm quân vô, thế là Miền Bắc có cớ, động viên cả nước, phát động cuộc chiến thần thánh, muôn đời có một.
Cứ giả thử có đầu độc tù, thì cũng vẫn do VC tạo ra. Chết vài ba đồng chí mà nhử được Mẽo vô, rồi phát động cuộc chiến "thống nhất đất nước", thực hiện giấc mơ muôn đời của Miền Bắc, còn gì sướng hơn!
Cuộc chiến Việt Nam bắt buộc phải xẩy ra, theo cả hai nghĩa, tốt nhất và khốn nạn nhất, là như vậy!
Có thể, Miền Bắc chỉ nghĩ ra cái vụ Phú Lợi, sau khi biết, không có hiệp thương, theo như hiệp định Genève. Nhưng giả như có hiệp thương, thì Miền Nam vẫn là Miền Nam, không bị biến thành Ngụy.
Miền Bắc phải cám ơn Mẽo, là vậy. Không có mày vô, là không có vụ ăn cướp!
*
Nên nhớ, cái tâm ăn cướp là có thực, đừng nghĩ Gấu đổ tội oan.
Không phải tự nhiên mà Bùi Tín phán, chúng ông lấy sạch rồi, chúng mày còn cái gì mà đòi bàn giao. Tự trong thâm tâm của ông, bật ra câu này. Cũng thế, là câu phán của Võ Nguyên Giáp, đánh một trăm năm cũng phải đánh. Tự thâm tâm, ông biết, phải như vậy. Đây là cơ may ngàn đời có một. Đốt sạch Trường Sơn cũng phải đốt, là cũng theo nghĩa đó.
Người ta chê Giáp, tướng mà sao tàn nhẫn. Không, ông ta nói câu đó không phải với tư cách một ông tướng, mà là một tên Yankee mũi tẹt, có thể con cháu của một tay họ Trịnh nào đó!
Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng.
Hết hàng Miền Nam, thì biến cả thế giới thành bãi đánh hàng.
1975 trở thành Anus Mundi của nước Mít. (1)
Bởi vì, nỗi nhục này đâu chỉ Yankee mũi tẹt?
*
(1) Cái chết của Milosz làm Gấu nhớ tới từ Anus Mundi của ông.
Anus Mundi có nghĩa là hậu môn của thế giới. Theo Milosz, một người Đức đã viết ra định nghĩa này, để chỉ xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi, tiếng La Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the world], tức khi thế giới bắt đầu.
Milosz định nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world.
Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật thượng đẳng mới có cơ quan sinh dục riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có cloaca, tức hậu môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus mundi, là theo nghĩa đó.
Khi Gấu mượn từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới, và còn theo nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do Thái, Emmanuel Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.
Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.
Nếu đi hết biển
1975: Năm Cái Ác Bắc Kít biến thế giới thành Bãi Đánh Hàng!
Thời của thánh thần
*

Vậy thì đã 50 năm rồi, ông thẩm định ra sao, về câu châm ngôn nổi tiếng của Adorno: "Không có thơ, sau Auschwitz"?
-Với tôi, đó là thời điểm quyết định, cực kỳ tự nhiên để nói ra [1945].
[G. Steiner trả lời phỏng vấn].
Thời điểm quyết định, tự nhiên để nói ra, theo nhà thơ Milosz, là do một người Đức nào đó, viết ra vào năm 1942, tại Ba Lan. Trong cuốn Milosz's ABC's, ông dùng lời của triết gia Emmanuel Levina, để giải thích: đó là năm [theo Levina, 1941], Ông Trời [God] "bỏ chạy" ["abandoned"], chúng ta.
34 năm sau Lò Cải Tạo, liệu 2009 là thời điểm quyết định để nói ra...
Nói ra cái gì?

Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu. Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Mưa Trịnh buồn. Gió Trịnh buồn. Tình Trịnh buồn (”một người về đỉnh cao, một người về vực sâu, để cuộc tình chìm mau…” - “Tình nhớ”). Đời Trịnh càng buồn hơn. Cát bụi mệt nhoài (”Cát bụi”). Cánh chim bỏ rừng,… trái tim bỏ tình. (”Cho một người nằm xuống”). Nhưng với tôi, nhạc Trịnh là liều thuốc giải.
Hoài Phi [talawas]
*
Tác giả viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, rồi thừa cơ, gài vô đoạn trên đây, có những câu:
Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu.Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.*
Đây có lẽ là bài ai điếu đầu tiên dành cho Miền Nam của một người Miền Bắc.
Mà sao ai cũng chết?

Tưởng là viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, nhưng chính nó là đích danh thủ phạm.
*
Đọc bài viết trên, Gấu nhớ câu của một anh Tầu, Lý Trác Ngô, hình như vậy, bình Tây Sương Ký: Cái giống nhà văn thứ xịn, thứ thực, thứ bảnh... có bao giờ thèm "hạ cố" viết văn đâu?
Gấu bèn nối đuôi: Có những người rất sợ viết văn, bởi vì viết ra là nổi tiếng,và mất đi cuộc đời riêng tư của họ.
Bạn không tin? Đọc thiên hạ vinh danh Sebald:
Dans l'herbier de Sebald, les « nervures » du passé

"Perhaps", writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Netzsche viết trong Genealogie der Moral:  Chúng ta đánh dấu trái tim của con chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss learned in exile to understand the fate he escaped...... so vital to him, of whether he himself was on the side of the creditors or the debtors. He finds the answer to the question in the course of his own study, as it becomes increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact the same species, so that he, the potential victim, must also range himself with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên cứu của chính ông, và mọi chuyện càng ngày càng trở nên rõ ràng, đối với ông, là, cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng đồng phạm.

*
Yankee mũi tẹt thì vưỡn muôn đời là Yankee mũi tẹt!
Cái sự kiện Gấu gặp Faulkner, rồi những ngày đầu mới tập viết, mỗi khi bí, là mang bí kíp của thầy ra tụng, tìm cơ hội, chôm một câu, một ý tưởng làm mồi... mãi sau này, ra hải ngoại, trong một lần trò chuyện, bên ông Tây Martell, với một ông bạn, và nhân nói chuyện trên, ông bạn lắc đầu, phán, cái chuyện mày khám phá ra và mê, và thờ Faulkner làm thầy, tao sợ nó rắc rối hơn nhiều, và chỉ Freud mới giải mã nổi: Trong mi có một tên Yankee mũi tẹt muốn ăn cướp Miền Nam, và mày sợ chuyện đó!
Chỉ đến mãi sau này, khi đọc Sebald, ông này mới nói rõ cái tâm trạng của Gấu, của tất cả những con người đành đoạn phải bỏ chạy quê hương, và không thể nào nói tốt được cho nó.
Sebald, chẳng làm điều gì xấu cho nước Đức, nhưng, sau Lò Thiêu, lúc nào cũng tởm nước Đức, có thể như vậy, và ông coi Hebel, như là tri kỷ của mình, trong bài cảm tạ nước Đức, khi, không những chấp nhận khúc ruột ngàn dậm, mà còn phát cho nó một cái chức ông Hàn:
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald tởm những gì người dân Đức đã làm đối với dân Do Thái. Còn da vàng làm thịt da vàng, thì sao? Đó là lý do người dân Mít thù VC, chứ không phải thù trong nước.
Chỉ có sự thù hận cái xấu, cái độc, cái ác mà VC đang giáng lên đầu nhân dân trong nuớc.
W.G. Sebald: Sự Hối Hận của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Weiss.


Trong đám rong rêu có những gân lá của quá khứ.
“Kẻ lữ hành mệt mỏi dưới lớp sơn son mạ vàng của tuổi năm mươi”
Bản văn chung quyết mang tính ẩn dụ về số phận của chúng ta.
Kẻ sinh ra trong một thế giới chạy trốn hồi ức của nó.
Những hình ảnh của một chương khủng khiếp của lịch sử chúng ta không bao giờ vượt bức thềm lương tâm quốc gia.
Lời cảm tạ khi được vô Hàn Lâm Viện Đức
W.G. Sebald [1944-2001]
Tôi ra đời vào năm 1944, tại Allgau, thành thử có lúc tôi đã không cảm nhận, hoặc hiểu được thế nào là huỷ diệt, vào lúc bắt đầu cuộc đời của mình. Lúc này, lúc nọ, khi còn là một đứa trẻ, tôi nghe người lớn nói tới một cú, a coup, tôi chẳng có bất cứ một ý nghĩ, cú là cái gì. Lần đầu tiên, như ánh lửa ma trơi, cái quá khứ của chúng tôi đó bất chợt tóm lấy tôi, theo tôi nghĩ, đó là vào một đêm, vào cuối thập niên 1960, khi nhà máy cưa ở Platt cháy rụi, mọi người ở ven thành phố đều túa ra khỏi nhà để nhìn bó lửa cuồn cuộn tuá lên nền trời đêm. Sau đó, khi đi học, phần lớn huỷ diệt mà chúng tôi được biết, là từ những cuộc viễn chinh của Alexander Đại Đế và Nã Phá Luân, chứ chẳng phải từ, vỏn vẹn chỉ, muời lăm năm quá khứ của chúng tôi đó. Ngay cả ở đại học, tôi hầu như chẳng học được gì, về lịch sử vừa mới qua của Đức. Những nghiên cứu Đức vào những năm đó, là một ngành học - mù lòa như dã được dự tính, chỉ đạo từ trước, và, như Hebel sẽ nói - cưỡi một con ngựa nhợt nhạt (1). Trọn một khoá học mùa đông, chúng tôi trải qua bằng cách mân mê Cái Bô Vàng [The Golden Pot] (1), mà chẳng hề một lần băn khoăn, về sự liên hệ ở trong đó, rằng, tại làm sao mà một câu chuyện lạ thường như vậy lại có thể được viết ra, với tất cả những cấu trúc dàn dựng của nó như thế, liền ngay sau một thời kỳ mà xác chết còn ngập những cánh đồng bên ngoài Dresden, và trong tnành phố ở bên con sông Elbe đó thì đang xẩy ra nạn đói, và bệnh dịch. Chỉ tới khi tới Thụy Sĩ, vào năm 1965, và một năm sau, tới Anh, những ý nghĩa của tôi về quê nhà mới bắt đầu được nhen nhúm, từ một khoảng cách xa, ở trong đầu của tôi, và những ý nghĩ này, trong vòng 30 năm hơn, ngày một lớn rộng, nẩy nở mãi ra. Với tôi trọn một thể chế Cộng Hoà có một điều không thực kỳ cục chi chi về nó, như thể một cái gì biết rồi chẳng hề chấm dứt, a never-ending déjà vu. Chỉ là một người khách ở đất nước Anh Cát Lợi, và ở đó thì cũng vậy, tôi như luôn luôn cảm thấy mình lơ lửng, giữa những ý nghĩ, những tình cảm của sự quen thuộc và của dời đổi, bật rễ, không bám trụ được vào đâu. Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo. Nhưng, chính vì những nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy vọng.
W.G. Sebald
Nguyễn Quốc Trụ dịch [từ bản tiếng Anh, của Anthea Bell, trong Campo Santo, do Sven Meyer biên tập, nhà xb Hamish Hamilton, Penguin Books, 2005]
(1) Pale Rider: Ám chỉ Thần Chết
(2) Tác phẩm của E.T.A Hoffmann (1814)
Note: Bạn đọc Tin Văn, đọc lời cảm tạ trên, song song với bài về Sáu Lèo, của Đỗ Kh., và tất cả những 'hệ lụy' sau đó, thì mới thấm! NQT


Simenon và Greene là hai tác giả, vào những ngày mới vào đời, Gấu đọc họ, không phải vì mục đích văn chương, nhưng mà chỉ để học ngoại ngữ, nhưng tuyệt vời làm sao, càng về sau, họ trở thành những ông thầy dậy viết văn, và hơn thế nữa, dậy cách sống ở đời. Simenon, ít hơn, nhưng Greene, quả là càng về già, Gấu càng thấm ông, nhất là về điều mà ông gọi là “human factor”, như tên một tác phẩm của ông.
*
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.Câu trích đề của truyện đột ngột khác thường. Nó không trích ra từ một tác phẩm khác đã có. Nó như tự trên trời rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được của trời”. Cái chiều sâu của nó làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi biết, cho đến lúc bấy giờ chưa thấy được dùng trong văn chương Việt Nam. Phải đợi vài năm sau, khi Phạm Công Thiện xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và trở thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
...
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
TTT:
Trong đất trời
Những đứa con hoang của một miền đất. Đó là một trong những 'human factor' của đám Bắc Kít di cư 1954.
Greene coi đây là những trường hợp ‘split loyalities’.
* 
The Human Factor, which didn't even have a title, hung like a dead albatross round my neck. My imagination seemed as dead as the bird. And yet there were some good things in the twenty thousand words which I had written - I liked especially the shooting party at C's country house. The memory of it nagged me. I couldn't settle to any other work, and so reluctantly and doubtfully I took the novel up again, telling myself that the Philby affair belonged now sufficiently to the past. Perhaps the hypocrisy of our relations with South Africa nagged me on to work too.
The Human Factor [Yếu tố người] không có được, ngay cả một cái tít. Nó lủng lẳng ở cổ tôi, như một con chim hải âu chết. Sự tưởng tượng của tôi cũng chết như chim. Tuy nhiên, có vài điều đường được ở trong mớ hai chục ngàn con chữ mà tôi đã đổ ra đó - tôi mê cái bữa tiệc săn bắn ở căn nhà đồng quê của C. Hồi nhớ của tôi về nó làm phiền tôi. Tôi không thể làm được chuyện khác, thế là vừa ngần ngại vừa hồ nghi, tôi lại lôi nó ra, tự bảo mình, cái vụ Philby thì cũng xưa rồi Diễm ơi. Có lẽ, cái tính đạo đức giả trong những liên hệ với Nam Phi cũng làm phiền và khiến tôi không thể nhả ra.
*
"The novelist’s station" he [Greene] insists "is on the ambiguous borderline"; a writer, like a double agent, “must be able to cross over, to change sides at the drop of a hat”.
Cái trạm sở của tiểu thuyết gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn, thì cũng một thứ gián điệp hai mang, nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền lập tức khi cái nón [tai bèo] vừa rớt xuống'. Graham Greene
*
Loyalty breeds treachery.
Trung thành sinh ra phản bội
Peter Kemp: The Human Factor, Introduction
*
Trung thành sinh ra phản bội.
Mấy ông nhà văn VC không thể nào hiểu ra điều này.
Nguyễn Khải có thể đã mơ hồ hiểu ra, khi ông đổi trú sở, bỏ chạy Hà Nội vô Sài Gòn, và nhập ngay vào với cái không khí biên cương mù mờ, và viết được mấy cuốn, nhưng lại chiếu sáng chúng bằng ánh sáng của Đảng. Bằng sự trung thành, đời đời biết ơn Đảng!
Giá mà ông có dũng khí, chắc là đã dám phản bội, và hiểu ra chân lý, phản bội mới đúng là trung thành với Đảng! 
Human kind cannot bear very much reality
Cái thứ người không chịu nổi quá nhiều thực tại
T.S. Eliot
*
GOD'S SPIES
Điệp viên của Chúa"I wish all the lies were unnecessary," Castle confides to Boris, his Soviet control. "And I wish we were on the same side."
"Tôi mong muốn những lời dối trá thì không cần thiết, và chúng ta thì cùng một phe"
PXA nói với Trùm Xịa, trong Gã Điệp Viên Mê Mẽo. The Spy Who Loves US


Llosa vs Steiner
Những tiên tri của Cassandra
Kể từ khi Ngôn ngữ và Câm lặng rớt vào tay tôi, ba mươi năm trước đây, tôi coi Giáo sư George Steiner là một trong những cái đầu tạo hứng, gây những cú hích tranh luận, phê bình số 1 của thời chúng ta. Tôi tiếp tục đọc, cuốn này tới cuốn khác, những gì ông viết, và thấy đúng như vậy, ngay cả khi không đồng ý với những kết luận của ông. Nhưng, bây giờ, tôi ngờ ông đang bị cám dỗ, thứ cám dỗ mà những tài năng lớn thường vướng phải, nghĩa là bắt đầu tỏ ra dễ dãi, buông thả, tệ hơn, muốn chứng tỏ cái gì ta cũng biết, cái gì ta cũng đúng, bằng một thứ văn phong lịch sự, phong nhã, và bằng sự uyên bác của ông.

Cái sự kiện Mít cũng chê Nobel và đề nghị (?) huỷ bỏ, Gấu không sao hiểu được, chỉ đến khi nhớ ra trường hợp Thích Quảng Độ, cũng đã nhiều lần được đề nghị Nobel hòa bình, thì  mới ngã ngửa ra mà ui chao sao Gấu này ngu thế!Bởi là vì, giả như Mít được Nobel, và DTH được, thì thật khốn lạn!


Chim thiêng


Sao bac ghet talawas...?

G. K. Chesterton famously remarked of Dickens’s characters that they were “immortal souls who existed whether he wrote of them or not”, “creatures who were more actual than the man who made them”
G.K. Chesterton có một nhận xét thật bảnh về những nhân vật của Dickens, "chúng là những linh hồn bất tử, cho dù ông ta có viết về chúng hay là không”, “những nhân vật thực hơn cả người làm ra chúng”.
Tuyệt.
Gấu cũng muốn hậu thế có cùng cảm nhận như vậy, về BHD của Gấu!
Hậu thế.
Bây giờ thì khỏi.
Bởi là vì, một độc giả Tin Văn đã từng gật gù, ngoài những trang viết về BHD, còn lại thì là đen thui.
Nhưng, BHD mà chẳng đen ư? Gấu tính hỏi lại.
*
Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều energy , và vẫn chứa chan tình cảm .
K
*
Nhắc tới Chesterton, vì Gấu mới tha về từ một tiệm sách cũ một cuốn của ông,  nhân đọc lời giới thiệu, thấy thú quá.


Trước 1975, là một chuyên viên kỹ thuật của Bưu Điện, Gấu coi chuyện viết văn là chuyện ở ngoài cõi đời thường, ngày hai bữa đi làm kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia đình. Trong sở, trừ một số thật thân, ít người biết Gấu làm nghề vụng trộm đó.
Nói vụng trộm, là cả với gia đình, người thân. Mỗi lần viết, là phải đợi cho vợ con đi ngủ hết, mình cũng giả đò đi ngủ, và sau đó, len lén dậy, len lén ra bàn, bật cái đèn nho nhỏ, ánh sáng vừa đủ chiếu trang giấy, và sau đó, rị mọ viết. Khi đã nhập, chẳng còn biết mọi chuyện xung quanh, có khi Gấu Cái đứng ngay trước mặt, Gấu Đực tui cũng chỉ nhìn trân trân, không ý thức, không cảm giác, không nhận ra là ai. Đó là những lúc đang lên đồng, đang nhập đồng.
Còn khi chưa nhập, bị bắt gặp tại trận đang làm cái việc vụng trộm đó, Gấu bực lắm. Cáu lắm. Gắt nhặng lên.
Chính vì vậy, khi tờ Tin Sáng của đám cách mạng 30 tháng Tư đăng danh sách những nhà văn phản động đồi truỵ, hình như chừng một tháng sau ngày 30 tháng Tư, Gấu chẳng hề biết, cho tới khi một anh bạn cùng sở dí tờ báo vào mặt, cười cười, bỏ đi. Đọc, Gấu thực tình bị choáng. Ngạc nhiên vô cùng. Cảm phục vô cùng, về cái sự tài ba của VC. Và cũng rất ư là bị sợ vô cùng.
Cái danh sách nhà văn phản động đồi truỵ đầu tiên đó, như Gấu tui còn nhớ được, gồm có 12 tên. Gấu đứng hàng thứ 7, với tập truyện ngắn độc nhất Những Ngày Ở Sài Gòn.
Đám Sáng Tạo chiếm gần hết danh sách.
Làm sao "nó" biết mình viết văn? Làm sao "nó" có được Những Ngày Ở Sài Gòn? Đâu có còn cuốn nào?
Bí mật về "nó", mãi sau này, khi ra hải ngoại, tôi mới "ngộ" ra được.
Lần gặp lại ông cậu sau giải phóng, ông cho biết, ngay từ trước 1975, ở Hà Nội, ông có đọc báo chí Nguỵ, có lần đọc thấy tên Nguyễn Quốc Trụ, trên tờ Điện Tín, ông đoán ra ngay, đây là thằng cháu của mình.
*
Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIAGreene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)
(1)
Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
The Quiet American by Graham Greene
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.
Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.
Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu: Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency. [Bên dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].
Nhưng mà đúng y chang!

5/1/09
Về Bảo Ninh, nếu muốn phản đối việc người ta cứ nói là cả đời ông ấy chỉ có mỗi Nỗi buồn chiến tranh, thì có thể nêu tên truyện ngắn "Gió dại". Nhưng nếu bảo ngoài hai cái đó nữa còn có gì, thì thực sự là khó. Bảo Ninh còn cả loạt truyện ngắn đặc sắc, nhiều truyện rất hay, như truyện về Hà Nội hồi những năm trước 1975 có "Người anh hùng thời đại" để ria theo lối chất nghệ (tên Vinh hay sao?), hay gần đây hơn là "Bội phản". Thỉnh thoảng viết bút ký cũng rất giỏi, chẳng hạn như gần đây nhất là "Đêm cuối cùng ngày đầu tiên". Nhưng cái hay của những cái ấy là cái hay bình thường. Đặc biệt thì chỉ có Nỗi buồn chiến tranh và "Gió dại".
"Gió dại" trên Internet: đọc tại đây, bản dịch tiếng Anh của Phan Huy Đường và Nina McPherson ở đây.
Thời gian của truyện là giai đoạn ngay trước 30/4/1975. Ẩn dụ "gió dại" ngay lập tức cho thấy tính chất vô nghĩa, nhỏ nhoi, thảm hại của con người, và của cái chết, trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh Việt Nam. Cái nhìn của người kể chuyện đặt ở bên phía bộ đội, lúc đó đóng quân tại một vùng vừa chiếm được, một vùng theo đạo có ông cha cố, và nhất là có một cô ca sĩ vì loạn lạc mà bị kẹt lại và sống luôn ở đây, đêm đến vẫn thường tiếp khách đàn ông, đều là bộ đội.
Chuyện tình duyên giữa Diệu Nương cô ca sĩ và anh lính phụ tá anh nuôi nhanh chóng trở thành một thảm kịch. Thảm kịch này giống như là một tiếng thở dài, rất dài - sở trường của văn Bảo Ninh. Văn của Bảo Ninh phải đi theo từng hơi một, cay đắng, buồn bã, không thể vui được, và những trường hợp tác phẩm khác không được thành công lắm có lẽ là bởi vì cái hơi này không đủ dài.
Và đặc biệt là "Gió dại" có một câu kết không thể nào quên: "Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình vẫn đến." Nghe nói câu văn này một thời đã gây sóng gió (truyện này hình như được viết cuối những năm 1990), thậm chí một thời gian đã bị cắt khỏi truyện, như một hình thức kiểm duyệt. "Những người báo trước hòa bình" là cô ca sĩ Diệu Nương và người tình bộ đội của mình trên đường chạy trốn, khi bị bắt gặp họ xin được tha mạng vì "chẳng làm hại gì cả", "không chống lại ai", nhưng các đồng đội của anh lính (trong đó có "tôi", người cũng đã từng nhiều lần ngủ với Diệu Nương) đã xả súng qua đám cây. Sau khi bắn xong rồi họ mới nhìn thấy xác hai con người kia, quấn chặt vào nhau.
Bây giờ cứ mỗi dịp 30/4 xem người ta kỷ niệm hào hùng mà thấy mệt. Phần lớn khăng khăng tô màu đỏ màu hồng rộn ràng cho một cuộc chiến đáng tởm. Một số khác tìm cách chứng minh rằng tất cả đều rất tởm, nhưng chúng tôi ít tởm hơn, và một số khác nữa: tất cả đều rất tởm, nhưng chúng nó tởm hơn chúng tôi.
Blog Nhị Linh.

Bảo Ninh by Việt ChiếnCó lẽ phải đến hơn 3 tháng sau khi được trả lại tự do, tôi mới gặp lại nhà văn Bảo Ninh, bạn đồng niên 1952 thân thuộc và đã cùng nhau một thời quân ngũ gian lao. Hẹn gặp nhau ở quán “cũ” cuối phố Phan Đình Phùng (Hà Nội), Bảo Ninh nhắn “Tôi mang một chai rượu chivas ngon đến, các ông chờ tôi…”. Tôi cùng 2 nhà thơ Nguyễn Bình Phương và Trần Anh Thái ngồi chờ. Một lúc sau, Bảo Ninh đi taxi đến, tay ôm khư khư chai rượu ngoại. Tóc anh bạc hết cả rồi mà cuốn tiểu thuyết mới vẫn chưa viết xong (sau “Nỗi buồn chiến tranh” không hiểu anh viết về “nỗi buồn” gì đây?).
Có người nói như đinh đóng cột, dạo này Bảo Ninh “kiêng rượu để viết chuyện” nên không hay la cà với bạn bè. Hôm nay, anh lại cho phép mình uống rượu chắc vì sự có mặt của tôi chăng? Hình như thế mà không phải thế. Vì nhìn cách Bảo Ninh nhấm nháp rượu mạnh một cách sành sỏi như một người Tây uống rượu Scot (cứ phải “lim dim” nhẩn nha ngửi ngắm khá kỹ trước khi nhấp môi) là đủ hiểu anh ngày nào cũng phải uống cũng như ngày nào cũng phải viết chục trang tiểu thuyết, phải không Bảo Ninh?
Đọc, nhớ lần gặp thứ nhì Bảo Ninh, khi về Hà Nội lần thứ hai. Cũng có chai rượu ngoại, cũng lời giới thiệu, “Tôi có chai Chiva này…”, đại khái như vậy, nhưng Gấu, dân nhà nghề, vừa ngó chai, nói liền, vẫn chai lần gặp trước, năm trước, chắc là hết mùi rượu rồi, khiến NVH vừa cầm lên, hoảng quá, bèn đặt chai trở lại chỗ cũ.
NVH mới là tay uống rượu cừ, theo lời giới thiệu của NHT. Gấu chưa từng uống lần nào với anh, nhưng đụng trận với NTS thì khá nhiều.
Nghe nói “Em của Gấu”, nữ thi sĩ, cũng thuộc loại có hạng, Gấu cũng chưa có hân hạnh hầu rượu, và ba thứ linh tinh khác!
Gấu biết NVH tay hảo hán trong làng rượu, là do NHT, lần Gấu mời ông, nhưng ông lắc đầu, và hẹn sẽ đưa thằng em ra để thay mặt ông anh, chấp nhận cuộc thách đấu.
Kỷ niệm trận rượu thần sầu quỉ khốc của Gấu, với tay NTS, là ở một cái hầm, nơi có đủ thứ ăn chơi của Hà Nội, chắc thế, nhưng Gấu, do chỉ lo nốc, thành ra chẳng để ý gì đến những mặt khác.
Gần như bò ra khỏi hầm, và khi sắp lên xe, tay chủ quán chạy ra, gửi lại ông anh cái hộp đựng thuốc lào mặt hổ phù Vang Bóng Một Thời, ấy chết xin lỗi, ba thứ lẩm cẩm Gấu bỏ quên, trong có cái camera, cây gậy thần, như ông cậu Toàn của Gấu đặt tên cho nó, trong lần trở về thăm lại làng Vân Xa, thăm lại dinh cơ của ông Bá Quán, tức ông ngoại của Gấu.


Thượng Đế đã chết trong thành phố, La peau, khép lại bằng một câu thần bí: "Thắng trận nhục nhã lắm". Nhưng cuốn sách cho thấy, nhục nhã biết bao, khi thua nó.
Bởi vì cái Miền Nam nước Mít sau 30 Tháng Tư 1975 quả đúng là một miền đất bị ông anh ruột thịt của nó làm cho nát bấy, vì đói khổ, khốn cùng, và nhục nhã.
Và cái sự đói khổ, khốn cùng, nhục nhã đó kéo dài 34 năm cho đến bây giờ, và chẳng có gì hy vọng, sẽ chấm dứt.
*
V/v cái sự nhắc nhở công lao, đòi nợ…  Yankee mũi tẹt của những đấng đàn anh Liên Xô, Trung Quốc ngày nào, mi thắng Điện Biên, mi ăn cướp được Miền Nam, là nhờ súng đạn của chúng ông đấy nhé, càng làm Gấu nhớ đến con quỉ ở nơi chuồng lợn, trong truyện ngắn Y sĩ đồng quê của Kafka, sau khi biếu ông chủ cặp ngựa, bèn đòi ngay cô người làm Rose.
Tuy nhiên mấy đấng đàn anh không hề quyết định cái cú Lò Cải Tạo. Cái Ác Bắc Kít có từ đời nào đời nào, cùng một lúc với nền văn minh sông Hồng, cùng với viên đất đầu tiên ném xuống công trường xây dựng con đê ngăn lũ. Đỉnh cao chói lọi của nó chính là ngày 30 Tháng Tư, nhưng than ôi, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’ [Goethe].
Đó những ngày trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi. Tất cả những bài hát cách mạng, Gấu nghe lần đầu tiên, sống cái không khí có quá nhiều ánh sáng, ở đó, như tất cả Miền Nam hừng hực sống cái không khí tưng bừng “Tổ Quốc ơi, ta yêu Người mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng mười!”
Câu trên, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’, Gấu đọc trong bài giới thiệu “Nhật ký một đời”, của Canetti, bản tiếng Pháp, trên tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Sáu 2005, đặc biệt về thành phố New York và những nhà văn của nó.
Có quá nhiều bóng tối.
Kinh Tế Mới, Lò Cải Tạo…  đã là những bóng tối.
Hang động Bô Xịt sẽ là một bóng tối.
Huế Mậu Thân Album
V/v cái sự nhắc nhở công lao, đòi nợ…  Yankee mũi tẹt của những đấng đàn anh Liên Xô, Trung Quốc ngày nào, mi thắng Điện Biên, mi ăn cướp được Miền Nam, là nhờ súng đạn của chúng ông đấy nhé, càng làm Gấu nhớ đến con quỉ ở nơi chuồng lợn, trong truyện ngắn Y sĩ đồng quê của Kafka, sau khi biếu ông chủ cặp ngựa, bèn đòi ngay cô người làm Rose.
Tuy nhiên mấy đấng đàn anh không hề quyết định cái cú Lò Cải Tạo. Cái Ác Bắc Kít có từ đời nào đời nào, cùng một lúc với nền văn minh sông Hồng, cùng với viên đất đầu tiên ném xuống công trường xây dựng con đê ngăn lũ. Đỉnh cao chói lọi của nó chính là ngày 30 Tháng Tư, nhưng than ôi, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’ [Goethe].
Đó những ngày trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi. Tất cả những bài hát cách mạng, Gấu nghe lần đầu tiên, sống cái không khí có quá nhiều ánh sáng, ở đó, như tất cả Miền Nam hừng hực sống cái không khí tưng bừng “Tổ Quốc ơi, ta yêu Người mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng mười!”
Câu trên, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’, Gấu đọc trong bài giới thiệu “Nhật ký một đời”, của Canetti, bản tiếng Pháp, trên tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Sáu 2005, đặc biệt về thành phố New York và những nhà văn của nó.
Có quá nhiều bóng tối.
Kinh Tế Mới, Lò Cải Tạo…  đã là những bóng tối.
Hang động Bô Xịt sẽ là một bóng tối.
*
Thật là rồ dại biết bao nếu lòng chúng ta vẫn còn nuôi nấng hận thù…
Vậy thì kẻ thù của nhân dân là ai? Đó chính là bọn cầm quyền của cả hai chế độ, bọn tướng lãnh đầu sỏ của cả hai chế độ. Và các thế lực ngoại bang đứng đàng sau cuộc chiến để thủ lợi. Chính chúng đã phát động chiến tranh, đã điều khiển chiến tranh, đã ra lệnh và đã làm chết hàng chục triệu người, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
Nguồn
Cái kiểu đặt vấn đề như thế này, theo tôi, là theo kiểu…  huề vốn.
Gấu này chưa từng nuôi nấng hận thù, chưa từng nghĩ mình là nạn nhân, bảnh như vậy đó!
Cũng cùng một vấn đề, khi Grass được hỏi, đã trả lời, phải ôm riết lấy Lò Thiêu, nếu muốn thống nhất nước Đức.
Cũng thế, chúng ta phải ôm riết lấy… một cái gì đó, nếu muốn tiêu giải hận thù!
*
Kẻ phát động cuộc chiến Mít, theo Gấu, không phải chính “chúng nó”, bọn cầm quyền của hai chế độ…
Ló là kẻ lào? Mày phải lói cho "chúng ông" biết?

Ba trăm năm sau, nhắc lại cuộc chiến đỉnh cao, cái còn lại, chỉ là hai câu:
-Tao chờ tụi bây để bàn giao.
-Chúng ông lấy sạch rồi, mày còn gì mà bàn giao?
PV Báo Trẻ: “Thưa bác, bác có viết quyển hồi ký nào không?”
Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai: “Tôi không viết hồi ký vì những đánh bóng cá nhân hay chạy tội trước lịch sử đều không phải là hồi ký. Theo thời gian, tôi chỉ nói ra những gì tôi thấy là cần thiết…”
PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã trả lời. Xin hỏi bác đã đi “cải tạo” bao nhiêu năm?”
CTTĐKG: “Tôi không có đi cải tạo. Tôi đi tù.”
PV Trẻ: “Xin lỗi bác, cháu chỉ muốn dùng lời nói cho nó nhẹ nhàng thôi!”
CTTĐKG: “Ngày tôi đi phỏng vấn ở Trụ Sở ODP để sang đây, có người thông dịch viên cũng hỏi tôi một câu như thế. Tôi cũng trả lời rõ ràng như thế. Và ông nhân viên Mỹ nói luôn với tôi: “Mời ông ký giấy tờ để hoàn tất thủ tục.”
PV Trẻ: “Thưa bác, thời gian… ở tù của bác bao lâu?”
CTTĐKG : “17 năm thiếu 10 ngày.”
PV Trẻ: “Xin hỏi: Có phải bác là người đi tù sớm nhất và về trễ nhất?”
CTTĐKG: “ Có thể. Ngày 15 tháng 5, 1975, họ đến nhà tôi, mời tôi đi họp nhưng thật ra là bắt tôi đi luôn từ đó. Lệnh tập trung những sĩ quan Quân lực VNCH vào Tháng 6, họ bắt tôi giữa Tháng 5. Có thể tôi là người đi tù sớm nhất!”
PV Trẻ: “Nhưng khi ấy họ chưa tổ chức kịp những trại tập trung thì họ đưa bác đi giam ở đâu?”
CTTĐKG: “Khám Chí Hoà. Một năm sau họ đưa tôi từ Nhà Tù Chí Hoà đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cũ. Bữa sau nữa, họ đưa tôi ra Bắc.”
PV Trẻ: “Bác tù ở ngoài Bắc 17 năm. Khi trở về Nam, bác thấy miền Nam sau 17 năm kiểu cộng sản “giải phóng” thế nào?”
CTTĐKG: “Tôi không thích tiếng: giải phóng”!
Nguồn [HHT]
Từ trước giờ, thú thiệt, Gấu không nghĩ mấy ông tướng VNCH biết... ăn nói, cư xử cho thật bảnh, vì cứ nghĩ đến hành động vô ý thức của Sáu Lèo, nhưng đọc ông này, thì thấy, cũng được! NQT

V/v cái sự nhắc nhở công lao, đòi nợ…  Yankee mũi tẹt của những đấng đàn anh Liên Xô, Trung Quốc ngày nào, mi thắng Điện Biên, mi ăn cướp được Miền Nam, là nhờ súng đạn của chúng ông đấy nhé, càng làm Gấu nhớ đến con quỉ ở nơi chuồng lợn, trong truyện ngắn Y sĩ đồng quê của Kafka, sau khi biếu ông chủ cặp ngựa, bèn đòi ngay cô người làm Rose.
Tuy nhiên mấy đấng đàn anh không hề quyết định cái cú Lò Cải Tạo. Cái Ác Bắc Kít có từ đời nào đời nào, cùng một lúc với nền văn minh sông Hồng, cùng với viên đất đầu tiên ném xuống công trường xây dựng con đê ngăn lũ. Đỉnh cao chói lọi của nó chính là ngày 30 Tháng Tư, nhưng than ôi, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’ [Goethe].
Đó những ngày trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi. Tất cả những bài hát cách mạng, Gấu nghe lần đầu tiên, sống cái không khí có quá nhiều ánh sáng, ở đó, như tất cả Miền Nam hừng hực sống cái không khí tưng bừng “Tổ Quốc ơi, ta yêu Người mãi mãi. Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng mười!”
Câu trên, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’, Gấu đọc trong bài giới thiệu “Nhật ký một đời”, của Canetti, bản tiếng Pháp, trên tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Sáu 2005, đặc biệt về thành phố New York và những nhà văn của nó.
Có quá nhiều bóng tối.
Kinh Tế Mới, Lò Cải Tạo…  đã là những bóng tối.
Hang động Bô Xịt sẽ là một bóng tối.
*
Camus rất mê câu thơ của Rilke:
Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có cứu rỗi. (Là où croit le danger, croit aussi ce qui sauve).
Như thể ông đã nhìn ra, sau Lò Thiêu, vẫn còn có cứu rỗi?
Và đó là giá mà Âu Châu phải trả để có được giải phóng, và sau đó, tự do?
Nhưng như một nhà phê bình Pháp, Bernard-Henry Lévy, trên tạp chí Le Point (số đặc biệt về Camus, tháng Tám 1993) đã nhìn ra ở ông: Càng ngày Camus càng muốn đảo ngược câu thơ của Rilke:
Ở đâu có hòa bình, ở đó có hiểm nguy. (Là où vient la paix, croit aussi le temps des dangers).
Liệu có thể áp dụng hai câu thơ trên, cho hai độc giả của Kẻ Xa Lạ, một trước, và một sau, cuộc chiến Việt Nam?
*
“yet from those flames
No light but rather darkness visible."
[Tuy nhiên từ những ngọn lửa đó, không phải ánh sáng, mà là bóng đen, hiển hiện]
Milton, Paradis perdu (I, 62)
Catherine Pappo-Musard dịch, ghi chú và viết tựa Trái Tim Của Bóng Đen, bản song ngữ.
L'expérience congolaise a fait de lui un homme pour qui désormais les ténèbres sont toujours visibles: les ténèbres, c'est-à-dire le passé dans le présent, le primitif dans le civilisé, le mensonge dans la vérité, la corruption dans l'idéal, et la mort dans la vie.
Kinh nghiệm Congo biến ông thành một người bóng đen luôn hiển hiện: Bóng đen, đó là quá khứ trong hiện tại, sơ khai man rợ trong văn minh có học, dối trá trong sự thực, hư ruỗng trong lý tưởng, cái chết trong sự sống.
Giữa lòng đen
Xa Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một điều, giả như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó sẽ như thế nào.
*
Những câu trên, có vẻ như đều qui về một ngày 30 Tháng Tư 1975?

*

30.4.2009
Ba trăm năm sau, nhắc lại cuộc chiến đỉnh cao, cái còn lại, chỉ là hai câu:
-Tao chờ tụi bây để bàn giao.
-Chúng ông lấy sạch rồi, mày còn gì mà bàn giao?

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư