My Old Saigon
'I am memory come alive' … Franz Kafka. Photograph: Culture Club/Getty Images
Kafka: The Years of Insight by Reiner Stach review – a triumph of literary scholarship
http://www.theguardian.com/books/2015/jul/31/kafka-years-of-insight-franz-reiner-stach-review-shelley-frisch
Note: Câu của Kafka, I am memory come alive, Gấu đã từng chôm, khi còn Sài Gòn, trước 1975, qua bản tiếng Tây, "Je suis une mémoire devenue vivante d’où l’insomnie", và đặt lên đầu truyện ngắn Kiếp Khác.
NGÔN NGỮ LƯU VONG
THE LANGUAGE OF EXILE
Imre Kertesz
Nguyễn Quốc Trụ dịch
"Cho
dù ở bất cứ đâu, viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào,
nhà văn của Lò Thiêu vẫn chỉ là một cô
hồn phiêu bạt, mong tìm nơi nương náu, ở nơi đâu
nếu không là trong tiếng nước người..."
"Tiếng Đức cũng chỉ là nơi nương náu tạm thời, cho qua một đêm, của những kẻ không nhà. Cũng tốt thôi, nếu nhận ra điều này. Cũng tốt thôi, nếu làm hòa với một tri thức như thế, và thuộc trong số những người không thuộc về nơi chốn nào. Cũng tốt thôi, một kiếp người."
Kertesz
đã mất một thời gian bằng những năm tháng ông sống,
trước khi bị tù đầy, tức là 14 năm, để viết cuốn đầu tay.
Một nhà xuất bản do nhà nước quản lý từ chối in, sau
được một nhà sách khiêm tốn [modest] xuất bản năm
1975, nhưng bị đối xử bằng sự im lặng. Tại Thụy Điển, xuất bản lần thứ
nhất, qua bản dịch của Fripress in Maria Ortman's, với tựa đề Steg för
steg (Step by Step, Từng Bước). Thoạt đầu, nó không gây
chú ý, mặc dù, cùng với Đây Có
Phải Một Người của Primo Levi, đây là một tác phẩm văn
chương mãnh liệt nhất đã từng được viết ra về thực tại trại
tập trung.
Sự kiện Kertesz bị đi đầy không có nghĩa, Fateless
[Không Số Kiếp], hay Man Without a Fate, [Người Không Số
Kiếp], như tên sau này của nó, chỉ là một
cuốn tiểu thuyết tự thuật, theo bất cứ một ý nghĩa giản dị nào
của từ này. Ông bỏ đi những gì gọi là giai
thoại (anecdotal), nhất thời (temporal), ngoại lệ, và chỉ giữ
lại tính tầm phào, banality, của câu chuyện
(nếu có thể coi tầm phào là nội dung của nó):
một cách kể, một nghiên cứu có tính phương
pháp về cuộc sống thường nhật của trại tập trung, của cơ cấu toàn
trị.
Ngoài nội dung, đều nói về trại tù, cách
kể của Kertesz thật khác với của Levi: Làm thế nào
một con người, bị bắt, bị dứt ra khỏi cuộc sống bình thường của
mình, dần dần thích nghi với một cuộc sống khác,
mà cuộc sống khác này, sở dĩ nó có,
là để làm giết hại người đó. Nhưng Levi là
một người đã trưởng thành. Koves, nhân vật kể chuyện
ở trong Không Số Kiếp thì mới được 14 tuổi, và thời
gian từ 1944 tới 1945 là một quãng đời quyết định, về mặt
học hỏi, đối với cuộc đời của cậu bé.
Cùng với một nhóm trẻ cùng tuổi, ông
bị bắt trên chuyến xe buýt trong một cuộc bố ráp
tại Budapest
vào năm 1944. Thoạt tiên, chúng bị nhốt một ngày
– một ngày ấm áp, tẻ ngắt - trong một nhà tạm
giam, trong khi viên cảnh sát - trẻ, trông có
vẻ đần độn, bối rối - gọi điện thoại xin thêm chỉ dẫn. Sau đó,
chúng bị giữ vài ngày trong một xuởng gạch cũ, cùng
với vài ngàn người Do Thái. Sau những bàn
bạc với Hội Đồng Do Thái, vài ngàn người này
chấp nhận “đề nghị” [offer], họ sẽ tự nguyện đi làm việc, bởi vì,
như họ được giải thích, rằng sẽ còn nhiều chuyến xe lửa
khác nữa, và nơi đây sẽ không làm sao
chứa nổi. “Nói vậy là hết nói, còn bàn
bạc gì được nữa.”
Khi lực lượng giải phóng tới với Koves, một năm sau đó,
ông nằm trong nhà thương tại khu trại tù Buchenwald, người
độc nhất sống sót trong nhóm bạn của ông. Một thân
hình vàng khè, trơ xương, với bộ mặt nhọn hoắt
của một người già, da đầy những vết mụn nhọn mưng mủ, nhức nhối.
Một giọng văn cố tình móc họng.
Tiểu
thuyết của Kertesz không khó đọc, theo nghĩa kỹ thuật.
Cứ thẳng một lèo, và là một cách kể chi li,
không lạc đề, không bình, bàn, nếu có,
chỉ trong giới hạn nhân vật chính, một cậu bé tuổi
còn non, kinh nghiệm ít ỏi. Giọng nói đó,mạnh
mẽ, tò mò, phải nói là thông minh, mưu
trí. Đây là giọng của một người trẻ tuổi, mà,
ở bất cứ thời điểm mới mẻ nào, chiến đấu, hiểu, làm, và
làm cho được, ở cái mức tối hảo, không phải do ngây
thơ, nhưng làm như vậy thì mới sống sót. Với anh ta,
mọi chuyện cứ thế mở ra, “từng bước từng bước”. Và những phản ứng
thoạt kỳ thuỷ của cậu bé, là ngưỡng mộ một cách khiếp
sợ: [Bạn hãy thử] nghĩ coi, cậu bé đã thông minh,
mưu trí tới cỡ nào, bởi vì chính những mưu mô
khôn khéo như vậy đã dẫn dụ cậu, trong những việc làm
như, làm sao cởi quần áo khi đứng trước vòi tắm, làm
sao nhớ con số ở chỗ treo quần áo, làm sao buộc giây
giầy! Phải có một người nào đó đã nghĩ ra mấy
trò này… Chắc chắn họ đã dùng cùng một
phương pháp như vậy, trong những phòng tắm khác, nơi
mà, như cậu bé được biết, thay vì nước, thì
là hơi độc xả lên những tù nhân. Lại còn
máy khoan ở khu làm việc – Sao mà nó khác
biệt so với thứ khó xài của cảnh sát Hung. Mọi thứ
qua đó, đều trơn tru, ngon lành. Khi tù nhân
tới hồi kiệt lực, gầy lõm tận xương, không còn nhận
ra ai là ai, chuyện xẩy ra đều đặn đến nỗi cậu bé không
nhận ra, ngoại trừ điều này, nếu phải so sánh bề ngoài
chẳng hề suy suyển của đám lính gác, với của tù
nhân, thì rõ mười mươi, hai thứ người này hoàn
toàn khác nhau.
Với một người mắt lúc nào cũng mở to thao láo
vì tò mò, vì ngạc nhiên, muốn biết
như thế, mỗi hoàn cảnh đều là mới tinh khôi, đều là
một “ngay bây giờ” [a now] chẳng cần tới tri thức phản hồi; thứ
tri thức này, chúng ta, những độc giả, thì chẳng thiếu,
nhưng người kể chuyện, tức cậu bé, thì không.
Đúng là một giọng khiêu khích, móc
họng. Kertesz, tác giả, như cố tình bám chặt lấy
nó, với một sự ương ngạnh, bướng bỉnh, lì lợm, và
chính điều này làm cho nó tách bạch
hẳn ra.
Nhưng thách đố lớn lao nhất, tại sao cuốn sách
bị đáp ứng một cách thật là lạnh lùng, khi
vừa xuất bản là một điều khác, tôi [Madeleine Gustafsson]
tin như vậy. Nó nằm ở ngay tựa đề: Không Số Kiếp [Fateless].
Hay, một người không số kiếp [a man without a fate]. Bởi vì,
đây không chỉ về Auschwitz,
về một điều gì đã xẩy ra, mà là triết lý
về cuộc đời. Đứa bé cố biểu tỏ triết lý này, sau
khi từ Budapest
trở về nhà. Mọi chuyện xẩy ra như thế này đều không
thực, đúng như thế, đứa bé nghĩ, nhưng nó tới, nó
xẩy ra: Chúng cứ thế tới, tuần tự, từng bước, từng bước. Chỉ một
khi ngoái nhìn lại, thì mọi chuyện mới trở nên
đã xong xuôi, đã hoàn tất, đã không
thể hiểu được… những điều bạn có thể tóm lược, [và
tạo một khoảng cách với chúng], bằng những từ như “ghê
rợn”, hay “địa ngục”.
Như được ban phát, tuy không được chỉ định sẵn,
cậu bé trải qua số kiếp được cho đó. Và bây
giờ, cậu bắt buộc phải làm một điều gì, với tất cả những
gì đã trải qua. Chẳng thể nói, chúng không
có nghĩa. Chẳng thể hài lòng, với ý nghĩ,
đây chỉ là một lỗi lầm, hay là chấp nhận chúng,
bằng cái dáng vẻ ngây thơ, tuy chua chát.
Nhưng nếu có tự do, là không có số kiếp. Nói
một cách khác, cậu bé nói với những thính
giả mỗi lúc một thêm chán chường, thê lương
của cậu rằng: “Chúng ta, chính chúng ta, là
số kiếp”.
Số kiếp của chúng ta là như vầy đó.
Tới lúc này thì không chỉ Chú
Steiner, mà luôn cả Chú Fleischmann cũng nhẩy bổ
lên. “Sao? Mi nói sao?”, ông chú, mặt đỏ gay,
nói như xỉa xói vào mặt thằng bé. “Chúng
ta bây giờ là những kẻ gây tội, mi muốn nói
vậy hả, trong khi chính chúng ta là nạn nhân?”
Cậu bé cố giải thích, đây không phải
là vấn đề tội, hay lỗi. Đúng ra là người lớn phải
nhận ra, ý nghĩa của tất cả, tự nó, giản dị, trần trụi,
là như vậy.
Như Kerresz viết ở trong nhật ký của ông [his Galley
Diary]: “Không Số Kiếp
là một tác phẩm hãnh diện. Nhờ nó mà
người ta sẽ không tha thứ cho cả cuốn sách, lẫn người viết
nó, là tôi.”
Cây viết là cái mai của tôi.
Nếu
Không Số Kiếp móc
họng, Kinh Cầu Cho Một Đứa Bé Chưa
Ra Đời làm người đọc câm họng.
Đây là một cuốn sách mỏng, một độc thoại
dài, đều đều một giọng, thật tẻ nhạt, bám dính cứng,
một cuốn sách nhỏ, mỏng, theo kiểu của Thomas Bernhard. Dòng
văn lan man, tản mạn, nhưng, với tất cả những rối rắm của nó, thật
rõ ràng. Giọng mời gọi, khiến người đọc, cho dù ngần
ngại tới cỡ nào, vẫn sẵn sàng nhập cuộc. Nếu có điều
gì làm người đọc có thể xả hơi trong chốc lát,
để mà thở, lạ lùng, trớ trêu làm sao, đó
chính là một, và chỉ một mà thôi: nhịp
thở của văn chương. Nhịp thở này ước mong một hiệu ứng – nhưng
rõ ràng là tác giả chẳng hề muốn một hiệu ứng
như vậy, ông ta cưỡng lại mọi kiểu đó, cùng một đường
hướng như ông đã cuỡng lại mọi đào thoát, mọi
hòa giải, mọi ân sủng. Ông ta thì lô-gíc,
khách quan, và không khoan nhượng.
Kaddish là kinh cầu dành cho người chết của dân
Do Thái. Nhưng ở đây, người nói [the speaker] nhắm
tới một đứa trẻ không bao giờ được phép ra đời, một đứa
trẻ mà người nói không thể nào tưởng tượng
được rằng, mình sẽ là cha của nó.
Nói cho cùng, đem một đứa trẻ của mình
vào trong cõi đời này, theo một nghĩa nào
đó, là hàm ý, mình vẫn tiếp tục sống
sau cái chết của mình, nhưng với người nói ở đây,
một viễn tượng như thế là không thể nào chấp nhận nổi.
Đó là bởi vì, theo một cách nào đó,
ông ta đã sống sót cái chết của chính
mình rồi. Đã có lần, một người nào đó,
đào mộ ông ta, [ “in the breezes”, “trong hơi gió
thổi, như Paul Celan đã viết, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết,
Death Fugue], “và rồi… để cái mai, cái thuổng vào
tay ông ta, bỏ mặc ông ta một mình, mi hãy hoàn
tất công việc mà tao đã khởi đầu đó, hãy
cố mà làm cho thật tốt, cho thật khéo, như là
mi có thể làm được.”
Kinh Cầu [Bản tiếng Anh]
Mourner’s Kaddish
May His
illustrious name become increasingly great and holy
In the world that He created according to His will, and
may He establish His kingdom
And may His salvation flourish and the Messiah come soon
In your lifetime and in your days
and in the lifetime of all the house of Israel
Speedily and soon. And say amen
May His
illustrious name be blessed always and forever.
Blessed, praised, glorified, exalted, extolled
Honoured, raised up and acclaimed
be the name of the Holy one blessed be He
beyond every blessing hymn, praise and consolation
that is uttered in the world. And say amen
May abundant
peace from heaven, and good lift
Be upon us and upon all Israel. And say amen
May He
who makes peace in His high places
Make peace upon us and upon all Israel
And say amen
[Cầu
cho Danh Sáng Ngài ngày càng cao cả và
thiêng liêng
Trong thế gian Ngài sáng tạo nhân danh Ngài
Ngài thiếp lập nước của Mình
Cầu cho sự cứu chuộc của Ngài thịnh vượng mãi
và Đấng Cứu Thế sớm tái lâm
Trong cõi kiếp và những tháng ngày
của bạn
và trong cõi kiếp của mọi mái nhà
Israel
Mau mắn tức khắc
Và nói xin được như nguyện
Cầu
cho Danh Sáng Ngài đầy ơn phước mãi mãi
Được ơn phước, ngợi ca, vinh danh
Được xưng tụng, sùng bái
Cầu xin tên của Đấng Thiêng Liêng
Đầy Ơn Phước
Mãi mãi là Ngài
vượt mọi ban phước, xưng tụng, và an ủi
được thốt lên trong thế gian này. Và nói
xin được như nguyện
Cầu
cho nền hòa bình sung túc từ trên trời, và
cuộc sống tốt lành
cho chúng con và cho khắp Israel. Và
nói xin được như nguyện
Cầu xin
Đấng Bề Trên sáng tạo hòa bình trên nơi
cao cả của Ngài
Ban hòa bình cho chúng con và cho
khắp Israel
Và nói xin được như nguyện]
Như vậy, về mặt thực tiễn, có vẻ như đây là kết luận mang tính triết học của Không Số Kiếp: sự chọn lựa, là do quan niệm của một người về sự hiện hữu của mình, như là một sự cố [accident] ngẫu nhiên, chẳng có nghĩa lý gì hết, một chuỗi những trùng hợp ‘mà, muốn nói gì thì nói, cũng vẫn chỉ là một cuộc đời bỏ đi”, hay, [chấp nhận] sống cuộc đời đó, theo một phương hướng mà mình tự chọn, bất cần biết bất cứ ý nghĩa gì cuộc đời sẽ đem lại cho mình, và trong trường hợp này, sự chọn lựa ở đây, là viết. “Cây viết là cái mai, cái thuổng của tôi,” Kertesz viết. Viết, như thế, là một cách tiếp tục đào, cố chuyển cuộc đời của mình thành “một chuỗi những chiếu rọi, thấu hiểu, một khi mà sự hãnh diện của tôi [my pride], ít ra là thế, tìm thấy sự hài lòng của nó."
Những chiếu rọi, thấu hiểu [insights] của ông,
là những gì?
Chiếu rọi, thấu hiểu, với Kinh Cầu, là
như thế này:
Trong khi người nói, ở trong cuốn sách sử dụng
quyền năng dẫn dụ để chuyên chở, để nhấn mạnh, với người vợ của
mình, với người đọc, và có lẽ, với chính anh
ta, rằng, chẳng có gì không thể giải thích được,
về Lò Thiêu. Auschwitz
hiện hữu, và đây không phải là sản phẩm của
bất cứ một sức mạnh không thể hiểu được nào hết. Thay vì
vậy, nó hoàn toàn hiểu được, và từ thế gian
này mà ra, “thế gian này là như thế đó,
sự tối ư hiện hữu của nó tất yếu là từ sự kiện này”.
Cái Ác không phải là một tai nạn, hay một lổi
lầm, nhưng là hậu quả của lối suy nghĩ duy lý, rational thinking,
bởi những cá nhân con người. Như một khả hữu, lô gíc
đến mức khiếp đảm, Lò Thiêu cứ thế lượn lờ trong không
gian, trên đầu trên cổ con người [từ bao nhiêu thế kỷ,
từ đời đời, kiếp kiếp, “for a long, long time, centuries”], chờ đúng
lúc là nhập thể [xuất hiện bằng xương bằng thịt, materialize:
duy vật hóa, biến thành sự vật cụ thể]. Đây là
cách mà thế gian hiện tồn, như nó là, đây
là nền văn minh của chúng ta, như là nó là.
Tuy nhiên, điều đòi một sự giải thích, là điều
này, người nói nhấn mạnh, bây giờ, độc giả, hãy
nghe cho thật hết sức kỹ càng [“and now you should listen extra carefully”]:
điều thực sự phi lý, nó cắt ngang cái chuỗi chuyện
thường ngày ở huyện rất ư là máy móc ở trên,
tức cái chuỗi duy lý, thuần lý mà chúng
ra đã nói tới đó, chính là Cái
Tốt, Cái Thiện, chứ không phải Cái Độc, Cái
Ác. Nói rõ hơn: Ác là thuần lý.
Thiện là phi lý. Chính vì Thiện không
thuần lý nên chẳng thể nào có thể giải thích
được. Nó cũng chẳng cần giải thích.
Và người đọc phải “lắng nghe một cách hết sức
cẩn thận”. Đoạn người bạn tù, mặc dù có một cơ
hội [một cơ hội, ở Auschwitz , nó có nghĩa của sự khác
biệt giữa sống và chết], để ‘chớp” khẩu phần của người kể chuyện,cho
chính anh ta, nhưng thay vì vậy, lại liều mạng sống của
mình, cốt sao cho người kể chuyện có lại được khẩu phần
đó [kèm theo chỉ một lời bình phẩm nghe thật dễ
‘nực’: “Rồi sao, còn muốn gì nữa?”]. Đoạn này được
giấu giếm ở trong dòng độc thoại, và người đọc thật dễ dàng
bỏ qua, bởi vì nó được kể theo kiểu chẳng thích thú
gì, đành phải nói ra cho xong chuyện, có thể
nói như vậy. Và điều này cũng chẳng thể nói
lên rằng, cuộc đời này thì tốt, thì thiện.
Tất cả chỉ để nói, rằng, tự do có, rằng, tự do hiện hữu.
Thứ tự do thách thức, kiêu căng, ngạo mạn đó,
là điều mà Kertesz muốn nói tới, ở trong cuốn
tiểu thuyết thứ nhì của ông, Fiasco (1988) [Fiasco: sự
thất bại hoàn toàn và có tính lố bịch.
Bản tiếng Pháp dịch là Sự Từ Chối (Le Refus)]: một tự do
mà bản chất nghịch ngạo của nó, là ước muốn được
ở tù cốt sao được viết; tự nguyện sống một cuộc đời tù túng,
đầy ải, bởi vì đây là giải pháp độc nhất có
thể chấp nhận được, nếu phải “hợp tác” với chế độ toàn trị.
[Độc giả người Việt có thể nhận ra sự chọn lựa của một Nguyễn Chí
Thiện ở đây]. Khi xẩy ra cuộc nổi dậy vào năm 1956, Kertesz,
qua nhân vật hoá thân của mình là Koves,
có cơ hội để rời bỏ xứ sở, nhưng đã chọn ở lại để viết cuốn
tiểu thuyết của ông, “cuốn tiểu thuyết độc nhất khả hữu đối với tôi”,
trong thứ ngôn ngữ độc nhất mà ông biết. Nhưng trước
đó - trước khi ông sẵn sàng cho sự từ chối cuối cùng,
nghĩa là nói không với chế độ, và rồi tình
nguyện ở tù, để viết - ông còn có thì
giờ để thử - và đều thất bại - chọn cho mình một cuộc
sống xã hội, qua những ngành nghề như là ký
giả, thợ kim khí, ngay cả một người gác tù. Nói
rõ hơn, đây là một từ chối hoàn toàn
để trở thành có ích, và đây là
sự cứu rỗi của ông [a total refusal to be useful – which is his salvation].
Fiasco, Sự Từ Chối, là một câu chuyện theo
kiểu Kafka, rất ư là tếu tếu [jovial], trong sự trong sáng
rất ư là thê lương rền rĩ của nó, về chế độ độc
tài Cộng Sản. Nó đuợc miêu tả như là một tiếp
nối không hề đứt đoạn, ngay sau cuộc sống ở trại tù Nazi
chấm dứt. Cũng thế, Kinh Cầu được miêu tả, như là một tiếp
nối của chế độ độc tài của người cha, về một tuổi thơ không
hề có tiếng cười. Cả ba cuốn họp thành một tổng thể hài
hòa, mở ra cả một cõi văn chương mà chúng
ta có thể tạm gọi là cõi văn, với độc nhất chỉ một
đề tài, của Kertesz: kinh nghiệm về chế độ toàn trị. Nhìn
như thế đó, những gì gì Nazi, những gì gì
Cộng Sản, những gì gì Lò Thiêu, là cơn
đau đời đời, không chỉ của một cá nhân mà của
trọn một nền văn minh - nền văn minh của chúng ta – chính
cái đó, nền văn minh của chúng ta đó, đã
làm nên Lò Thiêu, làm cho Lò Thiêu
khả hữu.
Một dòng thơ xuôi trí tuệ
Cùng lúc viết tiểu thuyết, Kertesz còn viết một thứ thơ xuôi trí tuệ [inrellectual prose] - một loại sách workbooks [sách ngành nghề], về viết, đọc, và chết. Một tuyển tập đầu tiên, viết về quãng đời từ 1961 tới 1991, xuất bản vào năm 1993, dưới nhan đề Nhật Ký Galley. Cuốn thứ thì, Tôi, Người Khác [Bản tiếng Anh, I, Another], xuất bản năm 1997. Cuốn đầu chủ yếu là nói về cuộc đời và những ý nghĩ của ông trong khi viết bộ ba tiểu thuyết kể trên. Cuốn thứ nhì chú trọng tới những thay đổi lớn trong cuộc sống của ông [và của Âu Châu] sau 1989. Ông cũng còn cho xuất bản một vài tuyển tập tiểu luận, và những bài nói chuyện, nhan đề [bằng tiếng Đức], như Người Thám Hiểm, Lá Cờ Anh. Khoảnh Khắc Im Lặng khi Đội Hành Quyết Tái Nạp Đạn, và mới đây nhất, là Ngôn Ngữ Lưu Vong.
Sự trớ trêu, ngược ngạo của việc viết, là một đề tài mà Kertesz lập đi lập lại hoài hoài, và thật khó mà giản lược vào chỉ một vài từ, nếu muốn giải thích nó. Bởi vì đây là một sự ngược ngạo thứ thiệt [a genuine paradox: một nghịch lý đích thực]. Nhưng có thể viện hai trích dẫn, từ những gì ông viết, để miêu tả nó. Cả hai trích dẫn này cùng có một giá trị tức thời như nhau.
Trích dẫn đầu tiên là từ Galley Diary: “Nếu tôi nghĩ về một cuốn tiểu thuyết, tôi lại nghĩ về Lò Thiêu Auschwitz. Bất cứ gì tôi nghĩ tới, là luôn về Lò Thiêu. Ngay cả khi nói về một điều gì có vẻ như hoàn toàn khác hẳn, vậy mà cũng là về Lò Thiêu. Tôi là một Đồng Vọng Cho Hồn Thiêng Lò Thiêu. Lò Thiêu nói qua tôi. Mọi chuyện khác có vẻ như đều là chuyện ngu đần, đối với tôi, so với nó.”
Trích dẫn thứ nhì, là từ bài nói chuyện của ông, tại hội nghị chuyên đề “Văn Chương Người Chứng” [Witness Literature], của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, vào tháng Chạp 2001, “Thật không thể không viết về Lò Thiêu, không thể viết về nó bằng tiếng Đức, và không thể viết về nó bằng bất cứ một cách nào khác,” bởi vì, ông tiếp tục, những người nào viết về Lò Thiêu, cho dù bằng bất cứ ngôn ngữ nào, là luôn luôn viết bằng một thứ ngôn ngữ ngoại lai, từ lưu vong, lưu vong ra khỏi quê nhà chẳng hề hiện hữu.
Thứ viết lách cứng đầu cứng cổ, chẳng hề đầu hàng, cho tới khi tìm ra con đường của nó trên bức tưòng dựng đứng như vách đá thô kệch, của cuộc sống trần trụi. Viết, như thế đó, là tìm cách xoay sở giữa những bất khả. Viết như thế đó, là một dòng thơ xuôi đầy tính suy tưởng, cố tìm cách len lỏi, thấm vào lòng người, và luôn luôn vọng ra từ nó, là nhịp tim đập không ngừng nghỉ, không đứt đoạn, của người viết, và của người đọc, sử dụng từ như tấm khiên đau thương, nhưng bắt buộc, nhằm chống lại “miền đất tan hoang” [the “desolate land”, trích Tôi, Kẻ Khác], nơi con người không nói, nhưng giết [người].
Nguyên tác tiếng Thụy Điển.Bản tiếng Anh của Victor Kayfetz có trên trang e_Nobel của Viện Hàn Lâm Thụy Điển
NQT dịch ra tiếng Việt.
http://www.lelitteraire.com/?p=551
Lướt net, gặp bài này, giới thiệu cuốn sách Tựa của Borges.
Trong, có 1 bài Tựa, Borges viết về 1 cuốn của ông, nhưng chắc Người phịa ra: Sách của những giấc mộng, "Le Livre des rêves". Có ghi năm xb: 1975.
Tuyệt.
Giai thoại mở ra bài Tựa mà chẳng thần sầu sao:
Trong 1 tiểu luận của tờ Spectator (Tháng 9, 1712), được in lại trong cuốn này, Joseph Addision nhận xét, hồn người, l'âme humaine, khi nằm mơ, rũ bỏ được cái xác, thì bèn trở thành sân khấu, diễn viên, và công chúng.
Người ta có thể thêm vô, nó cũng còn là tác giả của cái ngụ ngôn mà nó tham dự, elle est aussi l'auteur de la fable à laquelle elle assiste.
Le grain de sable
Un jour ou une nuit – entre mes jours et mes nuits, quelle différence y a-t-il? – je rêvai que, sur le sol de ma prison, il y avait un grain de sable. Je m’endormis de nouveau, indifférent. Je rêvai que je m’éveillais et qu’il y avait deux grains de sable. Je me rendormis et je rêvai que les grains de sable étaient trois. Ils se multiplièrent ainsi jusqu’à emplir la prison, et moi, je mourais sous cet hémisphère de sable. Je compris que j’étais en train de rêver, je me réveillai au prix d’un grand effort. Me réveiller fut inutile : le sable innombrable m’étouffait. Quelqu’un me dit : « Tu ne t’es pas réveillé à la veille, mais à un songe antérieur. Ce rêve est à l’intérieur d’un autre, et ainsi de suite à l’infini, qui est le nombre des grains de sable. Le chemin que tu devras rebrousser est interminable; tu mourras avant de t’être réveillé réellement. »
Je me sentis
perdu. Le sable me brisait la bouche, mais criai : « Un
sable rêvé ne peut pas me tuer et il n’y a pas de rêves
qui soient dans d’autres rêves. » Une lueur me réveilla.
Cuốn
sách Tựa, tiếng Tây, mua lần qua Paris, thăm Kiệt Tấn, tái
ngộ HPA, cái hẹn cuối thiên niên kỷ, của hai tên
bạn quí, thuộc băng đảng Tiểu Thuyết Mới ngày nào.
Cuốn Italo, mua lâu rồi, sống sót cuộc
phần thư làm từ thiện của Cô Út.
Trong cuốn Sách Tựa, có nhiều cuốn
đếch có, Borges phịa ra chúng, rồi viết lời Tựa.
Thú vị là, nhân đọc Calvino,
"Những cấp bậc của thực tại trong văn chương", "Levels of Reality
of Literature", ông viết, Borges có nhắc tới Đêm
Ả Rập, [tức Ngàn Lẻ Một Đêm], và theo Borges,
đêm thứ 602, là đêm thần kỳ nhất, theo most magical
of all.... Trong bản dịch mà Calvio đang có trong tay,
ông bèn vội kiếm, để thưởng thức: Làm đếch gì
có cái đêm ấy là đêm gì!
Borges, trong lời Tựa của cuốn sách Tựa của
mình, cảnh cáo độc giả, đừng nghĩ tôi viết
cuốn này, trong cái dòng Nhã của Những
Nhã, Cantique des Cantiques, Đêm của Những Đêm....
và, đừng coi Tựa là cái trò áo
thụng vái nhau - cái này thì Mít bị
cực nặng, và Gấu, sở dĩ bị chúng chửi, vì đếch
chịu khen thằng chó nào cả, hà hà - Borges
coi Tựa là 1 dạng phê bình.
Đúng như thế.
Lần Gấu viết bài Tựa cho cuốn Trăng Ơi Thơ
Ấu Mãi, NMG phán, viết thế này, thì đếch tên nào dám viết về cuốn
này nữa.
Còn KT, thì quê quá, phán,
ở Cali này thiếu gì người nhờ xoa đầu, xoa đít,
nâng bi, đội dĩa..., mà phải vời đến 1 tên ở Canada.
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Trăng ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi?
Trăng
ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi?
Đây
cũng là một vấn nạn mắc mớ đến Cái Ác.
NMG, khi đọc bài viết của Gấu, dùng
làm bài tựa cho tập truyện ngắn của NCK, đã
chú ý đến một đoạn ở trong đó, liên quan
đến tính tình của tác giả của nó, là
NCK, và cùng với NCK, là thứ văn chương giống
như vầng trăng thơ ấu mãi của con người.
*
Khi đọc sơ mấy truyện anh đưa, (Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi],
tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử
đề nghị với anh, với người đọc, một cách viết "kép",
theo kiểu Faulkner, khi viết Những Cây Cọ Dại, The Wild Palms:
hai truyện viết song song, xen kẽ, bề ngoài chẳng có chi
liên hệ.
Ở đây, có quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và khi thoát ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó có ai còn lành lặn, sau một cuộc chiến như thế. Sau những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương của anh, có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế bên. Anh mang theo vầng trăng qua những trại tù, và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh. Cái cậu học trò này, ngày xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài cái vào tay, sau này bắt chước Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô nằm trên giường bệnh: "Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường." Cậu học trò, không có những bước chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày mang cơm cho cô giáo của mình. Cậu có một ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ phải tần tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của những bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng? Nếu cậu không gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có tìm ra vầng trăng "thề" thơ ấu mãi hay không? Và cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng bắt nguồn từ đó?
Trăng ơi thơ ấu mãi
Nhưng cái hồn của văn chương Miền Nam, mà
Gấu có lần phán ẩu, nằm trong nhạc sến, liệu nó
còn nằm ở trong cái vầng trăng thơ ấu mãi?
*
"Đó
là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô
dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt
em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học
tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận
viết về nó, như nó là: đen rợn người ở bên
trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme.
Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé
dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout,
puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme
il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là
những ngày dài, trước, trong, và sau trại
tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu
mãi?
NQT
Christan Bobin, cũng là một phát giác tuyệt
vời của Gấu, tại một thư viện Toronto, ở cái khu dành
riêng cho sách Tiếng Tây của nó. Văn chương
của tay này, thật ứng vào cái câu văn
chương bèn cứ thơ ấu mãi, mà câu trên
là một ví dụ.
Gấu khám phá Christian Bobin, đúng
là cái cuốn Cô Bạn Không Làm
Sao Mà Dám Ao Ước, L'Inespérée,
và đúng cái
câu trên.
Bèn bệ ngay cuốn sách về nhà!
Thú vị làm sao, là sau này,
Gấu có một độc giả, rất quí trang Tin Văn, và
cũng rất mê Bobin.
Tks again both of U. NQT
... Anh Trụ ơi, trong một bài thơ dịch của anh, Sea cucumber, theo K, dịch là con hải sâm (trừ phi anh không muốn dùng từ hán việt nên dùng chữ dưa biển ).
In China, Sea Cucumber is called
Hai Shen, which translates
roughly into Sea Ginseng, and it is unclear whether this refers to
its aphrodisiacal qualities or healthful properties as a tonic for
the kidneys and blood. It has been used in China for thousands of years as
a treatment for Arthritis,
fatigue, Impotence,
constipation, frequent urination
and joint pain, and the herb was listed as a medicinal agent in the
Bencao Congxin of 1757. ( http://www.herbalist.com/wiki.details/86/category/11/start/0/)
Phúc đáp:
Tks
Bài thơ của Szymborka,
Tự Trị, GNV đọc trong Chứng
từ Thơ, chương “Thơ và Sinh Học” của Czeslaw
Milosz.
Szymborka, nữ thi sĩ Ba Lan, Nobel văn chương, điểm tử
huyệt của mấy anh thi sĩ tiền chiến theo Ðảng, suốt đời ăn bánh
vẽ, về già, sắp đi tầu suốt, mới dám thú thực.
Phải đọc hai bài thơ, 1 của Chế Lan Viên,
và 1 của Szymborska, thì mới thú vị.
Sau này anh đọc thơ tôi
nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã
giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay… trước khi
tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên
biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn
thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như
thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có
thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – người có
lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.
Chế Lan Viên
Tự Trị
Gặp nguy hiểm hải sâm tự phân
đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó
ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày
mai
Ở giữa hải sâm, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ
với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là
như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không
vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là
thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ gãy.
Một bên là thịt, và một bên
là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là
tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis
moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay
lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Szymborska. Tưởng nhớ [To the memory of] Halina Poswiatowska]
Autotomy
First published in Poezie, 1970, in the section entitled
"Z nowych wierszy."
"non omnis moriar": "I shall not wholly die.// Horace,
Odes, Book III, Ode XXX, 6 (//Exegi monumentum aere perennius"],
Halina Poswiatowska: the talented author of several volumes
of poetry, who died young (1935-1967).
14. YOU WHO WERE BORN
You who were born this night
To tear
us from the Devils might
- TRADITIONAL POLISH CAROL
Whoever considers as normal the order of things in which the strong triumph, and the weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
So Christianity should not pretend it looks favorably upon this world, for it sees at the core of it the sin of desire, or Universal Will, to use the term introduced by the great philosopher of pessimism, Schopenhauer, who found in Christianity and Buddhism a common trait: compassion for the inhabitants of earth, this vale of tears.
Whoever places his trust in Jesus Christ waits for His coming and the end of this world, when the first heaven and the first earth pass, and death is no more.
Ðấng sinh ra đêm nay
để kéo
chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Ðồng dao Ba Lan
Kẻ nào coi là tự
nhiên, cái trật tự qua đó kẻ mạnh thắng kẻ yếu thua và
đời sống chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của quỉ.
Như vậy Ky tô giáo không thể coi thế
gian này là OK, là bảnh lắm rồi, bởi vì
nó nhìn thấy ở tim đen của thế gian này là
tội thèm, hay Ước muốn Phổ cập, dùng từ của triết gia
lớn về bi quan, Schopenhauer, người nhận ra nét chung của Ky
Tô và Phật giáo: lòng trắc ẩn cho những
con người ở trên thế gian, thung lũng nước mắt này
Bất cứ kẻ nào đặt niềm tin ở Chúa Ky Tô,
kẻ đó đợi sự tới của Người và sự tận cùng của
thế giới này, khi thiên đàng thứ nhất và
trái đất thứ nhất qua đi, và cái chết thì
không còn.
15. RELIGION COMES
Religion comes from our pity for humans.
They are too weak to live without divine protection.
Too weak to listen to the screeching noise of the turning of infernal wheels.
Who among us would accept a
universe in which there was not one voice
Of compassion, pity, understanding?
To be human is to be completely alien amid the galaxies.
Which is sufficient reason for
erecting, together with others, the temples of an unimaginable mercy.
Czeslaw Milosz: Second Space
What makes our century the worse?
Has it, dazed with grief and fear,
Touched the blackest sore of all,
Yet not had strength enough to heal?
Akhmatova
Solomon Volkov: Conversations with Joseph Brodsky. Rereading Akhmatova's Letters
Cái khốn kiếp của thế
kỷ chúng ta, là cái gì?
Ðau quá, sợ quá?
Ðen như mõm chó?
Hay đếch đủ sức mạnh để hàn gắn vết thương?
A chronicler who recites events without distinguishing between major and minor ones acts in accordance with the following truth: nothing that has ever happened should be regarded as
lost for history. To be sure, only a redeemed mankind receives the fullness of its past-which is to say, only for a redeemed mankind has its past become citable in all its moments. Each moment
it has lived becomes a citation a l'ordre du jour-and that day is Judgment Day.
IX
Mein Fliigel ist zum Schwung bereit,
icb kehrte gern zuriick,
denn blieb icb auch lebendige Zeit,
ich hatte wenig Gluck.
-Gerhard Scholem, "Gruss vorn Angelus"
(1)
A Klee painting named "Angelus Novus" shows an angel looking as though he is about to move away from something he is fixedly contemplating. His eyes are staring, his mouth is open, his wings are spread. This is how one pictures the angel of history. His face 'is turned toward the past. Where we perceive a chain of events, he sees one single catastrophe which keeps piling wreckage upon wreckage and hurls it in front of his feet. The angel would like to stay, awaken the dead, and make whole what has been smashed. But a storm is blowing from Paradise; it has got caught in his wings with such violence that the angel can no longer close them. This storm irresistibly propels him into future to which his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward. This storm is what we call progress.
(1)
My wing is ready for flight,
I would like to turn back.
If I stayed timeless time,
I would have little luck.
Cánh của tớ thì sẵn sàng để bay rùi
Tớ thèm quay lại
Nếu cứ nấn ná ở cõi thời vô thời này
Tớ sẽ chỉ có tí ti may mắn
Walter Benjamin: Thèses on the Philosophy of History
[in Illuminations]
Poetry and Utopia
Charles Simic
Thơ & Không Tưởng
Only for the sake of the hopeless
ones have we been given hope.
Walter Benjamin: Illuminations
Chỉ vì những kẻ vô hy vọng mà
chúng ta được ban cho hy vọng
Thơ Simic, sau 1977 tẩm chất “blue” của jazz, ["blue không xanh mà blue đen", TTT], hay là những nốt nhạc “bent”… Theo năm tháng, ông cố tìm một nguồn hứng khởi mới, bằng cách đọc triết, đọc Heidegger (thí dụ Nguồn gốc của nghệ phẩm, “The origin of the Work of Art”), và Husserl. Chúng ta không biết ông đọc nhiều, hay ít, Walter Benjamin, nhưng rõ ràng những bài viết của Benjamin ảnh hưởng lên thơ Simic, kể từ “White”, tôi phác ra ở đây:
Thứ nhất, chắc chắn Simic đã
ôm lấy câu của Benjamin: “Chúng ta đều là
những đứa trẻ mồ côi của những ý thức hệ”,” "orphans
of ideologies”, và như Benjamin, ông rất ư hồ nghi
về mọi hình thức của chủ nghĩa không tưởng, all forms
of utopian idealism, bao gồm Mạc Xịt. Chính vì lý
do này mà Benjamin đếch chịu được dòng tư tưởng
Hegel thập niên 1930, mặc dù ông là bạn
với, và bị ảnh hưởng bởi, một vài trong số những khuôn
mặt nổi tiếng nhất của nó, bao gồm Theodor Adorno. Cái
sự quá chán “tiến bộ” trong lịch sử, thì được
ông mô tả 1 cách thần sầu, khi ông chiêm
ngưỡng 1 bức họa của Paul Klee, như ông ghi lại trong “Những Luận
đề về Triết học của Lịch sử” [“Theses on the Philosophy of History”]:
A Klee painting named "Angelus
Nevus" shows an angel looking as though he is about to move away
from something he is fixedly contemplating. His eyes are staring,
his mouth is open, his wings are spread. This is how one pictures the
angel of history. His face is turned toward the past. Where we perceive
a chain of events, he sees one single catastrophe which keeps piling
wreckage upon wreckage and hurls it in front of his feet. The angel
would like to stay, awaken the dead, and make whole what has been smashed.
But a storm is blowing from Paradise; it has got caught in his wings
with such violence that the angel can no longer close them. This storm
irresistibly propels him into the future to which his back is turned, while
the pile of debris before him grows skyward. This storm is what we call
progress. (Illuminations 257-58)
Quán
Le domicile est suspendu au cou de
l'homme
Comme une punition
Alain
*
http://www.tanvien.net/tribute/30.4.09_3.html
Mail, 30 Tháng Tư, 2009
Long time, no mail
Hope everything OK
NQT
Cám ơn anh . Vẫn bình thường . Chỉ
chán chán . Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều
energy , và vẫn chứa chan tình cảm . K
Tks
Như người xưa đánh
rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi
dấu lên mạn thuyền, chàng trở lại quán xưa,
tìm vết hài trên lối cát, và tiếng
cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây....
III
In the last century there was an inn
by the name of "Au Temps Perdu" at Grenoble; I do not know whether
it still exists. In Proust, too, we are guests who enter through
a door underneath a suspended sign that sways in the breeze, a door
behind which eternity and rapture await us.
Walter Benjamin: The Image of Proust
Comments
Post a Comment