Tribute to Hoàng Cầm

 Tribute

1
2


Thi sĩ Hoàng Cầm đã ra đi lúc 9h sáng nay, ngày 6/5/2010

Những dòng thơ của Mandelstam, rõ ra, Hoàng Cầm, rõ ra, Về Kinh Bắc:

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....

Bản tiếng Anh:
I shall not return my borrowed dust
To the earth,
Like a white floury butterfly.
I will this thinking body –
This charred, bony flesh,
Alive to its own span -
To turn into a street, a country.

[21 July 1935]

Je ne veux pas, tel un papillon blanc,
Rendre à la terre une cendre empruntée.
Je désire que mon corps pensant
Se transforme en rue, en contrée,
Corps vertébré, corps calciné,
De sa longueur conscient.


Người ta sống khá hơn, trước đây
Thật ra, người ta không thể so sánh
Máu bây giờ
Và máu ngày xưa
Nó rù rì khác nhau như thế nào.

On vivait mieux auparavant
A vrai dire, on ne peut pas comparer
Comme le sang ruisselait alors
Et comme il bruit maintenant.


Tưởng nhớ nhà thơ, không gì bằng, đọc lại đoạn sau đây. Nó làm GNV nhớ một kỷ niệm về Đất Bắc, ngày còn con nít được đi theo đám ma, khi quan tài hạ xuống huyệt, thì mấy bà Bắc Kỳ nhẩy qua nhẩy lại trên mặt mộ, và mỗi lần như thế đều vén váy thật cao, như cho người chết được chiêm ngưỡng lần chót cái nơi chốn âm u và ẩm ướt Thượng Đế vẫn thường lẩn khuất... [Henry Miller]

*

Bài thơ “Theo đuổi” của Hoàng Cầm được thầy giáo Nguyễn Tư Triệt ở Huế phổ nhạc thành bài hát mang cùng tên. Ðể tỏ lòng biết ơn nhà thơ, thầy Triệt đã nhờ tôi đưa tập nhạc mới in, trong đó có hai ca khúc được phổ theo thơ của Hoàng Cầm là “Lá diêu bông” và “Theo đuổi”, cùng một đĩa CD có bài hát “Theo đuổi,” do ca sĩ Thu Hiền ở Huế trình bày.
Gặp tôi, nhà thơ Hoàng Cầm rất vui vì dạo này ông phải nằm một chỗ sau vụ tai nạn bị gẫy xương ống chân. Cầm tập ca khúc, ông mỉm cười nói: “Cậu có biết tại sao mình làm bài thơ ‘Theo đuổi’ này không?” Trước thái độ ngơ ngác của tôi, ông nói tiếp: “Khi làm bài thơ này, mình có nghĩ đến một bài thơ xem tướng phụ nữ của Trung Quốc. Ðó là mấy câu thơ chữ Hán mô tả thế nào là tướng mạo của một người đàn bà đa tình:
Hồng diện đa dâm thủy
Mi trường hộ tố mao
Chiết yêu chân cự huyệt
Trường túc bất tri lao.
(Dịch:
Mặt đỏ nước dâm nhiều
Mày dài lông kia nhiều
Lưng nhỏ đúng huyệt lớn
Chân dài không biết mệt)

Bài thơ nghiêm chỉnh, không mang tính chất tục, vì chỉ là một bài dạy về nhân tướng học. Nhưng không hiểu có anh chàng nào đã dịch ra tiếng Việt, mà chính bài thơ tiếng Việt đó khiến mình rất thú vị, vì nó mang đậm chất dân gian, lại hình tượng hóa một cách cường điệu mấy câu thơ chữ Hán rất sinh động. Nghe cứ như là ca dao Việt Nam vậy:

Những cô má đỏ hồng hồng,
Nước lồn tát mấy gầu sòng cho vơi.
Lại kìa mấy ả mi dài,
Lông lồn đốt được một vài thúng tro.
Những cô lưng thắt tò vò,
Lồn kia có thể chở đò sang ngang.
Những cô cao cẳng chân giang,
Một đêm đéo hết cả làng trai tơ.
Source

Bỏ chạy Bắc Kít vào năm 1954, khi là đứa con nít mới lớn, nhưng GNV cũng có một mối tình "chị em" như của Hoàng Cầm.
Của ông đã thảm, của Gấu thảm hơn nhiều.
Đó là mối tình với Cô Hồng Con, trên TV đã lèm bèm nhiều lần.
Hồi nhỏ ông cụ Gấu mất sớm, vì họa đảng phái hồi đầu "Kách Mệnh", chữ của Bác Hồ, bà nội Gấu lúc nào cũng nói vào tai lũ cháu, thế nào rồi con mẹ chúng mày cũng bỏ chúng mày đi lấy chồng!
Sợ mất mẹ quá, thằng cu Gấu cố kiếm một cô gái thay cho mẹ, khi mẹ đi lấy chồng! 

Cô Hồng Con sau bị cả miền đất Bắc Kít bỏ đói, trong căn nhà gạch của bố mẹ cô, là địa chủ, đã bị Cái Ác Bắc Kít làm thịt. Cô bị bịnh sốt thương hàn, khát nước quá, nửa đêm lén bò ra cái ao ngay ngoài cổng nhà, và vừa đến mé ao, thì gục chết.
Làm sao mà Gấu không thù cái xứ sở khốn kiếp đó cho được!
Hà, hà!

Tính lèm bèm thêm về cái vụ Hoàng Cầm nhận giải thưởng của nhà nước, nhưng kiếm chưa ra câu nói của ông, đành để tạm đó, tính sau!
*
Trên Blog NL, tưởng nhớ Hoàng Cầm bằng bài thơ của Mai Thảo:

Đặt tay vào chỗ không thể đặt
Mà đặt được thôi có làm sao
Mười năm gặp lại trên hè cũ
Cười tủm còn thương chỗ đặt nào (1)

(1) Nguyên văn, trong tập thơ Ta thấy hình ta những miếu đền

*

Cái chỗ không thể đặt, được Henry Miller đặt tên cho nó, mới bảnh làm sao:
Nơi chốn âm u và ẩm ướt, Thượng Đế thường xuyên lẩn trốn loài người, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo.
Tuyệt.
Đọc Miller, là thể nào cũng mò tìm những xen ông tả cuộc cực khoái, đốt đuốc chơi… Em đó!
*
Bùi Giáng thích nói đến cái giống của đàn bà.
Ông than khóc Marilyn Monroe:

Giữa hư vô nếu ta còn
Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta
Úp môi ôm mặt khóc òa
Cồn lê lên miệng là ba bốn lần

Ông thích dùng chữ lá cồn [lại nói lái]. Một tập thơ của ông có tên là Lá Hoa Cồn.
Bài Em Là:....
Quên luôn cả lá cồn
Quên nước nguồn nước suối
Vì nhớ em luôn luôn.

Lá, lá diêu bông, lá đa:

Sáng trăng em tưởng tối trời
Em ngồi em để sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời. 

Nhưng, tuyệt nhất, theo Gấu, là những dòng ca dao sau đây, khi lá không còn là lá, mà trở thành một cái gì thật trong, thật sạch, thật gần gũi. Và thật thèm.
Anh đi, em ở lại nhà
Cái dưa thời khú
Cái cà thời thâm.
[Note: Một cái lá dưa thì khú, hai cái cà thì thâm, vì thiếu bàn tay anh chăm sóc!]


Nghe lời nhạc TCS, có lẽ cũng nên liên tưởng tới những câu ca dao trên thì mới thật đã.

Lá khô vì đợi chờ mà đi với Cái dưa thời khú, mới thật là tuyệt cú mèo!
Đang trừu tượng bật sang liền cụ thể, thế mới tài tình!
*
Cũng như đời mình quá âm u...  làm nhớ tới Henry Miller:

Nhắc tới Henry Miller, Gấu chợt nhận ra một điều, ông này là "sư phụ" của một nhà văn nhà thơ Việt Nam, Phạm Công Thiện. Ông hay nhắc tới sư phụ, nhưng chưa hề nhắc tới những đoạn tuyệt vời nhất của sư phụ, tức những đoạn viết về lá.
Và đây là một thiếu sót rất lớn. Gấu nhớ là có lần, nhà văn Mẽo, John Updike, trong một bài viết, đã thẳng tay phạng một phê bình gia, về cái chuyện, làm một cái tổng kê, vậy mà bỏ qua một xen thật là tuyệt vời của Miller!
Xen đó mà bỏ qua thì thật là quá uổng, quá thiệt thòi, cho người đọc!
Đó là xen Henry Miller hồi nhớ, khi còn nhỏ, học dương cầm, mê cô giáo dậy dương cầm, không biết làm sao tỏ tình. Bữa đó, biết trước, cô giáo sẽ phải cầm tay chú, bắt đập đàn, bèn kín đáo, mở mấy cái nút quần, cho thằng nhỏ phóng ra ngoài, dương oai diệu võ, và đúng lúc cô giáo đưa tay xuống, tính cầm tay thằng học trò, thì thằng con nít bèn đưa ngay thằng nhỏ cho cô giáo.
Cô giáo giật nẩy mình, tát cho thằng học trò một cái.
Nhưng ngay buổi chiều hôm sau, thằng bé lén đi theo cô giáo về nhà, và đè được cô giáo ra trên thảm cỏ trước nhà cô.
Cô giáo cũng chỉ chờ có thế!
Source

*

Hút vậy hại sức khoẻ lắm.
Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới ngon. Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không muốn sống đau ốm, thế nên cho trách giời một tí.

Để người châm hộ không ngon: Tuyệt!
Gấu về Kinh Bắc hai lần, chưa từng điếu đóm ai là vậy!

Câu của Hoàng Cầm, sự thực không có nghĩa ẩn dụ, mà là kinh nghiệm của dân ghiền hít thuốc lào. Bạn phải cầm cái khẩu súng ba dô ka, rồi lấy tấn, rồi hít, đến lệch người qua một bên, thì mới đã, thật đã.
Hồi đi cải tạo tại nông trường Đỗ Hòa, có tay trưởng Đội, tên Sơn, vì có nhiều Sơn, nên ông này có thêm cái đuôi, Sơn Mê Ô. Gấu lúc đầu cứ nghĩ ông dân Tây, chỉ đến khi thấy ông kéo pháo mới vỡ ra đây là ông Sơn Méo!
Kéo pháo đến lệch cả mồm qua một bên, mắt nhắm tít, mà chỉ được kéo có một nửa “ao” thuốc!
Thế mới tài tình!
*

Trong cuốn tự thuật 'Sống để kể chuyện', Garcia Marquez kể, lần đầu ông viết "Bão Lá", và đưa bản thảo cho một người bạn, anh bạn liếc qua, rồi trề cái môi, thuổng Antigone của Sophocles. Ngớ người, GM đọc lại bản thảo, vừa sướng như điên vì tự hào, vậy là ta đâu có thua gì Sophocles, vừa đau khổ vì cái chuyện thuổng mà không biết là mình thuổng đó, và trước khi đưa in, chàng o bế ‘tút tít’ lại nó, sao cho bớt mùi Sophocles, và đi thêm một đường đề từ, nhắc tới món nợ này.
Nhưng đâu phải chỉ có Sophocles. Những bản văn đầu tay của ông đầy mùi Faulkner, đến nỗi, có thể nói, ông là tên đệ tử y bát của Faulkner!
Trong trường hợp Nhớ Bướm Buồn, món nợ Kawabata thật dễ nhận.
Vào năm 1882 Garcia Marquez viết Người đẹp ngủ trên máy bay, trong đó ông có nhắc tới Kawabata. Ngồi ghế hạng nhất trên chiếc phản lực jet bay qua Atlantic bế bên một em đẹp ơi là đẹp, ngủ suốt chuyến bay, “nàng ngủ đẹp đến nỗi có những lúc tôi nghĩ, nàng chơi mấy viên thuốc không phải để ngủ mà để chết”, [ J'ai toujours cru qu'il n'y a rien de plus beau dans la nature qu'une femme belle. De sorte qu'il me fut impossible d'échapper même un instant à l'envoûtement de cette créature fabuleuse qui dormait à mon côté. C'était un sommeil si égal qu'à un certain moment je craignis que les pastilles qu'elle avait prises ne soient pas pour dormir, mais pour mourir].
Và trong lúc ngắm người đẹp ngủ, nhân vật kể chuyện của ông nhớ tới Những người đẹp ngủ của Kawabata, câu chuyện những anh già, giầu, mất nết, trả tiền cho một má mì, để được nhìn ngắm mấy em nhái bén khoả thân, bị thuốc, ngủ nằm phơi chim còn dzin, suốt đêm.
Nhân vật chính trong Những người đẹp ngủ, của Kawabata, là một anh già chỉ rình dịp phá luật chơi, [chỉ được quyền ngắm mà không được quyền sờ hàng,] anh già muốn làm thịt một em, làm cho em có bầu, hoặc ngạt thở rồi ngất đi vì bị trấn lột cái nguyên sơ trinh trắng, hoặc chính mình được nằm chết trong vòng tay trinh nữ!
*
Nhớ Bướm Buồn được mặc khải từ Những Người Đẹp Ngủ của Kawabata. Nhưng trước khi viết nó, GM thử tay nghề của mình bằng truyện ngắn sau đây: Người đẹp ngủ trên phi cơ.

Câu này thật tuyệt: Tôi luôn luôn tin rằng, trong thiên nhiên chẳng gì đẹp bằng người đẹp.[ J'ai toujours cru qu'il n'y a rien de plus beau dans la nature qu'une femme belle].

Gấu đã trải qua cái thú y chang GM, nhưng tục hơn nhiều, và do đó, sướng hơn nhiều. Gấu đã kể chuyện này một lần rồi, để thủng thẳng kiếm, trình cho độc giả Tin Văn đọc chơi!
Khác với GM, người đẹp ngủ trên phi cơ, với Gấu thì là người đẹp ngủ trên xe đò suốt chặng đường từ Mỹ Tho về Sài Gòn.
*
Chuyến đi từ Tiểu Sài Gòn lên San Jose thăm gia đình bạn C, khi nghe tin ông anh mất, không ngờ làm nhớ tới một chuyến đi, ngày nảo ngày nào, từ Sài Gòn về Vĩnh Long
Lần đó, Gấu Cái đang học trường nữ phạm. Kêu Gấu xuống đóng học phí nội trú, hình như vậy.
Thường, Gấu chạy xe tới nhà HPA, ở khu Chợ Đũi. Gửi xe tại đó, lấy xích lô ra bến xe đò Miền Tây.
Lần về, ngồi cạnh một em nhà quê lên thành phố. Hỏi, cô nói, muốn lên khu Xóm Dệt Hoà Hưng, để tìm cô bạn.
Trên đường, cô để cái nón lên che đùi, và khi Gấu ‘vô tình’ đưa tay xuống bên dưới cái nón, thì cô lại để yên, thế là Gấu hiểu liền, cô để cái nón, để cho Gấu dễ bề làm ăn!
Và trong suốt chuyến xe, cô nằm lim dim ngủ, mặc cho bàn tay thằng cha kế bên muốn làm gì thì làm, ở bên dưới cái nón lá.
Tới bến xe, cô biểu, chiều rồi, lên Hoà Hưng chắc cũng không đủ thì giờ tìm địa chỉ người bạn, hay là anh cho về nhà anh ngủ đỡ một đêm, sáng mai anh đưa em lên trên đó.
Thế thì còn gì bằng. Thế là Gấu dặn cô đứng chờ ngay tại bến xe, rồi lấy cái xích lô, tới nhà HPA, lôi xe Honda ra, chạy ra bến xe đò lấy hàng, đưa về nhà, ở chung cư Bưu Điện số 29 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn.
Sáng hôm sau, cô nói, thôi, anh cho em ở đây thêm vài bữa nữa.
Nhưng anh phải đi làm.
Thì anh cứ đi làm. Anh khóa cửa lại, nhốt em ở trong nhà, trưa về nhớ mang cho em cái gì ăn nhé!

Chuyến đi San Jose, Gấu cũng gặp một cô gái như vậy.
Chán nhất, là, tới bến xe gặp bạn C. đứng đợi, Gấu chẳng làm ăn gì được.
Hơn nữa, cô gái có cô em đem xe tới rước. Gấu chỉ hỏi vội được số phôn.
Khi Gấu phôn, tính gặp lại, kiếm tí cháo, số phôn dởm!

Cái cô gái đi cùng chuyến xe đò ở nhà Gấu đến cả chừng tuần lễ. Có vẻ như cô không vội rời Gấu, còn Gấu thì hoảng quá, nhất là những lần mang đồ ăn trưa về cho cô, mi một cái, rồi bye bye, khoá cửa, đi làm, nhìn quanh, cảm thấy hình như hàng xóm bắt đầu nghi Gấu có chuyện mờ ám gì đó!
Thế là một buổi sáng Thứ Bẩy đẹp trời, lấy Honda đưa nàng lên Hòa Hưng, Ngã Tư Bẩy Hiền, nơi em nói có cô bạn cùng quê đang làm nghề dệt vải, và trong khi em đang ngơ ngác tìm số nhà, Gấu phóng xe chạy như bay, chẳng hề nhìn ngoái lại!
Khốn nạn thật!

Cái tay nhà văn Nhật, Mishima, sau tự sát theo kiểu kiếm sĩ, cũng có một xen, tả một anh lính bị thương nặng, muốn đi mà không làm sao đi được, mắt cứ ngước nhìn mấy bà, khẩn khoản cầu xin một điều gì đó, và một bà hiểu ra, bèn vạch vú, cố nặn ra một giọt sữa nhỏ vô miệng liệt sĩ, và thế là liệt sĩ mỉm cười thanh thản ra đi!
Sến cô nương kể huyền sử Chống Mỹ Cứu Nước, về những chàng trai Bắc Kít, sau khi nhỏ máu viết huyết thư tình nguyện vô Nam, thì, đúng vào buổi tối, sáng hôm sau xuất quân, được Đảng cho gặp một 'thánh nữ', chuyên giữ nhang khói ngôi đền thờ của Đảng, và được “khai sáng”!

Thành thử một đấng đàn ông, khi ra đi, là chỉ muốn nhớ lại, hoặc là cái vú của bà mẹ, hoặc là cái bướm của một em!
Bạn chọn thứ nào?

Vĩnh biệt Hoàng Cầm

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này,
Biến thành ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....

Theo GNV, để vinh danh Hoàng Cầm - và cả nhóm của ông, những con người làm nên dòng văn chương Nhân Văn Giai Phẩm, trước khi Miền Bắc qui hàng chế độ toàn trị, đành để cho nhà nước "pha lê hóa"- là phải đọc họ song song với những nhà thơ Nga, không phải Mayakovsky, mà là Mandelstam, theo đúng tinh thần Brodsky:

Có một giả tưởng quái đản cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn, Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. [It’s an abominable fallacy that suffering makes for great art. Suffering blinds, deafens, ruins, and often kills]. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm [gifted].
Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.
Joseph Brodsky: Ai điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980].

Cơ bản, tài năng đếch cần lịch sử. [Basically, talent doesn’t need history].
Hãy nhớ lại những tài năng tiền chiến, đếch cần tới Mùa Thu Lịch Sử sau đó. Thê thảm hơn, họ bị nó nghiền nát bấy, biến thành, hoặc đao phủ hoặc nạn nhân. Người đọc chẳng đã sửng sốt vì những cái độc cái ác đầy rẫy ở trong sổ Ghi của Trần Dần, chúng đâu làm cho tài năng của ông lớn thêm lên đâu? Một cách nào đó, phải coi hành động tiêu diệt nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như là một hành động sát nhân.
*
La part de l'élément personnel est, en effet, dans le Bruit du temps, réduite à l'extrême. Certes, Mandelstam décrit les lieux de son enfance, sa famille (là Mandelstam a un compte personnel à régler avec son milieu familial trop provincial, trop en dehors de l'histoire), les livres qui l'ont formé, l'école qui l'a policé, les visages et les visions qui l'ont marqué. Mais l'enfant ou l'adolescent n'intervient presque jamais, ne disscourt pas, ne s'analyse pas: il se contente d'être le regard qui se pose sur les objets et les hommes pour laisser agir et parler l'époque. Car Mandelstam ne cherche pas, comme il nous le dit, à reproduire le temps, mais à le scruter, à rendre compte de sa cassure, à comprendre pourquoi sa beauté était triste, sa force impuissante, ses jours condamnés. La clé historiosophique de ces mémoires intérieures doublées d'un véritable encyclopédie de la vie russe, nous la trouvons de nouveau dans l'avant-dernier fragment. Le XXe siècle était tout entier sous le signe de “l'être”, mais “les sources de l'être” auxquelles il s'abreuvait, ne coulaient que pour elles- mêmes, sans pouvoir constituer une force historique. “Pour moi, pour moi, pour moi dit la revolution; tout seul, tout seul, tout seul répond le monde ".
Nikita Struve, trong bài giới thiệu tản văn của Mandelstam, Tiếng động thời gian, bản tiếng Pháp, Le Bruit du Temps. [Trích đoạn]

Hoàng Cầm cũng nói như vậy, về thơ của ông:
Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn
(Tâm tình với bạn đọc talawas)
Hoàng Cầm

Tập thơ Về Kinh Bắc (NXB Văn học 1994) không được nêu tên trong danh mục những tác phẩm được Giải thưởng của Nhà nước Việt Nam lần thứ V, nhưng trong các tập thơ Bên kia sông Đuống (NXB Văn hoá 1993), Lá Diêu bông (NXB Hội Nhà văn 1993), 99 tình khúc (NXB Văn học 1999) được nêu trong giải thưởng, có rất nhiều bài nằm trong bản thảo Về Kinh Bắc, trong đó có đủ những bài thơ chủ yếu bị quy kết là phản động hồi những năm đầu thập kỷ 1980 (“Cây tam cúc”, “Lá Diêu bông”, “Quả vườn ổi”…). Để bạn đọc có dịp đọc toàn bộ tập thơ đã trở thành một di sản văn hoá nước nhà trong bản chính thức của nó, chúng tôi đã đề nghị chính tác giả Hoàng Cầm cung cấp tài liệu. Nhà thơ đã vui vẻ nhận lời và nhân dịp này, có đôi lời tâm sự với bạn đọc.
talawas
 

Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự "đỡ đầu" (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.
Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat [1] ), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả…
Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò [2] bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ "Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa" là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được.
Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù. Vì vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải sống, còn tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có giá trị thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoãn, cốt để được về. Tôi vừa đọc xong, anh ta chồm dậy, bắt tay tôi rối rít và cảm ơn cảm ơn hai lần liền, sau đó cho người đi mua phở cho tôi ăn. Anh còn tuyên bố: "Chúng tôi sẽ đề nghị để Tết này anh được về". Tôi mừng quá, viết thư về cho bà Yến [4] báo tin vui. Thế là suốt những ngày gần Tết năm ấy tôi cứ khấp khởi đợi chờ. Sau này tôi biết bà Yến nhà tôi cũng trong tâm trạng ấy. Sáng 30 Tết bà bắt anh con rể mang xe đến chờ ở cổng Hoả Lò suốt từ sáng tới tối. Nhưng thực tế là tôi không được thả như lời hứa của công an mà ngay mồng 4 Tết thì bị chuyển tới "xà lim bộ" [5] và tiếp tục bị giam, tổng cộng là 18 tháng.
Vì sao lại có chuyện thay đổi như thế? Có phải anh công an tên N. đã nói lừa tôi cốt để tôi nhận tội cho được việc của anh ta? Tôi cũng không rõ sự thực thế nào, cho đến một hôm sau khi đã ra tù, tôi tình cờ gặp một anh công an thụ lý khác (xin phép không nêu tên) ở quán bia Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Trông thấy tôi anh mừng lắm, anh mời tôi vào uống bia để tâm sự. Anh nói là anh đã ra khỏi ngành, và anh kể cho tôi một chuyện khá bất ngờ. Chuyện đại ý như sau: Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ [6] gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: "Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm". Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu [7] . Ông lập tức hạ lệnh: "Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!"
Thái độ cứng rắn đến nghiệt ngã của Tố Hữu với riêng tôi cũng như với các anh em Nhân văn-Giai phẩm rất nhất quán. Ngay cả đối với những sáng tác mà anh em chúng tôi tìm lối mới vào cuối những năm 1950 nói trên, ông cũng rất ghét, mặc dù không biết ông có đọc hay không. Lại nói là sau khi bốn người chúng tôi bật ra được thứ thơ ấy, ai cũng mãn nguyện vì đã lộ rõ cốt cách từng người. Riêng tôi thì ngay từ lúc viết xong Về Kinh Bắc, tôi đã tin là nó có giá trị, có đóng góp cho văn học nước nhà. Tuy tôi không dám truyền đi rộng rãi, chỉ cho vài người bạn đọc, nhưng rồi nó được tự động lan truyền, đặc biệt có những bạn sinh viên trẻ say mê nó lạ lùng. Phải nói tình yêu đối với Về Kinh Bắc có cái gì đó rất đặc biệt. Tôi không tin là tập thơ dễ hiểu chút nào, đặc biết là phần Nhịp một với "những đêm ngũ hành" kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Ngay nhà thơ Lữ Huy Nguyên, cố giám đốc NXB Văn học, cũng thú thực với tôi rằng: "Em in cho anh thì cứ in chứ nói thật là em chỉ hiểu được 1/4 tập thơ". Đến anh công an thụ lý N. sau khi tôi nhận tội cũng thú nhận: "Thực tình tôi chẳng hiểu anh nói gì, bây giờ anh khai ra tôi mới biết ý đồ chống Đảng của anh, thì ra anh thâm thuý thật!"
Việc chúng tôi sáng tác những tác phẩm mới nhanh chóng được báo cáo với Tố Hữu. Một người bạn được tham dự buổi họp tuyên giáo mở rộng kể với tôi rằng trong cuộc họp Tố Hữu đã cảnh báo: "Tụi Trần Dần Hoàng Cầm… bây giờ đang thực hiện đúng khẩu hiệu phục xuống sáng tác mà Văn Cao đã khởi xướng. Phải canh chừng và dập tắt ngay."
Đây là lần đầu tiên tôi nói rõ một số chuyện liên quan đến Về Kinh Bắc, nói ra để khép lại những cái đau buồn ấu trĩ của một thời. Bây giờ, tôi xin các bạn thưởng thức nó vượt qua mọi bối cảnh chính trị xã hội, thưởng thức nó như một tác phẩm nghệ thuật mà đến hôm nay tôi vẫn thấy hài lòng.
Hoàng Cầm
Nguồn

Phải nói tình yêu đối với Về Kinh Bắc có cái gì đó rất đặc biệt

Nikita Struve giải thích, với trường hợp Mandelstam: Tản văn của ông như một cơn mưa bui, une pluie de graines, phải mọc mầm trong tinh thần sáng tạo của độc giả.
Hãy học với Mandelstam nghệ thuật khó khăn, lắng nghe tiếng động của thời gian.
*
Về cái sự nhận tội, và sau này, nhận giải thưởng nhà nước, của Hoàng Cầm và “đồng bọn”, những người còn sống, như Lê Đạt, Gấu đọc trên TLS một cái thư độc giả, giải thích trường hợp Solz về nước, nhận giải thưởng của Putin, mời ông tới nhà uống trà… Thư thật tuyệt, độc giả thật hách, tiện đây post lại, và dịch… sau: 

Solzhenitsyn's return

[letters@the-tls.co.uk]
Sir, - Zinovy Zinik (Letters, December 5, 2008) asserts that the BBC documentary chronicling Alexander Solzhenitsyn's return to Russia from exile left a brief but important 1[?] exchange between the writer and his wife un-translated. As the director of The Homecoming, I find this baffling. It's May 27, 1994, and '" Solzhenitsyn is about to step on to Russian soil for the first time in two decades. "It's not the time or place to smile" he says to Natalya Dimitrievna in a murmur caught on y his radio mic and clearly subtitled in English. "But don't be too gloomy either" she advises. He replies "no a girl, a strong, thoughtful expression!" before heading down the aircraft steps. One can interpret these very private remarks sympathetically or not. One can question whether we to should have included them in the finished film. I felt they were relevant and in some small way an insight into a historic moment. What one can't claim is that English viewers were in any way short-changed.
In accepting, shortly before he died, a top award from Vladimir Putin, Solzhenitsyn was, in Zinik's eyes, guilty of a "heartbreaking betrayal of everything that he said he stood for". I spent more than two months with Solzhenitsyn crossing Siberia by train en route to Moscow. On many occasions, he and his family boiled over with frustration at the fact that he was cocooned by be apparatchiks from real encounters with former zeks or ordinary citizens who had followed Solzhenitsyn’s dictum "not to live by the lie" and were desperate to meet their a hero. The Solzhenitsyns were far from unaware of the dark irony - at low points we all wondered whether the journey, despite the family's h best efforts, was turning into a visit a to a Potemkin's village. One zek, Vladimir Shatkov, was so disappointed at Solzhenitsyn succumbing to the phoney blandishments of former KGB men that he accused him of "having lost his sense of smell". When I put this accusation to the author, he told me that evolution not revolution was the way forward. "There was a time", he said, "when it would have been right to stage trials as they did in Germany. But I'm realist enough to see from the way the winds of history are blowing that no one will ever bring the communists and socialists to trial no matter how many people they might have slaughtered. Those are the winds of history." Instead he believed his job was to help "re-educate people. What they hear flies t- in the face of all they've learnt. Yet still they smile and welcome me and hear me out. So I can't possibly adopt an abusive tone. It wouldn't help to be rude."
For what it's worth, I think that Solzhenitsyn would have regarded it as a betrayal not to have engaged with Putin. He had a duty which he would not shirk, regardless of the criticism or occasional ridicule, to shine a light on Russia's terrible past and those values which he believed might deliver for it a better future.
As always with Solzhenitsyn, accepting the prize was highly considered - the product if you like of "strong thoughtful expression". As the writer told Der Spiegel in one of his last interviews, "in accepting the award I expressed the hope that the bitter Russian experience, which I have been studying and describing all my life, will be for us a lesson that keeps us from new disastrous breakdowns".
The Gulag was an absolute evil. Rebuilding Russia is a real and practical task. The one required outright opposition whatever the appalling cost. The other needs participation to and engagement. When Solzhenitsyn accepted the State Prize from Putin, it's possible that, even for a moment, Russia was indeed reminded of past horror, present to moral jeopardy and the need for conscience to guide its future.
ARCHIE BARON
Wingspan Productions,
32-34 Gordon House Road,
London NW5
TLS 2.1.2009

Một độc giả TV, sau khi đọc thư tiếng Anh trên, phán:
Bài trong TLS về chuyện Solz. nhận giải thưởng rất hay, đó là thái độ của người quân tử. Dù sao trước khi trao giải thì nhà cầm quyền cũng đã hỏi trước đương sự, trao giải là công nhận ông đúng, tui sai. Cả hai đều có danh dự.

"There was a time", he said, "when it would have been right to stage trials as they did in Germany. But I'm realist enough to see from the way the winds of history are blowing that no one will ever bring the communists and socialists to trial no matter how many people they might have slaughtered.”
Có thời, phải đưa ra tòa, như họ đã làm ở Đức, nhưng tớ thì thực tế đủ để mà nhận ra, gió lịch sử đã xoay chiều, chẳng hề có chuyện đem mấy ông VC ra tòa cho dù chúng làm thịt bao nhiêu mạng.

Liệu có thể coi Mandelstam là… ‘đại ca” của những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, những tinh anh của Miền Bắc sau đều gục ngã trước nhà nước VC?
GNV nghĩ, được!
Cái chết của Mandelstam ở Cổng Trời Sibérie bảo đảm điều đó.
Ngay cả cõi thơ Acmeism, 1913, của Mandelstam và đồng bọn, gồm Gumilev, Anna Akhmatova, nữ thần thi ca Nga [phu nhân của Gumilev, ông này sau bị Stalin xử bắn năm 1921] cũng có gì tương tự với của nhóm Nhân Văn, với những Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt.

Cái từ Acmeism, và ý thức hệ của nhóm, tự thân chúng, chẳng có ý nghĩa: Acmeism đối với họ, là một ‘vọng tới văn hóa thế giới’ [‘a yearning for world culture’], đặt nặng ưu thế truyền thống thơ lên cái tôi thơ thẩn cá nhân, individual lyrical ego, phản ứng chống lại chủ nghĩa Symbolism, Tượng trưng – tìm kiếm tối tăm, tính nhạc trống rỗng, thờ phụng một cuộc sống sa đọa, thoái hoá, là tiểu sử của nhà thơ. [Donald Rayfield, trong bài giới thiệu tuyển tập thơ Osip Mandelstam: Selected Poems, nhà xb Penguin]. Những nhà thơ đàn anh của họ, thì cũng vẫn những nhà thơ Pháp đã từng ảnh hưởng lên Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt: Những Verlaine, Rimbaud.

Nói gục ngã trước nhà nước VC có vẻ “cường điệu”. Tất cả bọn họ gục ngã trước anh nhà thơ nhà quê, đố kỵ, ti tiện Tố Hữu. Một Tố Hữu với thứ thi ca đại chúng, viết cho đám đông, với cái trái đen thui thù hằn những kẻ có tài hơn ông, đã cản đường cả một cõi thơ tưng bừng nở rộ cùng với chiến thắng 1954 trước thực dân Pháp, trước hoà bình vừa được tái lập. Đọc bài của Hoàng Cầm viết về Nguyễn Đình Thi, đọc những gì Tố Hữu nhân danh Đảng hành hạ nhóm Nhân Văn, mới thấy đau. Chẳng dính dáng gì tới chủ nghĩa này nọ, mà chỉ do lòng đố kỵ, ghen tuông của một nhà thơ nhà quê, mà tiêu tan cả một thời đại thơ ca. Kinh thật

*

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả, để có sự ổn định. Chúng ta phải chọn lựa giữa hạnh phúc và điều mà dân chúng gọi là nghệ thuật cao.
Chúng ta hy sinh nghệ thuật cao.
Aldous Huxley, Brave New World
[Manguel trích dẫn, trong Thư viện về đêm, The library at night]

Tôi không tin là tập thơ dễ hiểu chút nào, đặc biệt là phần Nhịp một với "những đêm ngũ hành" kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Ngay nhà thơ Lữ Huy Nguyên, cố giám đốc NXB Văn học, cũng thú thực với tôi rằng: "Em in cho anh thì cứ in chứ nói thật là em chỉ hiểu được 1/4 tập thơ". Đến anh công an thụ lý N. sau khi tôi nhận tội cũng thú nhận: "Thực tình tôi chẳng hiểu anh nói gì, bây giờ anh khai ra tôi mới biết ý đồ chống Đảng của anh, thì ra anh thâm thuý thật!"
Việc chúng tôi sáng tác những tác phẩm mới nhanh chóng được báo cáo với Tố Hữu. Một người bạn được tham dự buổi họp tuyên giáo mở rộng kể với tôi rằng trong cuộc họp Tố Hữu đã cảnh báo: "Tụi Trần Dần Hoàng Cầm… bây giờ đang thực hiện đúng khẩu hiệu phục xuống sáng tác mà Văn Cao đã khởi xướng. Phải canh chừng và dập tắt ngay."
Đây là lần đầu tiên tôi nói rõ một số chuyện liên quan đến Về Kinh Bắc, nói ra để khép lại những cái đau buồn ấu trĩ của một thời. Bây giờ, tôi xin các bạn thưởng thức nó vượt qua mọi bối cảnh chính trị xã hội, thưởng thức nó như một tác phẩm nghệ thuật mà đến hôm nay tôi vẫn thấy hài lòng.
Hoàng Cầm
*

V/v nhân vật Tố Hữu này, Melville có một câu thật thú: “Chỉ cần một thằng cà chớn, là những kẻ khác trở thành cà chớn, và cả vũ trụ, cà chớn.”
[Il suffit qu’un seul homme soit irrationnel pour que les autres le soient et pour que l’univers le soit. Borges trích dẫn, trong bài viết Herman Melville: Bartleby (1944), trong Livre de préfaces, cuốn sách của những lời tựa].
Ui chao, không lẽ chỉ một Tố Hữu mà cả một miền đất Bắc Kít trở thành như xừ lúy ư?
*
Đọc những gì gì viết về Hoàng Cầm của những đấng tài ba, mới nhận ra một điều, thật khó mà sờ vô cõi thơ của ông, nếu không đặt ông vào trào lưu chung của thi ca nhân loại, nhất là, vào cùng dòng những nhà thơ Nga bị Đảng bách hại. Cả hai cõi thơ có rất nhiều nét giống nhau đến lạ lùng. "Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, đúng như TTT đã từng viết:
Ít nhất, chúng có chung một nỗi buồn. 

La part de l'élément personnel est, en effet, dans le Bruit du temps, réduite à l'extrême. Certes, Mandelstam décrit les lieux de son enfance, sa famille (là Mandelstam a un compte personnel à régler avec son milieu familial trop provincial, trop en dehors de l'histoire), les livres qui l'ont formé, l'école qui l'a policé, les visages et les visions qui l'ont marqué. Mais l'enfant ou l'adolescent n'intervient presque jamais, ne disscourt pas, ne s'analyse pas: il se contente d'être le regard qui se pose sur les objets et les hommes pour laisser agir et parler l'époque. Car Mandelstam ne cherche pas, comme il nous le dit, à reproduire le temps, mais à le scruter, à rendre compte de sa cassure, à comprendre pourquoi sa beauté était triste, sa force impuissante, ses jours condamnés. (1)
Nikita Struve, trong bài giới thiệu tản văn của Mandelstam, Tiếng động thời gian, bản tiếng Pháp, Le Bruit du Temps. [Trích đoạn]

Có một điều khiến tôi lạ lùng, là thơ Hoàng Cầm và thơ Quang Dũng luôn nhắc nhở về một quê hương trong mù sương nào đó, luôn u ẩn một nỗi hoài nhớ nào đó không thể gọi tên. Phải chăng, tự xa xưa, xứ Đoài của Quang Dũng và Kinh Bắc của Hoàng Cầm từng là nơi những người lính và những nghệ sĩ Chàm lưu lạc đã chọn làm quê hương thứ hai ? Trong thơ Quang Dũng rắn rỏi một nỗi niềm chiến sĩ, còn trong thơ Hoàng Cầm tha thướt những nét hoa văn những dải lụa đào nghệ sĩ. Họ như từ quá khứ đến với ta, họ vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa đắm đuối yêu thương vừa không tương hợp với thế giới này. Tất cả những mâu thuẫn ấy đã hiện rõ trong thơ Hoàng Cầm. Và chính nó đã làm nên sự khác biệt của thơ ông.… 

Có người nói thơ Hoàng Cầm như những lẩm nhẩm bùa chú, lại như một nghi lễ thờ cúng, nó kính cẩn mà hoang sơ. Với một thế giới thơ như thế, người ta chỉ nên chấp nhận chứ không cần giải mã. Và theo tôi, cách đọc thơ Hoàng Cầm là bất chợt đọc một đoạn thơ nào đó trong một bài thơ nào đó của ông. Rồi ngớt. Rồi lại đọc ở một lúc khác. Đó là cách đọc những cơn mưa rào, là sự đồng cảm tự nhiên và thốt nhiên với chính thế giới mà mình đang sống cùng với thế giới mà mình chưa biết nhưng có thể sống. Thơ Hoàng Cầm kết nối được những thế giới khác nhau như thế để cho ta cảm giác vừa mơ hồ vừa rõ rệt về một giấc mơ.
Thanh Thảo
(1)
Phần cá nhân, riêng tư cực kỳ giản trừ, trong Tiếng động thời gian. Tất nhiên, nhà thơ miêu tả những nơi chốn tuổi thơ, gia đình, những cuốn sách tạo nên ông, ngôi trường rình mò ông, những khuôn mặt, những viễn ảnh ghi dấu ông. Nhưng đứa bé và chàng thanh niên vừa mới lớn vờ hết, nó hài lòng, là cái nhìn đặt lên sự vật, con người, và cứ để cho chúng loay hoay cử động, nói lên thời đại.
Bởi vì Mandelstam không tìm cách tái tạo thời gian, nhưng mà là chăm soi, tìm hiểu, nhận ra bể vỡ, tan hoang, hiểu ra tại sao cái đẹp của nó thì buồn, cái sức mạnh của nó thì bất lực, những ngày của nó, bị kết án.

Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat [1] ), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả…
Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò [2] bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá.

Bạn đọc hai đoạn trên, mà chẳng thấy tâm trạng của hai nhà thơ có gì tương tự?
*
Tưởng nhớ Hoàng Cầm, với GNV là tưởng nhớ miền đất mà ông không thể rời bỏ, và cứ coi đó là may mắn của ông, mà cũng còn là tưởng niệm những nhà thơ ở một xứ sở khác, giống như ông, mà cũng khác ông, khi dám nhìn thẳng vào một tên khốn nạn mà Tố Hữu đã từng nâng bi, thổi kèn đồng, là Stalin, và chấp nhận đi tù, và chết. Thái độ của Mandelstam bảnh hơn Hoàng Cầm nhiều, và trong cái thái độ chấp nhận, cam chịu của Hoàng Cầm, có cái phần giải thích tương lai khốn nạn của đất nước Mít bây giờ.

Mandelstam chết vì bài thơ sau đây, vẽ chân dung Stalin: (1)

Mandelstam's poem on Stalin (November 1933)

We live, deaf to the land beneath us,
Ten steps away no one hears our speeches,
But where there's so much as half a conversation
The Kremlins mountaineer will get his mention.
His fingers are fat as grubs
And the words, final as lead weights, fall from his lips,
His cockroach whiskers leer
And his boot tops gleam.
Around him a rabble of thin-necked leaders—
fawning half-men for him to play with.
They whinny, purr or whine
As he prates and points a finger,
One by one forging his laws, to be flung
Like horseshoes at the head, the eye or the groin.
And every killing is a treat
For the broad-chested Ossete. (1) 

(1) "Ossete." There were persistent stories that Stalin had Ossetian blood. Osseda is to the north of Georgia in the Caucasus. The people, of Iranian stock, are quite different from the Georgians. 

Mandelstam: Chân Dung Bác Xì [Tà Lỉn]

Chúng ta sống, điếc đặc trước mặt đất bên dưới
Chỉ cần mười bước chân là chẳng ai nghe ta nói,
Nhưng ở những nơi, với câu chuyện nửa vời
Tên của kẻ sau cùng trèo tới đỉnh Cẩm Linh được nhắc tới.
Những ngón tay của kẻ đó mập như những con giun
Lời nói nặng như chì rớt khỏi môi
Ánh mắt nhìn đểu giả, râu quai nón-con gián...

Trong cái nhục nhã hèn hạ của sĩ phu Bắc Hà, có cái đẹp nhất, và khốn nạn nhất, của giấc đại mộng, nhập Đàng Trong với Đàng Ngoài làm một.

Trong cuốn Koba The Dread [còn có tiểu tít, Tiếng cười và hai chục triệu, Koba là nick của Stalin, khi làm gián điệp trong lòng cách mạng cho mật vụ Nga Hoàng], Martin Amis cho biết Osip Mandelsatm chết trên con đường đi đầy tới Kolyma, trại tù khủng khiếp nhất trong những trại tù, tại một trại tù chuyển tiếp ở Vtoraya Rechka, vì đói và điên loạn [he died of hunger and dementia].
Varlam Shalamov, tác giả Koluma Tales, những câu chuyện về trại tù Kolyma, nói với Nadezhda, vợ của Osip Mandelstam, về trại tù của Solz, như được mô tả trong Một ngày trong cuộc đời Ivan Denisovich, tôi thèm được sống cả đời ở đó [that he could spent a lifetime ‘quite happily’ in the camp described in One day..]
*

Lại nói về giấc đại mộng của Mít, của Bắc Kít đúng hơn. Dân Nga cũng có một giấc đại mộng tương tự, và được cả thế giới háo hức theo dõi, như Amis kể lại sau đây.
Vào giữa thập niên 1960, ông có tham dự một cuộc trò chuyện, trong số những người tham dự có ông via của ông, cũng nhà văn, và một ông bạn của ông via, A.J. Ayer:

-Ở Liên xô ít ra họ đang xây dựng một cái gì đó, mang tính hướng thượng.
-Hướng thượng, positive, chưa thấy, nhưng họ đã tàn sát 5 triệu người.
-Sao ông cứ trở lại với con số 5 triệu.
-Nếu bạn quá chán con số 5 triệu đó, thì đây, có thêm 5 triệu mới!

Đúng là chuyện xẩy ra ở xứ Mít. Mất toi 5 triệu vào cuộc nội chiến, 30 Tháng Tư, tưởng yên tâm xây cái nhà Mít, mất thêm 5 triệu nữa, vì các cú tư sản mại bản, kinh tế mới, tù cải tạo, và làm mồi cho cá!

Bây giờ vẫn còn tiếp tục chết, vì mafia đỏ, vì xuất cảng người, vì đủ thứ, và có thể, còn vì cuộc chiến với anh Tầu Đỏ.

Vĩnh biệt Hoàng Cầm

*

For someone a fresh breeze blows.
For someone the sunset luxuriates
"Requiem" (Anna Akhmatova)

 Sông Ðuống trôi đi
Một giòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Hoàng Cầm
You will write about us on a slant
[Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về chúng tôi]
Joseph Brodsky
*
Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù. Vì vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải sống, còn tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có giá trị thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoãn, cốt để được về.
Hoàng Cầm [talawas]
Thật khó mà phản biện lại được.
Tuy nhiên, cũng xin post kèm đây, trường hợp Brodsky đi tù.
Trong bài viết về ông,
Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy, ký giả Mỹ David Remnick viết:
“Có nhiều nhà thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay lập tức anh hiểu trách nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người riêng tư, nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu tượng quốc gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà thơ, để mà bị trừng phạt, vào năm 1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ. Nhưng ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời, với phẩm giá cao, không cần lên gân thách đố nhà nước, và với sự tha thiết, sôi nổi, nhưng cũng thật trầm tĩnh, hiểu rất rõ ra rằng, cách mà ông trả lời sẽ làm dấy lên niềm kính trọng sâu xa, không chỉ từ bạn bè của ông, mà còn từ những người đã từng dửng dưng, và có thể, còn tỏ ra thù ghét ông."  (2)
Ui chao, tuyệt, tuyệt, tuyệt!
(2)
The lot had fallen on him by chance. There were many other talented poets at the time who might have been in his place. But once the lot fell upon him, he understood the responsibility of his position-he was no longer a private person but had become a symbol, the way Akhmatova had been in 1946, when she was picked out of hundreds of possible poets to be punished, and became a national symbol of the Russian poet, as Brodsky had become that day. It was hard for Brodsky-he had bad nerves, a bad heart. But he played his role in the trial impeccably, with great dignity, without challenge, and with fervor, calmly, understanding that by the way he answered he evoked deep respect not only from his friends but from those who once had been indifferent to him or even hostile.
Etkind: Protsess
Roberta Reeder trích dẫn, trong Anna Akhmatova: Poet and Prophet
Thi sĩ Hoàng Cầm của chúng ta không làm được như Brodsky, như suốt đời, ông chọn làm nhà thơ tình yêu.
*
Miền Nam cũng có, hơn một nhà thơ, chọn cho mình cái thương hiệu, “thi sĩ của tình yêu”.
Nhà thơ N.S, “kẻ thù”, và D.T.L, “bạn thân” của GNV!
Cái nick ông cho GNV, tên sa đích văn nghệ, phải đến lúc Gấu đọc Steiner, mới ngộ ra được, đúng như một độc giả TV, ngay mới đây, cũng nhận ra:

Vừa đọc bài của Jean-Claude Guillebeaud viết về nữ ký giả Anna Politkovskaia, trong quyển sách Sont-ils morts pour rien?, (1) của Jean Lacouture và Jean-Claude Guillebeaud.
Bà Anna Politkovskaia bị bắn chết lúc 4 giờ chiều ngày 7-10-2006 tại Moscou, bà viết những chuyện trái khoáy ở Nga. Câu cuối của bài viết này là :
Một vài người bạn của Ania, thích nêu câu hỏi mà Aliocha đặt trong  quyển Anh em nhà Karamazov của Dostoievski, một câu hỏi đúng lúc hơn bao giờ hết:  “Làm sao sống với bao nhiêu là điạ ngục trong đầu?”
(Ania - tên thân mật của bà)
Certains des amis d’Ania aiment citer cette question posée par Aliocha dans Les Frères Karamazov de Dostoievski, une question plus opportune que jamais : « Comment vivre avec tant d’enfer dans la tête? »
Bây giờ tạm hiểu vì sao Tin Văn ưa chửi, nếu không thì làm sao sống với những «Nhân Văn Giai Phẩm» trong đầu!
Vấn nạn này, [vì sao TV ưa chửi], GNV sẽ khai triển lớn lao mãi ra, trong những kỳ tới!
Hà, hà!
Tks. NQT

(1) Sont-ils morts pour rien? [Không lẽ họ chết uổng ư?]
Ui chao, cái tít này, dịch ra tiếng Mít, thành câu thơ hách xì xằng của TTT, đã từng bị chúng thuổng:
“Những người đã chết đều có thực”.
Cái tay thuổng này, ông Trời ban cho đủ thứ, không thiếu chi hết, trừ cái tít một bài viết, là câu thơ trên!
Quái đản thật.
Nếu không, thì chôm làm gì?

Bức hình Anna Akhmatova là từ số báo The Paris Review, Winter 1995, một trong những số báo đầu tiên Gấu có được, trong có bài phỏng vấn Steiner, và dịch liền, với số vốn tiếng Anh ăn đong, sau kinh nghiệm đọc Steiner lần đầu tại một thư viện Bắc Mỹ.
Còn vài tấm nữa, của một số nhà văn Nga, mỗi hình kèm bài viết hết sức là đặc biệt. TV sẽ đăng từng tấm hình, kèm bài viết.
Hình và bài về Gorky bật mí chi tiết, ông bị trùm mật vụ Nga Yagoda làm thịt.
Lạ một điều, nhờ đọc văn học Nga, thứ dưới hầm, mà Gấu hiểu ra văn học Bắc Kít, và càng hiểu thêm ra được về cái miền đất mà Gấu đã từng bỏ chạy!

Russian Portraits 

The portraits that follow are from a large number of photographs recently recovered from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the bottom of an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with dog), Nabokov, Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume entitled The Russian Century, published early last year by Random House. Seven photographs from that research, which were not incorporated in The Russian Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (in a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (with mother and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of Andreyev, Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on them. The photograph of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought to have an especial affinity with particular Russian authors were asked to provide the accompanying texts. We are immensely in their debt for their cooperation.

*

Daniil Kharms

Jennifer xin cống hiến bạn đọc bài viết của Ian Frazier (nhà văn Mỹ, thường viết văn "u mặc", humor, và "không-giả tưởng", non-fiction, hiện sống ở Missoula, Montana), về bức hình nhà văn Daniil Kharms

Trong số hàng triệu con người bị Stalin sát hại, có một nhà văn tức cười nhất, uyên nguyên nhất, của thế kỷ: Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù, vào năm 1942, khi 37 tuổi, tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn sống dưới dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là Liên Bang Xô Viết.
Thực tình là, không có một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian Frazier) cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về nó, và cố gắng học tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài tháng, đã ra bài làm ở nhà cho tôi như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms ra tiếng Anh. Đoản văn "Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin", (Anecdotes from the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập nhỏ tác phẩm của Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm 1991. Tiếng Nga, hai cuốn từ điển, và một cuốn sách văn phạm, tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của tôi thật là chậm như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng câu, niềm hân hoan của tôi gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn cả dự đoán của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: "Puskhin mê ném đá". Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán ra nổi cái gì sẽ tới liền sau đó.
Giữ được chất tiếu lâm, khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn vô cùng, ai nấy đều biết. Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến trình dịch thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về nó. Trong khi dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn tức cười nhất mà tôi đã từng đọc.
Ian Frazier, qua cuốn Văn Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil Ivanovich Yuvachev, tại Petersburg vào năm 1905. Cha ông, một nhà trí thức cách mạng bị cầm tù và đầy đi Siberia. Ông thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ quái. Ông đau khổ vì "buồn" (that he suffered from melancholy). Mê Gogol, Knut Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: "Kharms là nghệ thuật" (Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của "nhà vô sản", và sự vào tù của "nhà quí tộc", Kharms cảm thấy thích thú trong bộ dạng một nhà quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng lại nhinh nhích, hinh hỉnh, cộng thêm chiếc cặp da kè kè bên mình, trong là những… chiếc ly uống rượu bằng bạc! Để lôi kéo khán thính giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU, ông di dạo ở chót vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống vố, và la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về "biến cố quan trọng" kể trên!
Nói tóm lại, một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản. Đối với bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công của vở kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người đàn bà chờ… "được bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm kịch của ông là… "trò múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản".
Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ ông đi thăm nuôi, vào năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước đó. Mười bốn năm sau khi mất, tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử xếp ông vào danh sách: viết chuyện cho nhi đồng.

Ian Frazier
Nguồn

Nhạc sĩ Phạm Duy: 'Tình yêu nước tôi học từ Hoàng Cầm'

**

Làm người, là khó. Khổng Tử nói vậy
Làm người Việt Nam, còn khó hơn nữa.
Làm người Việt, mà lại có thực tài gần như là ...bất khả.
Mà cũng có người làm được đó ông ơi !!!!
HC qua đời tôi đọc lại thơ ông ấy, thấy quá hay.

Subject: Về: Hoàng Cầm
Ông Thiệu có một câu rất hay mà người di tản hải ngoại không học được. Những gì Hoàng Cầm khai trước CA là HC nói, đừng nên nghe. Chỉ những gì HC dồn vào ngòi bút sáng tạo đó mới là HC làm. Cái ấy thì để đời còn gì. Sao bà con ta hẹp bụng đến thế. Nếu không nhận thì HC chết mất rồi, đâu còn để lại được Men đá vàng, Lá diêu bông, chỉ có độc Về Kinh Bắc thôi. Còn trong số những người ở trong cơn sóng gió ấy thì HC là người khổ và nhục hơn cả, vì HC có tài thực, lại phê TH rất đau, nên HC bị TH căm, muốn loại trừ cho bằng được. Rõ là người VN đi đến đâu cũng khắt khe với nhau, sự nhân từ sao mà hiếm đến vậy! Khi PD về nước thì họ đua nhau chửi PD đến kinh hoàng mà chẳng hiểu cái sản phẩm để đời của PD đâu phải là vài ba cái chuyện "ứng phó" nhất thời ấy. Họ không đọc nên không biết nghệ sĩ xưa nay đều thế cả chứ có phải anh nào cũng cứng cổ được đâu. (1)

Cảm ơn ông đã thông tin.
Ở ngoài nước, dzư luận vẫn chia rẽ, một số người vẫn hẹp hòi, kỳ thị ông ấy.
Hoàng Cầm là một hình ảnh khốn khổ, điêu linh của dzân tộc mà chúng ta phải ghi nhớ và kính trọng.
Chưa kể những đóng góp lớn lao về nghệ thuật.
PS : Cái bìa Men Đá Vàng là HC vẽ.

Note: Những cái mail trên, GNV nhận được, từ bạn văn, trong mailing list.
Có thể vì bài viết của TV về Hoàng Cầm, cho nên mấy ông bạn này mới gửi kèm cho GNV.
TV delete tên người gửi nhận. Chỉ giữ nội dung, và sẽ lèm bèm… trong những kỳ tới
Trân trọng
NQT
(1)
TV đang cố gắng dịch bài viết của Steiner, Dưới con mắt Đông Phương, để chiếu sáng thêm, về điều mà một tác giả mail trên viết:
Họ không đọc nên không biết nghệ sĩ xưa nay đều thế cả chứ có phải anh nào cũng cứng cổ được đâu.
*

Họ không đọc nên không biết nghệ sĩ xưa nay đều thế cả chứ có phải anh nào cũng cứng cổ được đâu.
GNV sợ rằng, chính cái tay viết câu này, không đọc, nên không biết, gần đây thôi, có đến hai tay nghệ sĩ không ‘đều thế cả’, và thật ‘cũng cứng cổ’; một ông, độc một ông, đạp đổ đế quốc Liên Xô, là Solzhenityn, và một ông, đánh dấu chấm hết cho thứ văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, là Brodsky.
Và còn điều này mới thật…căng:
Giả như cố sống để mà viết văn làm thơ, có tác phẩm này nọ, thì tác phẩm như thế có xứng đáng hay không, cho dù đều là thứ tuyệt tác cả!

Hình như Đông phương có nói về cas này:
Lập thân tối hạ thị văn chương.

GNV có biết một tay, ở Miền Nam, tất nhiên, nói ‘không’ với cuộc chiến, nhất định không chịu đi lính cho Ngụy, vì lý do:
Một đứa bảnh như tao, làm sao có thể chết bèo như thế?
Những tay bỏ chạy bợ đít VC, thì cũng thế.
Tay nào mà chả bảnh: Phải đậu cái bằng Tú Tài hạng Bình, hoặc Ưu thì mới có lý do xin đi du học.
Nói ra thì lại chửi Gấu này tự thổi, nhưng đây chính là lý do Gấu đi thi chỉ cần đậu, đếch cần đậu cao, sợ lại phải bỏ chạy bợ đít VC!
Đậu sớm, ra trường sớm, đi làm sớm, có khá nhiều cơ may bỏ chạy, vậy mà cứ đến  phút chót lại ngãng ra. Cái tay sếp UPI của Gấu có lần đề nghị để tao lo cho mày đi Tokyo, chịu không, lắc đầu! Rồi RCA Manila cũng gạ, cũng lắc đầu!
Ui chao bảnh thật. Mãi về già, mới hiểu ra, sợ hụt cái suất tù cải tạo!

Không ai trách họ, con giun, cái kiến, thì cũng còn sợ chết nữa là con người. Nhưng, khó nói lắm. Đây là vấn nạn mà GNV này đã từng lèm bèm, nhân chuyện PD hồi chánh.
*
Trong kỳ trước, Hai Lúa có viết, PD làm nhớ tới Milosz - một người đi, một người về - và  bài viết ngắn của ông, về nhà thơ "bửn" của thế kỷ. (1)
Nay, nhân đọc Steiner, Những Bài Học của những Sư Phụ, Lessons of the Masters, bỗng nẩy ra một ý nghĩ như sau đây, cũng liên quan tới 'vụ án' PD.
Trong "Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng, 2005], ông 'nghiên cứu sinh', "NSUTND" [Nghệ Sĩ Ứu Tú của Nhân Dân] Steiner vinh danh Alain, một trong những Vị Thầy Suy Tưởng, Maitres à Penser.  Steiner viết, Alain - thầy của Simone Weil, André Maurois -  dậy học trò một câu thật quái dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải...  bẩn! Phải chiều theo luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải thỏa hiệp.
"Nỗi khổ" của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót! (1)
Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good], đó là:
[Hãy] kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và [hãy] tha thứ cho Lão Tặc Thiên. Tha thứ cho ông trời già độc địa.
[to experience the joy of thought and to pardon God].
Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
NQT
Vụ Án PD 

(1)
"Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives'".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.

Tưởng niệm  Hoàng Cầm

Để tưởng niệm thi sĩ HC, chúng ta hãy đọc ông song song/qua một số thi sĩ Nga, người nào cũng có một số phận bi đát, thê lương, có người phải trả giá bằng cái chết, khi dám đối đầu với nhà nước Liên Xô.
Cũng là một cách vinh danh Hoàng Cầm, khi ông dám viết ra điều sau đây, không hề ngụy biện về cái sự yếu đuối của ông:
Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù. Vì vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải sống, còn tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có giá trị thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoãn, cốt để được về.
Hoàng Cầm [talawas]

*
Subject: Về: Hoàng Cầm

Ông Thiệu có một câu rất hay mà người di tản hải ngoại không học được. Những gì Hoàng Cầm khai trước CA là HC nói, đừng nên nghe. Chỉ những gì HC dồn vào ngòi bút sáng tạo đó mới là HC làm. Cái ấy thì để đời còn gì. Sao bà con ta hẹp bụng đến thế. Nếu không nhận thì HC chết mất rồi, đâu còn để lại được Men đá vàng, Lá diêu bông, chỉ có độc Về Kinh Bắc thôi. Còn trong số những người ở trong cơn sóng gió ấy thì HC là người khổ và nhục hơn cả, vì HC có tài thực, lại phê TH rất đau, nên HC bị TH căm, muốn loại trừ cho bằng được. Rõ là người VN đi đến đâu cũng khắt khe với nhau, sự nhân từ sao mà hiếm đến vậy! Khi PD về nước thì họ đua nhau chửi PD đến kinh hoàng mà chẳng hiểu cái sản phẩm để đời của PD đâu phải là vài ba cái chuyện "ứng phó" nhất thời ấy. Họ không đọc nên không biết nghệ sĩ xưa nay đều thế cả chứ có phải anh nào cũng cứng cổ được đâu. 
Một tác giả ở trong nước.

Chúng ta hãy đọc hai nhận định trên song song với nhận định của Brodsky:
Đừng nghe HC nói mà hãy nhìn HC làm ư? Quan điểm của tôi là, mọi chuyện phải là Có hay Không, Yes or No. Một khi mà bạn viện đến hoàn cảnh, lúc đó tôi yếu quá, bịnh quá, một khi mà bạn bắt đầu tính đến chuyện biên tập đạo hạnh, l
à bạn đang đùa với lửa, đang tán tỉnh thảm họa. (1)
(1)

PERSECUTION AND EXPULSION

Volkov. The trial against you became a major event in Russian intellectual life of the 1960s. Speaking in your defense were many prominent figures of Russian culture. Akhmatova, of course, to whose circle you belonged during that period, but also Chukovsky, Paustovsky, and Marshak. Several of the reigning personalities of the period refused to be drawn into this affair. They tell the story that Solzhenitsyn, when they went to him for support, replied that he was not going to get involved, since persecution had never hurt a Russian writer. I am particularly interested in Dmitri Shostakovich's position in this affair, inasmuch as we worked together on his memoirs. Did Shostakovich sign the statement or letter to the authorities in your defense?
Brodsky. You know, I have no idea what Shostakovich did or didn't sign, but he certainly did stand up for me in a very active way. I don't know exactly how many times and in what form, but this was definitely the case.
Volkov. I remember, back in Moscow, Nayman told me about going to see Shostakovich in connection with your case. Nayman came with Akhmatova. Shostakovich's first question was, "Did he meet with foreigners?" When Nayman confirmed that fact, Shostakovich became very gloomy. For him, during that period, contact with foreigners that was not sanctioned by the authorities was a serious infraction of the rules of the game. Later his views changed, but at that point Shostakovich proceeded from a presumption of guilt in a situation like that.
Brodsky. Lord! That we should be discussing these categories now what Shostakovich did or didn't proceed from. This is all absolute drivel. The trouble with the state of morals in our homeland is precisely this endless analysis of all the nuances of virtue or the lack thereof. In my opinion, everything has to be either-or. Yes or no. I realize that circumstances have to be taken into account, and so on and so forth, but all this is utter nonsense because when you start taking circumstances into account, it's already too late to talk about virtue and just the right time to talk about the lack thereof. I think the individual should ignore circumstances. He should proceed from more or less timeless categories. When you start editing your ethics, your morality -according to what is or isn't allowed today-then you’re ready courting disaster.
Volkov: Conversations with Joseph Brodsky
*
Hoàng Cầm, thi sĩ hoàng tử của tình yêu ư? 

Hãy nghe Akhmatova phán:

Để ta ban cho thế giới một món quà
Bảnh hơn tình yêu
Liêm khiết hơn tình yêu
Vì không thể nào bị mua chuộc. (1)

(1)

SONG ABOUT SONGS

It will burn you at the start,
As if to breezes you were bare,
Then drop deep into your heart
Like a single salty tear.

And a heart full of spite
Will come to know regret.
And this sorrow, although light,
It will not forget.

Others will reap. I only sow.
Of course! When the triumphant horde
Of scythers lays the grain low,
Bless them, O Lord!

And so that I may lift
My eyes in thanks to You above,
Let me give the world a gift
More incorruptible than love.
1916

Nếu không nhận thì HC chết mất rồi, đâu còn để lại được Men đá vàng, Lá diêu bông, chỉ có độc Về Kinh Bắc thôi.

Đây là câu trả lời, của Brodsky, khi viết về ‘chỉ có Về Kinh Bắc thôi’, qua trường hợp Akhmatova:

“Anno Domini MCMXXI” là tuyển tập thơ sau cùng của Bà: trong 44 năm tiếp theo, Bà chẳng có cuốn sách nào của riêng Bà. Thời kỳ sau chiến tranh, nói về mặt kỹ thuật, thì có hai cuốn sách mỏng của Bà, gồm một số bài thơ trữ tình thuở thoạt đầu được in lại, cộng một số bài thơ thực sự ái quốc, cộng một dúm thơ tồi ca tụng, đón chào hòa bường. Dúm thơ tồi sau cùng này, được làm ra để đổi mạng cho con trai, nhờ nó mà anh được thả ra khỏi trại tập trung cưỡng bách lao động cải tạo, nơi anh đã trải qua 18 năm. Ba thứ xuất bản đó không thể coi là tác phẩm của riêng Bà, bởi vì những bài thơ thì đều được nhà nước tuyển lựa, mục đích của nó, là để bố cáo với thiên hạ Bà vưỡn còn sống, khỏe mạnh và trung thành với Đảng và Nhà nước. Tất cả gồm chừng 50 bài, và chẳng mắc mớ gì tới những tác phẩm được Bà sáng tác trong 4 thập niên đó.
Bởi vì với một nhà thơ thế giá như Bà, việc in ấn như thế có nghĩa, chôn sống Bà, với vài miếng ván đánh dấu ngôi mộ.
Joseph Brodsky [Bài giới thiệu tập thơ của Anna Akhmatova, do Lyn Coffin tuyển chọn và dịch thuật, nhà xb Norton, New York, London]

THE LAST TOAST

I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Akhmatova

Bữa nhậu chót

Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn mà ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt,
và cũng chẳng thèm thử cứu vớt,
chúng ta.

Tưởng niệm  Hoàng Cầm

Những gì Hoàng Cầm khai trước CA là HC nói, đừng nên nghe. Chỉ những gì HC dồn vào ngòi bút sáng tạo đó mới là HC làm. Cái ấy thì để đời còn gì. Sao bà con ta hẹp bụng đến thế. Nếu không nhận thì HC chết mất rồi, đâu còn để lại được Men đá vàng, Lá diêu bông, chỉ có độc Về Kinh Bắc thôi.
 *

26/05/2010

26/05/2010
Thư gửi Hà Sĩ Phu
Hoàng Hưng
Cái sự hoành hành của VC bây giờ, là hậu quả cái việc, ‘đừng nghe HC thú tội trước CA’ ngày nào!
Đó là ý của câu của Brodsky, một khi bạn mà cả với Cái Ác, là bỏ mẹ!
When you start editing your ethics, your morality -according to what is or isn't allowed today-then you’re ready courting disaster.
Volkov: Conversations with Joseph Brodsky

Bài thơ Mầu Tím Hoa Sim sở dĩ được quí mến nâng niu trân trọng, bởi vì nó hay, nó thực, nó tự nhiên, nó chi tiết đời thường… tất nhiên, nhưng nó càng trở nên của quí của hiếm, ấy là vì khi nhà nước bắt nhà thơ làm tự kiểm, thì ông bèn nghỉ chơi với nhà nước, và về nhà làm anh thơ nặng thợ đẽo đá, thồ đá.
Trong thế giới CS trên toàn thế giới, chưa hề có một trường hợp như vậy. Ông Trùm Mác Xít Lukacs phải khai tử cuốn Tân Thánh Kinh của chủ nghĩa CS, là cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp, Nguyễn Tuân phải bye bye Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Đình Thi phải từ bỏ thơ tự do, còn nhiều nữa…
*
Những gì Italo Calvio viết về Conrad xem ra có thể áp dụng vào trường hợp Hữu Loan, theo nghĩa này:
Chính cái sự nói không với chế độ, và cùng với nó, cuộc sống cực kỳ khó khăn sau đó, “bảo đảm” thơ của ông.
Thơ của tao đẹp như thế, vì đời của tao còn đẹp hơn thế.
Tao bận làm người đến quên làm thơ!
NKTV

Plus heureux que moi, vous vous êtes résignés à notre poussière natale.
Hạnh phúc hơn ta, tụi mi đành ôm mớ bụi quê hương.
Vous avez, en outre , la faculté de supporter tous les régimes, y compris les plus rigides.
Ngoài ra, tụi mi có tài, chế độ nào cũng bợ đít được hết, ngay cả thứ khốn kiếp nhất.
Ciroran: Sur deux types de société [Về hai thứ xã hội]
trong Histoire et Utopie [Lịch sử và Không tưởng]
*
"Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó rồi: Thơ Của Tôi."
Joseph Brodsky
[Cái phần đẹp nhất của Gấu, thì đã ở đó rồi: Những Ngày Ở Sài Gòn.
Và bây giờ: Istanbul ở Hà Nội!].
*
"A real 'wasteland' is much more terrible than any imaginary one".
Czeslaw Milosz: A Treatise on Poetry
Một "hoang địa" thật, thì khủng khiếp hơn bất cứ một hoang địa tưởng tượng nào.
*
L’individu ne vit pas une tragédie en perdant sa culture d’origine à condition qu’il en acquière une autre; c’est d’avoir une langue qui est constitutuif de notre humanité, non d’avoir une telle langue.
[Tạm dịch: Cá nhân không sống bi kịch, khi mất văn hóa gốc, nếu có được một văn hóa khác. Có được một tiếng nói khác, để tiếp tục làm người]
Todorov: Kẻ Bán Xới [L’homme dépaysé]

Note: Không biết nhà phê bình đọc câu này chưa?
Người phán nhảm, cái gì gì:
Lưu vong thường được mở đầu bằng một bi kịch chính trị hoặc một bi kịch kinh tế và kết thúc bằng một bi kịch văn hoá.

Ui chao mới đọc bài viết “Tại sao NHQ?” mới thấy tội cho nhà phê bình!
Ông trần tình với Cái Ác VC, tớ đâu có muốn ‘hưng cuốc’ như bác Hồ muốn ‘ái cuốc’ đâu! Khi phịa ra cái nick đó, Cuốc tôi quên mất là đã phạm thượng!

Tại sao Gấu?
BHD ban cho!
Tại sao Hai Lúa?
Thì cù lần như Hai Lúa chứ sao nữa!

Viết như thế để cho ông Cuốc thấy, bất cứ cái nick nào thì cũng có một lý do ‘tiềm ẩn, riêng tư’ nào đó.
Thật tội nghiệp, chỉ một mình ông Cuốc là không có.
Vậy mà nghe “bạn văn” xầm xì, khi mới qua, ông muốn kiếm điểm với hải ngoại.
Mà chắc thế thật. Nào là văn học dưới chế độ CS, nào là cả nước mù chữ, nào là sao chúng ngu thế... 

*
Tzvetan Todorov gốc Bulgarie. Ông kể chuyện những ngày đầu bỏ chạy quê hương, qua Pháp: Tôi tìm đủ mọi cách để hội nhập tối đa. Chỉ nói tiếng Tây, tránh hết mọi bạn quí cũ, đồng hương, đồng bào, tôi có thể nhắm mắt, mà vẫn nhận ra đủ thứ mùi rượu vang, đủ thứ phó mát khác nhau, của Tây, tôi mê toàn Đầm… cuối cùng, có một thằng Bulgarie mất đi, và thêm một thằng Pháp, nhân loại thì vẫn vậy: il y aurait eu à là fin de l’opération, un Bulgare de moins et un Francais de plus. La solde aurait été nul, sans perte ni gain pour l’humanité….

It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova

 Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc


Thai đố Lá Diêu Bông, hóa ra lại là thai đố mà viên y sĩ phải giải, khi nghe tiếng gọi cấp cứu của con bệnh ờ mãi tít Miền Nam. Muốn tới được, thì cần phải có cặp ngựa cho chiếc xe, kiếm hoài kiếm huỷ, điên tiết đá tung cái cửa chuồng lợn bỏ hoang, con quỉ xuất hiện với cặp ngựa. OK muốn cặp thì đổi nó lấy người làm Rose.
Giá đó nặng quá!
Bởi vậy viên y sĩ mới than, ta đã bị lừa!
Đúng vào lúc anh chiến sĩ VC, trong cuộc tử chiến với thế giới, cần hỗ trợ thế giới, thì bèn hỗ trợ Cái Ác Bắc Kít!

(1) Bài thơ trên, được chuyển thể thành tiểu thuyết, và dưới đây là bài điểm cuốn tiểu thuyết đó: THE STALIN EPIGRAM

Strongman

MICHA LAZARUS
đọc
Robert Littell
THE STALIN EPIGRAM
304pp. Duckworth Overlook. £14.99. 9780715639030

In November 1933, Osip Mandelstam composed what would become known as "The Stalin Epigram", a sixteen-line poem openly critical of the "Kremlin mountaineer", the "murderer and peasant slayer", Joseph Stalin. In May 1934, Mandelstam was arrested for "counter-revolutionary activity" and interrogated for two weeks, but was miraculously spared execution or imprisonment following an edict from on high to "isolate and preserve". He and his wife, Nadezhda, spent three years sentenced to exile from major cities, and lived peripatetically among friends and around Moscow for a further year on their return. In May 1938, however, Osip was arrested once more, and sentenced to a camp for five years. Shipped to Vladivostok, he was able to send a single note to his brother requesting "proper clothes"; he did not survive the winter. Nadezhda outlived him by forty-two years, eventually reconstructing much of his poetry from memory.
Such details became known in the West largely thanks to Nadezhda's magnificent memoir, Hope Against Hope (1970). An admirer of that book, Robert Littell met Mrs Mandelstam in 1979, towards the end of her life, a meeting he describes in the epilogue to The Stalin Epigram. The novel reconstructs the events of the four years from Mandelstam's composition of the "epigram" to his death by means of a fictionalized version of the contemporary voices of Osip and Nadezhda and their close friends Anna Akhmatova and Boris Pasternak, and the wholly fictional voices of Stalin's chief bodyguard, a beautiful young actress connected to the Mandelstams, and a sweet-natured weightlifting champion and circus strongman whose experiences of Stalinist criminal justice are compared to those of the highly strung and sensitive Osip.
Most of the story takes place around the time of Mandelstam's first arrest. The couple's poetic creativity and sexual liberality are set against the destructive and repressive Soviet bureaucracy, driven by a Stalin who is more physically decayed each time he appears. Littell doesn't stray far from the memoirs: his embroidery adds color and pace to a story much of whose imperturbable horror derives from the banality of the state machinery.
Color and pace, however, oddly lessen that horror. In order to translate from memoir to novel, Littell situates at the thematic centre of the novel a conflict between the sword and the pen, Stalin's steel mortality and Mandelstam's poetic immortality. The connection between the two, who in reality never met, is elaborated in fictional sequences of half-lucid delusions experienced by Mandelstam under duress. This is all very well for a story familiarly structured around agency and personality, protagonist, antagonist, tragic arc and fatal flaw; as such, Littell' s version is a swift and engaging piece of fiction. But the macabre pressure of the times is lifted in ills account, as the bureaucratic impersonality of events is transformed into a straightforward battle of wills.
The novel thus squanders the opportunity offered by historical fiction to vivify the past and populate its silences. The "voices" here shift uncomfortably between intimacy and expository formality, and sound artificial; the fictional characters imaginatively recreate the events from multiple perspectives, but (with the exception of Fikrit, the strongman) are too typical to add much. "You have to have lived through the thirties to understand", says Akhmatova in the novel, "and even then you don't understand." Perhaps this is true, although Nadezhda Mandelstam's retelling was both incisive and articulate. The Stalin Epigram is an entertaining, well-researched introduction, but the real story is in the· memoirs.
TLS JUNE 4 2010
 

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’