My Old Saigon
My Old Saigon
[Trích báo Văn 1967/9]
Mắt Bão Sài gòn, 8.3.1973 Thư trước báo cho em biết đi dậy học từ ngày 15.2, thư này báo đã bỏ dậy học 28.2. Bất định quá. Vào lớp chán quá, mặc dầu được học trò thương. Chắc anh khó có thể trở lại nghề cũ. Xem bộ anh thấy mình khá hơn xưa : chẳng còn cần đến những ánh mắt, nụ cười ngưỡng mộ tôn kính nữa. Khỏi khoác một bộ vó chẳng ra gì. Chẳng hiểu đúng không? Hết là thứ "ông giáo làng" phải không em? Còn gì nữa ? Anh nghĩ đến Mắt Bão. Hồi đầu anh tưởng tượng người đàn ông chết, người đàn bà mất tích. Hôm qua anh tưởng tượng câu chuyện sẽ được kể lại sau khi người đàn ông chết bằng chính người đàn ông. Trước mặt mọi người, người đàn ông chết hẳn hòi, có đám táng linh đình, đông đủ bà con thân hữu. Nhưng đó là trò lừa của hai người. Sau khi người đàn ông đã chết, do người đàn bà giết, hai người trở lại ngôi nhà cũ bên hồ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nhìn lại quãng đã qua. Chương mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn đang phân vân nên để cho người đàn bà đến nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối quyển tiểu thuyết là sự chờ đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong cái khu như cù lao phía bên kia hồ. Hồi anh viết Cát Lầy, anh đã có
ý ấy nhưng sau bỏ vì nghĩ nó tàn nhẫn, trêu
cợt người ta quá. Trong Cát
Lầy, Người đàn bà tên Thuận tự tử nằm bên
trong ngôi nhà khóa trái cửa một đêm
giông mà Trí kêu gào bên ngoài
trước khi ra bến xe đi với Diệp sáng hôm sau, thực sự không
chết. Anh định kết Cát Lầy
bằng đoạn Trí tìm thấy Hiệp và Thuận ở nơi khác,
lại đến thăm ngồi với hai người này một buổi tối, xong mới đi hẹn
với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ" quá phải không
em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ Sinh Nhật 13.3.1973 Hôm nay sinh nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước cái nào sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư không thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì là thất lạc của thất lạc... Chỉ biết hôm nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những chuyện lẩm cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài Pagode, hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi mãi" mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi nào, có đăng rồi mà quên ....... Hồi đó đó, nick của GCC là Sơ Dạ Hương, tên của một nhân vật, một nữ bá tước, trong Lâu Đài họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch, trong đó chỉ mỗi 1 từ có nghĩa, Hương, từ Lan Hương, tức Bông Hồng Đen! GCC còn nhớ, lần ghé báo Nghệ Thuật, Mai Thảo vừa cho ra lò cuốn Viên Đạn Đồng Chữ Nổi. Bèn ký tặng, và hỏi, cậu lấy đâu ra cái nick [bà] Sơ này? Vậy mà gần như không bao giờ GCC viết về MT, cho đến khi ông ngắc ngoải ở trong 1 nhà thương Cali, bèn vội đi một đường kỷ niệm gấp, emergency. NMG mang vô tận giường ông nằm, đọc, ông gửi lời cám ơn, phán, bây giờ nó viết dễ đọc, ngày trước, không làm sao đọc nổi văn của nó! Sở dĩ MT không chịu nổi
TTT, một phần cũng là vì cái đám “thế hệ
tiếp nối”, còn được gọi là nhóm” tiểu thuyết mới”,
của Sài Gòn hồi đó, chỉ chịu có mỗi TTT. Cứ thử tưởng tượng cái cảnh, MT đọc bài viết của GCC, trên Văn, về TTT, và nghĩ đến “phận mình”, là đủ hiểu! Hà, hà!Số phận 1 cuốn sách, cuốn MCNK,
thật là ly kỳ. Theo như Đinh Cường, nó được họa sĩ Ngọc
Dũng vội vã nhét vào valise, khi rời bỏ Sài
Gòn, vào những ngày 30 Tháng Tư.
Nhờ vậy Mai Thảo bèn in nó, nhưng kể như tuyệt bản. Thế rồi Gấu ra được hải ngoại, và nghe Nguyễn Đông Ngạc nói, tao có 1 bản, thế là bèn hỏi mượn, và trước khi đi, anh bèn “trăn trối” vợ, đưa cho GCC. Bà vợ còn bonus, cặp kiếng mát của ông chồng Nhờ vậy, mà độc giả Tin Văn được đọc nó. Lần ông anh mất, gặp bạn Chất, bạn nói, bà Hoa cằn nhằn hoài cái vụ mày tự động post truyện của ông Tâm, thế là bèn lấy xuống, nhưng nghĩ lại, nếu ông Tâm bực, thì ông đã nói rồi, thế là lại post lên lại. Cuốn "Những Ngày Ở Sài Gòn", cũng ly kỳ chẳng kém. Nhờ 1 anh lái sách, chắc nghi, cái tít như thế chắc ăn khách, bèn mang theo. Tay này hình như cùng quê Gấu Cái. Còn mấy cuốn sách dịch của Gấu, hắn cũng mang theo luôn. "Ngày Dài Nhất", thí dụ. Ra hải ngoại, nhìn thấy chúng, cảm khái chi đâu, tụi mi may hơn tao, xém 1 tí là hết gặp lại nhau! Va, petit livre, et choisis ton monde. Topffer Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày. Lien Hoang Nguyen replied to a comment on this.Lien Hoang Nguyen shared Kafka Bookstore's photo.Viết
xong sợ bị tác giả bảo xời đây không phải là
Đà Lạt của tui :(( Mỗi người đều có những thành phố cho riêng mình.Thành phố không được xây từ gạch đá, vôi vữa mà được xây bằng khao khát về một nơi chốn êm đềm cho tâm hồn cư ng... See MoreQuoc
Tru Nguyen Đọc, thấy thiếu, nếu nói về hương xa:
Đà Lạt là nghĩa địa của voi. Và nếu như thế, thiếu
Romain Gary, Les Racines du Ciel, thiếu Một Chủ Nhật Khác, thiếu
đám Triết Mít trốn lính, lên làm giáo
sư dạy DHDL... Được phần nổi, thiếu phần chìm của Đả Lạt
Thiếu cả 1 lô trên đây,
chưa nói tới Cội Rễ Nhà Trời. Thiếu những trang tuyệt vời
về Đà Lạt, trong MCNK
2515.
Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt
và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng
viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện
|
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì, Sơn Tây Bếp Lửa trong văn chương
Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC Mù Sương Hồi Ký Viết Dưới Hầm Nghĩ về phê bình Mây Bay Đi Nguyễn Du giữa chúng ta "Tạp Ghi" by Tuấn Anh Chữ và Việc TSVC Nhã Tập Truyện Kiều ABC Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu Truyện ngắn Võ Phiến Những ngày ở Sài Gòn nhà xb Hoàng Đông Phương Mộ Tuyết [Hồi bắt đầu đi làm] Happy Birthday GCC Cali 3.08 Cali Tháng Tám 2011
|
By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.
Có 1 thứ triết học, là, hiện sinh, mà cái mùi của nó, là, mùi bướm!
EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947.
Sài gòn bảnh hơn nhiều, có hơn 1 bướm "de Beauvoir"
Bướm "em lên anh nhé, mưa không ướt đất, bướm "mèo đêm, lao vào lửa", bướm "vết thương dậy thì, vòng tay học trò"
Bài trên tờ Điểm Sách Ăng Lê tuyệt nhất. Đi trước bài trên Người Kinh Tế
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails. By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.
EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the city’s liberation in 1944.
Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.
Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd.
Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”.
It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that.
Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period.
When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities.
The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them.
Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things.
Bàn của Gấu, hè đường Lê Thánh Tôn, nơi người bộ hành qua đường.
Cái Honda thường dựng trên hè đường, đầu chiếc xe tải...
manhhai
SAÏGON - Rue Catinat
đường Catinat, nơi ngã tư Lê Thánh Tôn - Đồng Khởi ngày nay
Avec le salon de thé "La Pagode" sur la droite !
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/5203227375/in/photostream/
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
June 3, 1974
Steiner: The Lost Garden (on Levi-Strauss)
Cuốn trên, sách gối đầu của GCC, Cô Út đem làm từ thiện, đành phải order cuốn mới, mới về.
Đã giới thiệu vài bài rồi.
Tuyệt nhất, là bài về Simone Weil, được vị bằng hữu O. dịch.
Tks
Trang Simone Weil
Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp:
Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi.
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ.
Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!
Phỏng Vấn Steiner
Tuy cũng thuộc băng đảng thực
dân [mới, so với cũ, là Tẩy], nhưng
quả là Sontag không đọc ra, chỉ
ý này, của Steiner, trong Bad Friday:
For Weil, the
"crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political
symmetry, to the degradation of the homeland.
Với Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân có hồi đáp liền tù tì theo kiểu đối xứng, cả về tôn giáo và chính trị, với sự thoái hóa ở nơi quê nhà, tức “mẫu quốc”.
Nhưng Bắc Kít, giả như có đọc Weil, thì cũng thua thôi, ngay cả ở những đấng cực tinh anh, là vì nửa bộ óc của chúng bị liệt, đây là sự thực hiển nhiên, đừng nghĩ là Gấu cường điệu. Chúng làm sao nghĩ chúng cũng chỉ 1 thứ thực dân, khi ăn cướp Miền Nam, vì chúng biểu là nhà của chúng, vì cũng vẫn nước Mít, tại làm sao mà nói là chúng ông ăn cướp được.
Chúng còn nhơ bẩn hơn cả tụi Tẩy mũi lõ, tụi Yankee mũi lõ.
Dong Trinh liked this.
Một năm nhìn lại!
Thế mới thấy, suốt 40 năm gian dối, xuyên tạc, dựng việc, dựng nhân vât... bóp méo lịch sử chỉ để ca ngợi một nhóm người, một tổ chức... đề rồi hôm nay ta nhận được quả đại bác bắn thẳng vào. Chỉ là mới bộ Giáo dục nhận trước phát đầu thôi, còn nhiều phát nữa. Vậy mới thấy "vải thưa che mắt thánh", sự thật muôn đời vẫn là sự thật!

Steiner còn bài “Thánh Simone-Simone Weil”, trên TV cũng đã giới thiệu.
For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality" theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take seriously, existentially, the question of the significance of human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or futility of political action and social design is not merely to risk personal health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The two individuals who have in our time not only taught or written or generated conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.
Le poète intraitable
Il ne peut toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit en polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution intellectuelle. Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes que représente le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée intégralement matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de forces entièrement étrangères à l'individu, et l'avènement de la société communiste, une conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des individus est malgré tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais cette notion amène avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule le matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire les sociétés « socialistes" à tenir l'individu pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz que cette critique: elle lui livre les clés d'une anthropologie chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce ".
Nhà thơ không làm sao “xử lý” được.
Tuy nhiên, ông không thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil [mà ông dịch qua tiếng Ba Lan] đã đóng 1 vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của ông. Bà là người đầu tiên vén màn cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật [như của Engels], lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh hoàn toàn xa lạ với 1 cá nhân con người, và cùng với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu lý của lịch sử; tự do chẳng hề có chỗ ở trong đó. Khi đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng định hành động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì đều cần thiết để đi đến xã hội lý tưởng: nhưng quan niệm này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý tưởng của Hegel, và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới sự kiện, những xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là thành phần chẳng đáng kể, bọt bèo của lịch sử, [như thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân, phải tất yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến cho Milosz quá cả nền phê bình đó: Bà đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân bản học Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con người như bị chia xé giữa “trọng lực” và “ân sủng”.
Chúng ta phải coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation between necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and grace). Milosz cố triển khai tư tưởng này [của Weil], trong tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp theo “Cầm Tưởng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự một cuộc thi văn chương, nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối hả, vậy mà chiếm giải, nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính tác giả cũng vờ nó đi, khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu chuyện của thế kỷ. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết tìm cách vượt biên giới Nga, để sống dưới chế độ Nazi, như Milosz đã từng làm như vậy.
MY SAIGON
Kẻ phịa ra Hồi Ức Ken
Thomas De Quincey’s intoxicating prose derived its power from the writer’s opium habit.
By Dan Chiasson
http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/17/the-man-who-invented-the-drug-memoir
Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có!
Saigon Street Scene 1967 - Đường Ngô Đức Kế, nhìn về Nguyễn Huệ
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29813129434/
Tay Phương có thời cũng rất mê ngồi Quán Chùa, với…. GCC. Nhớ, 1 lần, nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài đi vô, chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn mưa, chàng kéo cái cổ áo mưa lên, tay Phương nhìn, mê quá, phán, đúng là văn sĩ!
Lần đầu tiên Gấu nghe Bích Hợp hát, là trong 1 vở cải lương, Tình Vương Ý Nhạc, hình như thế, và là bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....", "cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời, y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa, hẳn thế!
Nghệ thuật làm dáng?
Cùng thời gian bức hình đưọc chụp?
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30146656340/in/photostream/
Hẹn Hò
2515.
Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà
Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013
do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện

Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.
Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!
Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
*
Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...
"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"
"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Một Chủ Nhật Khác
Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.
Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!
Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?
Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Tập san Văn chương ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn. Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ, Nguyễn Tường Giang, chán chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có; và mặc dù tập san có nhà in riêng - nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus, Soleils Retrouvés. Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện, không phải với mấy anh chàng Yankee đứng ngơ ngẩn ở ngã tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần, những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện của họ.
Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn đang biến dạng.
Note: Cái anh chàng Yankee mà Gấu nhìn thấy, là ở góc đường này, từ Quán Chùa
Nhớ hoài!
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà C, bà Th. cậu biết rồi.
Như vậy, cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng, bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng gặp cô Thanh Tuyền.
Cô Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chất cuời: Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname là Ông Thánh!
Villa trông ra biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ phán, thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây:
Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.
Chỉ đến khi Gấu trình diện Những ngày ở Sài Gòn, bạn Chất mới gật đầu: Được!
Tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo làm sao có cái bằng Toán, như trên!
Khi Gấu qua hai cửa ải Tú Tài, chưa tên nào học xong Trung Học Đệ Nhất Cấp!
“Những con dã tràng”,
truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng
Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái
mớ bài vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của
Lý Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa
Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng
nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc
đó, lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm
kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội,
học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện
ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu
mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ
kiếm ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là
cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát
kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể
đọc 1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản
của TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà
TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không
hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó
sẽ đi xa hơn.
“Những con dã tràng”, với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc rối”!
Gấu nhớ bà cụ thân sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu đọc cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn - trong có xen y chang trong “Những Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:
Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn.
Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog NL, lôi ra để đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết từ hồi Quán Chùa, thì suýt soa, cực "sex"!
Trong Steps, là xen, hai nhân vật nam & nữ, khoả thân, làm tình qua gương:
One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.
Cái việc ném vô
thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện
ngắn đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận.
Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!
Cái chuyện gặp được Faulkner, may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác, cũng của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy Trò cũng đếch nhận ra nhau!
GCC đã từng phán,
toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái
khúc mở ra Absalom, Absalom!,
dù Cô Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên miệt vườn, trước khi từ giã quê
nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến gặp
bả.
Về Colonel Sutpen
JERZY KOSINSKI: STEPS
The next afternoon I found a pretext to visit the sanatorium. Patients in brightly patterned pullovers and tight pants strolled about the corridors. Others slept huddled in blankets. Filmy shadows cut across the deserted deck chairs on the sunny terrace, and the canvas snapped in the sharp breezes that scattered down from the peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually thrown around her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered, gazing, she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell across her when I introduced myself. The visiting rules were very strict, and I was permitted to spend only two hours a day in her room. I couldn't get too close to her: she would not let me. She was very ill and coughed continually. Often she brought up blood. She shivered, became feverish; her cheeks flushed. Her hands and feet would sweat. During one of my visits she asked me to make love to her. I locked the door. After I had undressed she told me to look into the large mirror in the corner of the room. I saw her in the mirror and our eyes met. Then she got up from the bed, took off her robe, and stepped over to the mirror. She stood very dose to it, touching my reflection with one hand and pressing her body with the other. I could see her breasts and her flanks. She waited for me while I concentrated more and more on the thought that it was I who stood there within the mirror and that it was my flesh her hands and lips were touching. But in a low yet urgent voice, she would stop me whenever I took a step toward her. We would make love again: she standing as before in front of the mirror, and I, a pace away, my sight riveted upon her. Her life, was measured and constantly checked by various instruments, recorded on negatives, charted and filed away by a succession of doctors and nurses, reinforced by needles piercing her chest and veins, breathed in from oxygen bottles and breathed out into tubes. My brief visits were interrupted more and more frequently by the- intrusion of doctors, nurses, or attendants who came to change the oxygen cylinders or give- new medicines. One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.
As time went on her condition visibly deteriorated. I sat in her room, staring at her pale face lit only by an occasional flush. The hands on the bedspread were thin, with a delicate network of bluish veins. Her frail shoulders heaving with every breath, she surreptitiously wiped off the perspiration which rose steadily on her forehead. I sat quietly and stared at the mirror while she slept; it reflected the cold, white rectangles of the walls and ceiling. The nuns glided silently in and out of the room, but I succeeded in never meeting their eyes. They bent over the patient, wiping her forehead, moistening her lips with wads of cotton, whispering some secret language into her ears. Their clumsy dresses flapped like the wings of restless birds. I would step out onto the terrace, quickly closing the door behind me. The wind was ceaselessly driving the snow over the crusted fields, filling the deep footprints and diagonal tracks left from the previous day. I held the soft plump cushion of fresh snow from the frozen railings. For a moment it shimmered in my warm palm before turning into dripping slush.
More and more often I was denied access to her room, and I spent those hours alone in my apartment. Later, before going to sleep, I would pullout from the desk drawer several albums filled with my photographs of her, carefully enlarged and painstakingly pasted onto stiff cardboard. 'I would place these enlargements in a corner of my bedroom and sit in front of them, recalling the events of the hospital room and the images within the mirror. In some of the photographs she was naked; now I had them before me, for myself alone. I looked at these pictures as if they were mirrors in which I could see at any moment my own face floating ghost-like on her flesh. Then I would step out on my balcony. Around the sanatorium the lights from the windows touched the snow, which no longer seemed fresh. I would gaze at the faint lights until they began to disappear. From beyond the breadth and width of the valleys and hills, streaked by wooded slopes, the moonlight lit up frozen peaks and streams of vaporous clouds being lured from the shadows of narrow defiles, A door clanged shut; a car horn sounded in the distance. Suddenly figures appeared between the snowdrifts. They scrambled through the fields toward the sanatorium, now and then lost, as if straining against the stifling dust storm of a drought stricken plain.
Hai Anh commented on this.
Hai hôm
trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún
ốc nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình
tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách khiêm
tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi nhé . Mình
cả 10 năm nay không ăn bún ốc của ai nấu vì không
ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà cho công thức Post lên
cho cả nhà tham khảo nhé . Bạn nào thích
nấu thử đi bảo đảm có món bún ốc thần thánh
gia truyền của cô giáo Thiện ( mẹ mình Hà Nội
gốc 8 đời ) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...
Ui chao, đây là 1 trong những món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất nhiên là do ngon, nhưng còn do 1 điều gì khác nữa, đúng không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra được.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29160587460/
Ngã Sáu Hồng
Le carrefour est familier comme un souvenir
Ngã Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả....
que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes et elle
s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se défaisant en touffes d'herbe et en fils de
fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma vie a
regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre et de
l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore,
almacén bnilant clair vers le bout de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.
1. L'almacén (mot que nous retrouverons fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene : c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est, ou était, souvent peinte en rouge ou en rose.
Jorges Luis Borges: Oeuvre poétique 1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra
Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes over us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since my own days have
witnessed so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that light of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.
J.L. Borges: Selected Poems [ed Penguin]
Chôm từ 1 bài viết về DTH, trên báo Tẩy
La louve solitaire de Hanoï
Manuel Carcassonne
16 février 2006
http://www.tanvien.net/dich/louve.html
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29261092556/
Nam Định 1954 - Các bà quả phụ than khóc bên mộ chồng là những binh sĩ Việt đã ngã xuống. Đây là một trong những bức ảnh sau cùng của Capa.
INDOCHINA. Nam Dinh. 1954. Indochina widows with their children grieving at the graves of their fallen husbands. This image was one of Capa's last pictures.
My Old Saigon
Bùi Văn Phú liked this.
ANH QUỐC ƠI...
Nhờ Khanh Viet Nguyen nhắc, Hoàng Oanh mới nhớ lại trong một Đại nhạc hội ở Texas năm 2000, Hoàng Oanh trình diễn bài hát Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ Phạm Duy. Khi bài hát chấm dứt, có một thanh niên lên sân khấu tặng hoa và cảm ơn Hoàng Oanh vì đã hát bài hát vinh danh người cha của anh là cố Đại tá Không quân Phạm Phú Quốc.
Đây là một trong rất nhiều kỷ niệm trong đời ca hát của Hoàng Oanh.
... See MoreĐọc stt này, thì bèn nhớ cái thời mới lớn, mê nhạc, mê ca sĩ, mê bản nhạc do ca sĩ mình mê, hát. Và cái bài hát mà Hoàng Oanh, ca sĩ học trò, như lúc đó được gọi, vì cứ áo dài, đứng hát thật nghiêm chỉnh, và bài hát được mê, là Hoa Soan Bên Thềm Cũ.
Có những đấng chạy sô y chang nữ ca sĩ chạy sô, nghĩa là, nghe xong Hoa Soan ở phòng trà này, thì vội vàng chạy qua phòng trà, lại chỉ để nghe Hoàng Oanh hát, Hoa Soan Bên Thềm Cũ
http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_5.html
Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ,
Cuộc Đời Greene, có
đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào,
trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng
nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là
cuốn Người Mỹ Trầm
Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ
tự truyện, Cõi
Khác, Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh
Mẽo này mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh
Việt Nam có vóc dáng Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh
của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn"
như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường
tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một
số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin,
Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế
Chiến, không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào,
cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt
thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)
Đây là điều những nhà
phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và
coi nó cao hơn Mặt Trận
Miền Tây. Cao hơn không phải là do Bảo
Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh,
con người, ở trong Nỗi Buồn Chiến Tranh khác với
chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong Mặt Trận Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene,
là phải viết Người Mỹ
Trầm Lặng. Những so sánh nhắc nhở tới ông,
là vì ai cũng muốn được như... ông.
Toan tính rõ rệt nhất, và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn Thời Gian Của Người của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng, theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.
Nhân vật Quân [hoá
thân của Ẩn,] trong Thời
Gian Của Người "thánh thiện quá" [theo nghĩa
thép đã tôi thế đấy], nhà văn như Nguyễn
Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng
của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng
như Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ
văn chương tồi].
Một cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng có một vị thế
[position,status], của cuốn Bóng Đêm Giữa Ban Ngày
của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án
của thế kỷ.
*
"Đại tá Edward Lansdale - người được coi
là khuôn mẫu cho nhân vật chính trong
Người Mỹ Trầm Lặng
của Graham Greene".
Bass
Một anh Xịa cáo già như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle trong Người Mỹ Trầm Lặng?
Như Norman Sherry cho thấy, Pyle là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó. Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is straight out of a good quality public school - in essence he is English.
Có thể Ẩn giống Pyle, theo
nghĩa này, bản chất của anh là một Cộng Sản. Một người Bắc vô
Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc
cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác biệt giữa
Trung [phi công ném bom Dinh Độc Lập] và
Ẩn.
Trung là một con người, với
lòng hận thù rất con người của anh. Có
thể, chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi
bây giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản,
chủ nghĩa đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ
nó, tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì
cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có
thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá
hơn thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo.
Cái tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho,
hết Tào Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là
một tên phản quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là
tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy,
khi "nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm
việc cho Mẽo, nhưng thực tình thì là một con
ngựa Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là
như vầy:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
Em muốn cầu xin Anh một điều mà không một người đàn ông phong nhã nào có thể chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách sạn Baur-au-Lac ở Zurich tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann
Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (1)
Sep 26, 2013
Cái nước mình
nhỏ thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà
chót Mũi cũng mưa tối mắt. Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà
chiều ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó
chuỗi mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời
âm u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm
thanh rả rích. Tôi lánh cái nhìn vô
cái pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe
bị đinh đâm lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc
con. Anh vá xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia
ẵm lủng lẳng đứa sau, nói “tối nay bão vào quê,
không biết thằng em chống chọi sao rồi”.
Tin báo bão trên đài
nói rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải,
anh vá xe rầu. Năm trước nhà em trai anh bị bão
dỡ một lần, vừa vá xong đận này chắc là lại rách.
Nhiều năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này
năm ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó
đi xúc cá bị chết đuối. Khi người đàn ông
này dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây,
đã không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục
ở đây. Lần nào ghé căn chòi sửa xe này,
tôi có một chút khó thở. Không hiểu
vì trà Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người
ta từ dưới đáy ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình
ảnh thằng bé mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua
kẹo ở tiệm tạp hóa gần nhà, vắt đứa em gái trên
cái hông mỏng te bén lẹm xương của nó.
Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều
kỷ niệm với những người Bắc di cư vào. Tiệm gạo nhà
tôi cất ngay cửa ngõ vào cái xóm
Hà Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng
nói quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm. Mùa
mưa, xóm lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng
giữ nhà rướn cổ ném cho khách những tiếng kêu
đầy ác cảm. Sân nào cũng đầy dấu chân
của vịt, gà. Những thùng nước cơm cặn lặc lè
yên sau xe đạp. Cô giáo dạy văn mà tôi
thương nhất. Con bạn cùng lớp cạnh tranh vị trí nhất
nhì. Vài chị là mối mua gạo cám của tiệm
nhà tôi. Những con người ấy làm tôi thắc
mắc cái xứ sở mà tôi gọi là nước Bắc không
biết gần hay xa. Chắc xa, họ gọi chén bát lung tung
xèng, phở thì không rau giá, canh chua
không nêm đường, cà đem muối trong chum, bánh
tét lại vuông. Chắc xa, năm bảy cái tết họ mới
về quê một lần.
Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám
làm tôi thấy họ gần mình. Bởi những cái
thở dài không phân biệt tập quán và
quê xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía
quê nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy
rầu thôi, nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa
cũng ướt, ai ở dưới trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt.
Cùng một nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm,
cơn cảm cúm mũi dãi chảy sụt sùi.
Những cuộc đi mê miết đã làm
nhòa những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc. Cửa
hàng bán đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên
nội ô thành phố. Nhưng phở gia truyền Hà Nội
cũng rau giá đầy vun, bánh cuốn gia truyền Hà
Nội với nước chấm pha đường ngọt lịm. Tết, nhà họ cũng có
nồi thịt kho tàu. Lâu lâu trên đài
địa phương có phát biểu của một ông giọng miền ngoài
mà bắt đầu bằng mấy chữ ‘thưa bà con,”. Mấy em cộng tác
viên gốc Bắc viết truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng
phương ngữ miền tây ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã
dạ thay cho vâng. Anh thợ sửa xe nói, từ khi không
còn cha mẹ già ngoài ấy, thì loay hoay
chỉ trung thu và tết mới thấy nhớ quê, dợm muốn về. Miền
Tây không có cái không khí lễ
hội của trăng rằm và dịp đầu năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước
đi đâu cũng khó.
Anh bỏ sót mưa. Dải đất nằm nghiêng
theo biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp
thấp nhiệt đới gần bờ, không tạt vô trung thì
ra bắc. Mùa mưa phương Nam trùng với mùa bão
lũ ngoài kia. Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc
rễ tưởng đã bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng
em ở quyển sổ nào, quên mất.
Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc
gọi từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.
Blog Sầu Riêng
Nhắc đến Cao Bồi “nằm gai nếm
mật” bao nhiêu đời, nhân đọc NNT, bài viết
thật tuyệt, nhưng bị mấy cái lỗi “hỏi ngã”, tiếc
quá, bèn sửa, và post lại ở đây.
Cũng 1 cách “buộc người lang bạt…”
Hà, hà!
Tiện thể. Trên trang Gió O của bà
Huệ, "hỗ trợ", không phải "hổ trợ".
Lại nhớ Gấu Cái.
Hồi Bả "tập" viết văn, chỉ cho phép Gấu
sửa lỗi chính tả, cấm sửa văn, cho "còn nguyên"
mùi Nam Kít, không bị pha tạp!
Link ở đây, để lỡ GCC vội
- "đột xuất", chữ của Vẹm - đi xa, Gấu Cái/Jennifer Tran thông
báo độc giả TV, giùm.
Bả không biết làm sao post trên
Tin Văn!
Bài đầu gia nhập Facebook
August
8, 2011
Em còn
nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn những chiều lộng gió
Lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo
bay lên
Note: Thần sầu! Mỗi lần nghe, là Gấu lại nhớ đến bài viết của Borges, về những tiền thân của Kafka, về "một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà."
TCS
là thứ người đó, ông không thể xa Sài
Gòn, đành ở lại, ôm lấy nó, cho tất
cả chúng ta!
Có
lần Gấu phán ẩu, nhưng thật đã, thật đúng,
cái hồn văn chương Miền Nam
ở trong những bản nhạc sến là thế. Nhạc TCS thì
cũng thứ nhạc sến, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Cái sến nhất của nó, là
làm người ta quên cuộc chiến, trong khi nhạc lính,
ôm lấy nó. (b)
In your
interview with Gordon Lish in Genesis West, you say that
there are two kinds of poetry. On the one hand, there are poems
that give delight; on the other, there are poems that do something
else. What do you mean by "something else"?
GILBERT
I think
serious poems should make something happen that's not correct
or entertaining or clever. I want something that matters to my
heart, and I don't mean "Linda left me." I don't want that. I'll write
that poem, but that's not what I'm talking about. I'm talking about
being in danger-as we all are-of dying. How can you spend your life
on games or intricately accomplished things? And politics? Politics
is fine. There's a place to care for the injustice of the world, but
that's not what the poem is about. The poem is about the heart. Not the
heart as in "I'm in love" or "my girl cheated on me"-I mean the conscious
heart, the fact that we are the only things in the entire universe that
know true consciousness. We're the only things-leaving religion out of
it-we're the only things in the world that know spring is coming.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris
Review Interviews, I
GILBERT
Tôi nghĩ có thứ thơ thần, nó làm cho một điều gì đó xẩy ra, và cái điều này thì đếch có đúng, đếch có mua vui, đếch có thông minh, dí dỏm, hóm hóm, hay bất cứ cái chi chi.
Tôi muốn một điều gì đó xẩy ra cho trái tim của tôi, và tôi không muốn “BHD bye bye tôi”. Tôi không muốn điều đó. Tôi sẽ làm một bài thơ, nhưng đó không phải là điều tôi đang nói tới. Tôi đang nói tới điều nguy nàn – nhưng tất cả chúng ta nguy nàn - chết. Làm sao chúng ta có thể trải qua đời mình trong những trò chơi, hay những sự việc được hoàn tất thật phức tạp? Và chính trị? Chính trị thì OK. Phải có một nơi lo ba cái chuyện công lý trên đời, nhưng đó không phải là điều của thơ. Thơ là về trái tim. Không phải trái tim theo kiểu, “Tôi đang yêu”, hay “Em lừa dối tôi”. Tôi muốn nói con tim chân chính, con tim ý thức, tức, sự kiện, là, chúng ta là những gì độc nhất trên toàn vũ trụ, hiểu ý thức chân thực. Chúng ta là những gì độc nhất - gạt tôn giáo qua một bên – chúng ta là những gì độc nhất trên thế gian này biết mùa xuân đang đến.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris Review Interviews, I
Samuel Beckett
“Personally of course I regret
everything.
Not a word, not a deed, not a thought, not a
need,
not a grief, not a joy, not a girl, not a boy,
not a doubt, not a trust, not a scorn, not a
lust,
not a hope, not a fear, not a smile, not a tear,
not a name, not a face, no time, no place...that
I do not regret, exceedingly.
An ordure, from beginning to end.”
[net]
Về phần tôi tất nhiên
tôi tiếc rẻ mọi thứ.
Không phải một lời nói, không
phải một hành động, không phải
một ý nghĩ, không phải một
nhu cầu,
không phải một nỗi đau, không phải
một niềm vui, không phải
một cô, không phải một cậu,
không phải một hoài nghi, không
phải một niềm tin, không phải
một khinh bỉ, không phải một thèm
khát,
không phải một hi vọng, không phải
một nỗi sợ, không phải
một nụ cười, không phải một giọt lệ,
không phải một tên gọi, không
phải một gương mặt, không phải thời gian,
không phải nơi chốn... những thứ tôi
vô cùng không tiếc rẻ.
Mà là một đống cứt ỉa, từ đầu đến
cuối.
HNB dịch (1)
Ông này, cũng 1
đấng bạn quí của GCC, từ hồi Quán Chùa.
Lúc nào gặp mặt cũng khinh khỉnh,
Gấu lại nghĩ tính của bạn quí vốn vậy. Phải đến
khi ra được hải ngoại, mới ngộ ra bạn quí đếch quí
Gấu!
Gấu đã có lần chỉ cho bạn quí thấy, dịch nhảm thơ Brodsky. Dịch nhảm, có thể còn là do chiều theo yêu cầu của VC. Bạn quí đã từng tự hào, người đầu tiên giới thiệu Brodsky với xứ Mít
Đoạn thơ trên, tiếng Mít, có “vấn đề”, không phải do dốt tiếng mũi lõ, mà là tiếng Mít.
“Personally”, “về phần tôi”,
thì có tí trật. Mít dùng cụm
từ “về phần tôi”, sau, “về phần bạn”.
Dịch, “cá nhân tôi, riêng
tôi”, thì được.
“Regret” không phải là tiếc rẻ,
mà là tiếc nuối, ân hận
Tiếng Mít tệ hại như thế, thì dù
có giỏi tiếng mũi lõ cỡ nào, cũng vứt đi.
Phải về già, thì
Gấu mới hiểu ra 1 điều thật quái dị, là, bạn học
ngoại ngữ, là để hiểu, làm thâm sâu,
kiện toàn tiếng mẹ đẻ của bạn.
Cái đám bạn quí của Gấu
này, cũng văn nghệ văn gừng cả 1 đời, mà đời đếch
thèm biết đến, sở dĩ như thế, vì chúng học
tiếng mũi lõ, để có dịp là chuồn!
Hồi mồ ma tờ Văn,
dưới mắt Xìn Phóng, chỉ có đám
học Triết, giáo sư Triết, đám học trường Tây,
hay, hơn thế nữa, chuồn qua Tẩy, như TTD, ông Tẩy mũi tẹt,
là được Người o bế, coi trọng.
Ông không ưa Gấu, thằng đó
mà tiếng Tây gì, vậy mà bày
đặt tiểu thuyết mới, hiện sinh, Sartre, Camus.
NDT là người giới thiệu Gấu với tờ Văn. Lúc đó, Gấu đang viết cho tờ Nghệ Thuật, thời gian VL thay thế Thanh Nam làm tổng thư ký. Gấu nhớ là, anh tự động ghé bàn Gấu, khi đang ngồi ăn phở 44 Phan Đình Phùng, phía bên kia đường là Đài Phát Thanh Sài Gòn, xưng tên, và đề nghị viết cho Văn. Gấu bèn đi hỏi ý kiến NTaV và thi sĩ “Cao Thọi Trâu”, cả hai bèn phán, hỏi cái gì nữa, viết chứ, tại sao không?
Hà, hà!
Địa chỉ [số nhà số điện
thoại] của BHD
Thiếu email-address!
... như
những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã
sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông
đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng,
nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía
bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe
qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng
thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng
nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng
có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua
tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán
Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh
giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc,
khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía
sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có
thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên
lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng
bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể
lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và
nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ
phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có
gió bấc, có rét mướt, băng giá, và
nàng mang theo cùng với nàng chút giá
băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên
ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở
ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời
niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả,
muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được
nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên
ngoài cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng
ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không
thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên
đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....
Trương Như Tảng
Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp trong Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam (VC)
Vài bí mật chưa được tiết lộ về Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29182933591/in/photostream/
minhduc7.blogspot.com/2013/04/vai-bi-mat-chua-uoc-tiet-lo...
Ba ông hòa bình được phái đoàn miền Bắc đón tiếp ở cầu Hiền Lương, sông Bến Hải . Bác sĩ Phạm Văn Huyến mang số 1, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ mang số 2, ký giả Cao Minh Chiếm mang số 3
Theo như GCC được biết, Cao Minh Chiếm là bà con của bà xã TTT, Cao Thị Mai Hoa.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28532851274/
Gần đây, một người nước ngoài (ông Paul Blizard) đã cất công tìm lại được đúng địa điểm thật của vụ tướng Loan xử tử đặc công VC năm 68. Vụ đó diễn ra trên đường Minh mạng, nay là Ngô Gia Tự, chứ không phải Lý Thái Tổ như thông tin trước đây.
Paul Blizard - Saïgon Chợ Lớn Then & Now
www.facebook.com/groups/865130223501356/permalink/1359294...
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/32.html
Việt NamBà kia ơi, tên bà là gì vậy? Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Tin Văn đã từng lèm bèm về bài thơ này, song song với bài nhạc Bà Mẹ Gio Linh của Phạm Duy, mà theo truyền thuyết giang hồ, mỗi lần Thái Thanh hát, là, khóc, và đưa ra 1 phỏng đoán, có thể bà thi sĩ Ba Lan, có lần được nghe ai đó ca bài hát, theo đó, bà mẹ Mít, của PD, cứ đẻ được đứa con nào là biếu VC đứa đó, nên làm bài thơ để… phản biện!
Do đọc lời còm của Lý Đợi, GCC bèn tò mò mò theo niên giám, coi bài Việt Nam đã được sáng tác thời gian nào. Nó được in trong tập thơ “No End of Fun”, 1967.
Có thể nói, đa số thơ trong tập, thì dều có mùi Mậu Thân cả.
Bài thơ sau đây, tả cảnh nhà thơ Ba Lan, Nobel văn chương, viếng thăm bà mẹ Bẩy Lốp, hoặc vợ Nguyễn Văn Trỗi, hoặc Bà Mẹ Gio Linh, đích thị bà, mà PD dã từng gặp, và gọi bà là Thánh Nữ, hình như vậy!
gaze at the monument, admire its size,
shoo two chickens from the empty museum's steps,
ask for his mother's address,
knock, push the creaking door open.
Her bearing is erect, her hair is straight, her gaze is clear.
You may tell her that you've just arrived from Poland.
You may bear greetings. Make your questions loud and clear.
Yes, she loved him very much. Yes, he was born that way.
Yes, she was standing by the prison wall that morning.
Yes, she heard the shots.
You may regret not having brought a camera,
a tape recorder. Yes, she has seen such things.
She read his final letter on the radio.
She sang his favorite lullabies once on TV.
And once she even acted in a movie, in tears
from the bright lights. Yes, the memory still moves her.
Yes, just a little tired now. Yes, it will pass.
You may get up. Thank her. Say goodbye. Leave,
passing by the new arrivals in the hall.
Nơi Thành Hồ anh hùng Bẩy Lốp ra đời, bạn có thể:
Chiêm ngưỡng và kính trọng đài tưởng niệm
Lé mắt vì cái vóc dáng vĩ đại của nó
Xua xua hai chú gà nơi bực thềm
Hỏi địa chỉ bà mẹ
Gõ, đẩy cái cửa cọt kẹt
Dáng bà thẳng, tóc thẳng, cái nhìn trong sáng
Bạn có thể nói với bà, bạn từ Ba Lan đến thẳng Việt Nam
Bạn có thể mang theo quà tặng.
Đặt những câu hỏi thật rõ ràng, thật rổn rảng
Vâng, tôi thương thằng con của tôi lắm.
Vâng nó đã sinh ra theo một đường hướng như đó
[Trong 1 thành phố bị Mỹ Ngụy dầy xéo, hẳn thế?]
Đúng, bữa đó, tôi đứng bên ngoài bức tường nhà tù
[Nhà tù Chí Hoà?]
Vâng, tôi nghe tiếng súng hành quyết
Bạn có thể tiêng tiếc, mình quên không mang theo cái máy chụp hình
Cái máy ghi âm.
Vâng, bà có nhìn thấy những cái máy đó
Bà đọc lá thư cuối cùng của đứa con anh hùng trên đài giải phóng
Bà hát những bài hát ru con mà nó rất ưa
Có lần được đóng vai của bà trên TV Hà Lội, bà khóc nức nở
Ký ức những ngày anh hùng như thế đó vưỡn làm bà cảm động
Vâng, tôi có tí mệt, nhưng không sao, hết ngay mà
Bạn có thể đứng dậy. Cám ơn bà. Nói lời giã từ. Bước ra ngoài
Trước đàn rồng rắn đang chờ tới lượt họ
Bài thơ này, với bài Việt Nam, đúng 1 cặp!
Có vẻ như Szymborska rất rành VC!
Nhờ kinh nghiệm Ba Lan của bà?
Saigon 1970 - Một lớp học tại trường Gia Long
source: Viet-Nam Bulletin - Secondary Education in Viet-Nam (October 1970)
Một lớp học tại trường Nữ trung học Gia Long ở Saigon: cả cô giáo và học sinh đều mặc áo dài quần trắng, đồng phục của rất nhiều lớp học tại Nam VN.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29098125041/
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28532851274/
Gần đây, một người nước ngoài (ông Paul Blizard) đã cất công tìm lại được đúng địa điểm thật của vụ tướng Loan xử tử đặc công VC năm 68. Vụ đó diễn ra trên đường Minh mạng, nay là Ngô Gia Tự, chứ không phải Lý Thái Tổ như thông tin trước đây.
Paul Blizard - Saïgon Chợ Lớn Then & Now
www.facebook.com/groups/865130223501356/permalink/1359294...
Bức hình của Sếp UPI của GCC
Vừa đi đường vừa kể chuyện
[Thuổng Trần Dân Tiên “aka” Bác Hồ.
Liệu Bác H đã từng đọc Walter Benjamin, như VTH, đã từng thuổng Koestler?]
Bài viết này, dịch ra tiếng Mít, thì cũng là 1 cách,
Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông [Xề Gòn]
Mà lòng mình phơi trên kè đá!
Hà, hà!
Raconter une longue histoire interrompue par des rêveries:
Kể 1 câu chuyện dài, bị quậy phá, làm đứt đoạn, bởi những cơn mộng
On pense à Borges, bien sûr, et à Kafka
Người ta nghĩ tới Borges, tới Kafka, chắc chắn rồi
Tại sao nghệ thuật kể chuyện lại tiêu táng thòng?
Tên triết gia Đức, tên Mạc Xịt bi quan, tên thù nghịch…. Văn Khoa Mít, tên du lịch không ngừng nghỉ, tên dịch giả Baudelaire và Proust….
Tandis que des inédits de Walter Benjamin sont publiés aux éditions de L'Herne, Frédéric Pajak rend hommage au philosophe allemand dans une biographie illustrée.
Hambourg, avril 1932, Walter Benjamin sur le Catania reprend son long périple européen qui l'a conduit en France, au Danemark et sur les côtes espagnoles et italiennes. Sur le pont, il projette de « raconter une longue histoire interrompue par des rêveries ». Les quarante-sept récits inédits rassemblés sous le titre N'oublie pas le meilleur composent une trame singulière d'espace, de temps et de rêve. Un jeune homme souhaite rendre visite à sa grand-mère morte depuis longtemps, c'est une jeune femme dans une robe bleue défraîchie qu'il rencontre ; un touriste à Paris boit un café crème et se demande si, enfant, il avait été assis à cette table, « combien de navires auraient traversé cette banquise de marbre ». Un bourgeois éreinté s'installe dans une osteria de Rome, antre d'une masse laborieuse, et avale goulûment des morceaux de morues séchées dans l'indifférence générale ; ce n'est pas dans les rues de la Rome fasciste, mais dans l'espace de la modernité que cet homme déambule. À l'instar de tous les personnages de Walter Benjamin, il s'apparente au flâneur baudelairien : se cherchant un asile dans la foule et restant au seuil du monde, ni bourgeois ni prolétaire, mais au coeur de la masse. Ces récits au style pictural entraînent les lecteurs dans un univers onirique atemporel. Loin du monde où la passion suprême de tout public est « un centre, un führer, une solution ».
Le philosophe allemand, marxiste sceptique, hostile aux institutions universitaires, voyageur insatiable, traducteur de Baudelaire et de Proust, n'écrit ni en théoricien ni en révolutionnaire, et exhume une matière littéraire des replis sédimentés depuis des millénaires : les contes. Des contes sans explications, sans psychologie, le lecteur glissant du présent au passé, du réel au rêve. L'atmosphère, la concision, l'art de la chute... on pense à Borges, bien sûr, et à Kafka. Mais c'est surtout au Benjamin philosophe qu'on devrait penser, lui qui, dans son travail sur le « Narrateur », révèle la place particulière et oubliée du conte, balayé par le roman et l'information : « Chaque matin, on nous informe des derniers événements survenus à la surface du globe. Et pourtant nous sommes pauvres en histoires remarquables. » N'oublie pas le meilleur reste fidèle à son esthétique, qui chercha sans cesse à restaurer la puissance de l'origine. L'aura des oeuvres d'art et l'art de conter subissent le même déclin.
Pourquoi l'art de raconter des histoires est-il en train de se perdre ? « N'a-t-on pas constaté que les gens revenaient muets du champ de bataille ? Non pas plus riches, mais plus pauvres en expérience communicable », demande le Benjamin de Frédéric Pajak dans Manifeste incertain (éd. Noir sur blanc), variation biographique et illustrée. Le dessinateur retrace la vie en miettes du philosophe : Benjamin en suspens dans la foule, Benjamin à Ibiza, dans son refuge solitaire pour intellectuel désargenté, et Benjamin sur le pont du Catania, en avril 1932, qui médite le projet de « raconter une longue histoire interrompue par des rêveries ».
Enrica Sartori
Illustration : Walter Benjamin par Pajak ©Noir sur Blanc
Saigon, 17-2-1968 - Đường Phan Châu Trinh, sau Tết Mậu Thân không bao lâu
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/28238974992/
Đám thanh thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với mùa hè kết thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng đáng với nàng: xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và chuyện này thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
26.6.2010
Đọc "Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ Việt Nam, nhớ những ngày xưa kinh khủng.
HÂ.
Tks. NQT
Late at night. Monday. The twenty-third.
The capital's outlines in the mists.
Some idiot's given us the word,
He's informed the world that love exists.
And out of boredom or laziness
Everyone believes and lives that way:
They all look forward to trysts, no less,
They sing their love songs night and day.
But to some, the secret's revealed,
The smallest silence weighs like a brick.
I too stumbled on what was concealed.
Since then I've felt as if I was sick.
1917
Đêm khuya, muộn. Thứ Hai. Ngày 23
Những đường ven thủ đô, trong sương mù
Một tên ngu ngốc nào đó, phán
Rằng tình yêu vưỡn còn!
Yêu hiện hữu!
Và do chán quá, nản quá, và… lười quá
Chúng ta bèn OK, OK!
Và mọi người bèn sống theo kiểu này:
Tất cả bèn mong ngóng, hẹn hò
Hát hò, ngày và đêm
Những bài tình ca của chúng ta!
Nhưng với vài người, bí mật bật mí
Một sự im lặng, dù nhỏ nhoi cỡ nào
Thì cũng nặng như đá
Gấu, cũng té nhào khi vấp vào điều được che giấu
Kể từ đó, lúc nào Gấu cũng cảm thấy bịnh!
Gấu cũng có 1 Saigon của Dos, và cũng đã từng viết về nó, về những lần đọc Dos trong 1 quán cà phê hủ tíu Tầu, trong khi chờ BHD.
Mùi cà phê, thì là mùi cà phê túi, và thay vì cà phê cháy, thì là mùi 1 ly hồng trà.
Many of the houses were painted red (like the Winter Palace), crimson, and rose. There weren't any of these beige and gray colors that now run together so depressingly with the frosty steam or the Leningrad twilight. There were still a lot of magnificent wooden buildings then (the houses of the nobility) on Kamennoostrovsky Prospect and around Tsarskoe Selo Station. They were torn down for firewood in 1919. Even better were the eighteenth-century two-story houses, some of which had been designed by great architects. "They met a cruel fate"-they were renovated in the 1920s. On the other hand, there was almost no greenery in Petersburg of the 1890s. When my mother came to visit me for the last time in 1927, she, along with her reminiscences of the People's Will, unconsciously recalled Petersburg not of the 1890s, but of the 1870s (her youth), and she couldn't get over the amount of greenery. And that was only the beginning! In the nineteenth century there was nothing but granite and water.
Smoke over the rooftops. The Petersburg Dutch ovens. The Petersburg fireplaces-an ineffective offensive. The Petersburg fires during bitter frosts. The peal of bells that would deafen the city with their sound. The drum roll that always made one think of an execution. The sleds that collided with all their might against the curbstones of the humpbacked bridges, which now have nearly lost their humpbackedness. The last branch-line on the islands always reminded me of a Japanese print. The horse's muzzle, frozen with icicles, almost touching your shoulder. And then there was the smell of damp leather in the horse-drawn cab when it rained. I composed almost all of Rosary in conditions like these, and at home would merely write down the finished poems.
Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.
Hay một London của Dickens, một buổi chiều đầy sương mù, chú bé Oliver Twist đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách đến trường, đêm đêm làm bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long nơi tôi tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo, chưa biến thành nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành riêng cho đám quân nhân Hoa Kỳ.
Ngày mai trời sẽ mưa trên
thành phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée)
Ôi Sài-gòn, một Sài-gòn hư tưởng, một Bouville, một London, của riêng tôi đó!
Chắc cũng gần tòa soạn báo Văn
Chợ Sách Đặng Thị Nhu
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/27134222114/in/photostream/
http://tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html
Quán Chùa (La Pagode) là một địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài Gòn trước đây. Theo các miêu tả thời đó thì đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc một "thế hệ mới" trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca (bản Nam Cường, 68), Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:
Cái sự kiện Gấu hay ngồi
ở Quán Chùa, và đám bạn cũng kéo
nhau ra đó, hoàn toàn là do "ngẫu
nhiên, tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!
Gấu làm cho UPI, trụ sở
số 19 Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một đầu
đâm ra Chợ Cũ, một ra bùng binh bờ sông, có bức
tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra biển. Sáng sớm,
Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ 8 giờ
sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có
gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước rồi.
Khi không có hình, Gấu
bèn ghé Quán Chùa.
Tuy nhiên, cái
sự kiện hay ngồi Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn
Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám nằm
vùng, trong có đấng Lữ Phương. Ông này
dùng từ “viễn mơ” để chửi đám Gấu. Không chỉ
hay ngồi Quán Chùa, đếch biết đến nỗi quê
hương bị Mẽo dầy xéo, vân vân và vân
vân, mà còn thờ phụng thứ văn chương hiện sinh,
ăn phải cứt mũi lõ, bày đặt tiểu thuyết mới này
nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng, thực
sự tham chiến!
Rồi tới PCT!
Ngồi Quán Chùa, gọi 1 ly cà phê, 1 cái bánh croissant, rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở những quán khác. Và do Gấu cày hai jobs, thường là Gấu trả tiền, thời đó chưa có cái trò “kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo. Chẳng thế mà có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em, cũng lính tráng, sĩ quan, bây giờ, khi gặp lại ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra Quán Chùa, thấy anh ngồi đó, là "yên chí lớn" rồi!
Khi nào thèm bún ốc, thèm phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì, thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại về Quán Chùa uống cà phê.
Sau này, ra hải ngoại, Gấu vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm ngó dung nhan Cô T, là vậy. Giả như quen biết từ hồi đó, biết đâu số phận lại khác đi, Cô T, có ông chồng tử trận, Gấu có thằng em, chẳng thua, nhưng, biết đâu nhờ vậy, Cô không quen cái băng Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ - ma cà rồng, quỉ, kên kên... đúng hơn - sống bằng xác chết của ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng ra tiền”, biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ "Việt Nam" như bà Ba Lan, Nobel văn chương!
Hà, hà!
Thê thảm nhất, là
lần ghé Quận Cam, cùng lúc Cô T cũng
từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp, vừa uống
cà phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói, anh tới
chỗ… bữa nay ra mắt sách của băng Cờ Lăng. Ui chao, Gấu
có bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!
[Khúc này viết để gửi tri kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]
Note: Có 1 quán, một cái xe đẩy, đúng hơn, bán bún ốc, tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa soạn AP, bên trong Passage Eden. Bà chủ xe bún ốc, có lần cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày, gia đình quây cót, nuôi trong nhà, không cần phải đi chợ.
Ngồi ăn, nhìn ra, là
thấy Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở lại
Quán Chùa, tiếp bạn quí!
Cái tên Hòn Ngọc Viễn Đông, là Tẩy ban cho Sài Gòn, và quả đúng như thế, và sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do, trong có cái gọi là "mentalité" của dân Miền Nam, và cái gọi là “văn minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân Miền Nam ngang hàng, không phân biệt. Điều này được những nhà văn, thí dụ hai đấng, là Graham Greene, trong "Ways of Escape" đã có những dòng ca ngợi thần sầu về Sài Gòn, và Maugham, trong bài viết về Huế, có trên Tin Văn.
Và quả đúng là quá khứ không thể nào lập lại, và điều này phần lớn là do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của chúng làm biến đổi xã hội Miền Nam đến tận gốc rễ, không làm sao gượng lại được nữa.
HUẾ
The French carry France to their colonies just as the English carry England to theirs, and the English, reproached for their insularity, can justly reply that in this matter they are no more singular than their neighbors. But not even the most superficial observer can fail to notice that there is a great difference in the manner in which these two nations behave towards the natives of the countries of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
The Annamites are a pleasant people to look at, very small, with yellow flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce in their clothes. The poor wear brown of the color of rich earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle of apple green or orange round their waists; and on their heads a large flat straw hat or a small black turban with very regular folds. The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers, a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It is a costume of great elegance.
But though in all these lands the clothes the people wear attract our eyes because they are peculiar, in each everyone is dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque often and always suitable to the climate, but it allows little opportunity for individual taste; and I could not but think it must amaze the native of an Eastern country visiting Europe to observe the bewildering and vivid variety of costume that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English crowd, for instance that which you see through a faint veil of smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert, is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men in tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours and caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.
Somerset Maugham: The Skeptical Romancer
Người ta gọi nó, Hòn Ngọc của Đế Quốc [Pháp]
Hãy thử đọc 1 đoạn Somerset Maugham viết, là biết:
The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
Tẩy thực dân đối xử với Nam Kít, như thế, trong khi lũ Yankee mũi tẹt sau khi lấy được Miền Nam, đối xử với họ như thế nào?
Cái chuyện Bắc Kít không hề biết đến cái gọi là tự do, dân chủ, người đối xử như người với người, là sự thực, và là chuyện thường ngày ở cả xứ Mít hiện nay.
Sự kiện chưa từng biết đến dân chủ là gì, là lịch sử bốn ngàn năm của xứ Bắc Kít, và cũng là cái chuyện của xứ Nga Xô. Nói 1 cách ẩn dụ, thì đây là câu chuyện Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, được Koestler, bằng con mắt của 1 nhà văn, cô đọng nó vào 1 cuốn sách mỏng dính. Trong bài viết mới nhất về nó, nhân nguyên tác mới tìm lại, Michael Scammell viết:
Like other European Communists, Koestler had struggled to make sense of these trials, and having utterly failed to do so, he handed in his Party card. He started his novel in an attempt to decipher the tortured logic of the confessions, taking as his hero a Bukharin-like disillusioned high Party official, Nikolai Salmanovich Rubashov. In the course of the novel Rubashov is interrogated by two secret police officials, the “good cop” Ivanov (a former friend) and the “bad cop” Gletkin (a younger, robotic apparatchik), who between them force him to review his life as a Party leader and convince him that by following his ideals he has disobeyed the Party line and has violated his oath of loyalty. In Party-speak, he was guilty of counterrevolutionary activities. Broken by the logic of his interrogators, Rubashov listlessly confesses at a public trial and is taken to a prison cellar where he is executed with a bullet in the head. The novel’s provisional title was “The Vicious Cycle” and after that “Rubashov.”
Những vụ án dởm, mà Koestler dựa vào chúng, để xây dựng tác phẩm, vẫn đang hàng ngày xẩy ra ở Xứ Mít VC.
Cái tít của cuốn sách, thoạt kỳ thuỷ là “Vòng Tròn Xấu Xa, Ma Quỉ”, rồi “Rubashov”, rồi “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”.
Michael Scammell viết, thật khó mà tin rằng, 1 nhà văn lại đẻ ra vài ấn bản khác nhau như thế, về tác phẩm đầu tay của mình: It’s hard to believe the same author could have produced two such different versions of his own novel, until one remembers that Koestler was working from the English edition the second time around. In the intervening four years he had learned to think and write in English himself, which helps to explain why the discrepancies were so wide. When he ran into trouble with his translation into German he consulted some native German speakers for advice and showed a sample to Rudolf Ullstein, scion of the great German publishing house (for which Koestler himself had worked in the 1930s). Ullstein noted that Koestler was using “a great deal of foreign words instead of German expressions” in his translation and asked for permission to change them into idiomatic German. There is irony here, for the English translation Koestler worked from is itself full of German words and phraseology, a neat reversal. After further drudgery, Koestler acknowledged his limitations and asked another German friend to revise the entire translation for him, but the final version, with all its weaknesses, was still his.
Vì thế, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy báo Tuổi Trẻ trích lời ông Đinh La Thăng ngày 27.3.2016: "TP.HCM đã từng là hòn ngọc Viễn Đông, từng là số một của khu vực. Trước đây, Singapore, Thái Lan nhìn về Sài Gòn với một sự ngưỡng mộ, khao khát bao giờ mới được như Sài Gòn."
Báo Đảng Sài Gòn Giải Phóng ngày 29.3.2016 còn làm rõ hơn ý trên: “50 năm trước, ông Lý Quang Diệu nhìn về Sài Gòn và mơ ước Singapore sẽ được như Sài Gòn. Khi đó Singapore chỉ là một làng chài, nay họ là đô thị số 1 trong khu vực, cả về kinh tế và chất lượng sống."
Chúng tôi lớn lên ở thời điểm đó, thường xuyên ăn độn khoai lang sùng hoặc loại bo bo dành cho gia súc Đông Âu. Chúng tôi cần một câu chuyện hài để tạm quên khó khăn trước mắt. Sau này trưởng thành, đi bán sức lao động khắp nơi, chúng tôi có điều kiện ghé qua Singapore, Kuala Lumpur và Bangkok nhiều lần và rất buồn lòng nghiệm ra rằng Sài Gòn trước nay vẫn thua Singapore và Bangkok xa lắm.
Tên Thái Dúi này, do chưa từng sống ở Sài Gòn trước khi bị Bắc Kít sau 1975 tẩm độc, không làm sao hiểu được ý nghĩa “hòn ngọc Viễn Đông”, như lũ mũi lõ, trong có những người như Graham Greene, hay Maugham, cảm nhận.
Tên Bắc Kít Đinh La Thăng, 1 tên Thái Thú, độc địa còn hơn thái thú Tẫu Tô Định, thí dụ, làm sao mà “tái tạo” Hòn Ngọc Viễn Đông?
Cái khó nhất mà chúng không có là cái “người đối với người, như người đối với người”, từ đó mà ra đủ thứ, nào dân chủ, nào tự do, Bắc Kít làm gì có.
Gấu, Bắc Kít, may mắn được sống ở Sài Gòn, lâu dần cảm nhận ra điều này, không dễ đâu.
Hoài cổ và dí dỏm!
Sợ cả xứ Mít sau này sẽ phải "hoài cổ và di dỏm", một xứ Mít bị Cái Ác Bắc Kít tiêu diệt!
Không chỉ Cái Ác Bắc Kít, mà còn Cái Ác Tẫu Kít, mà ông Hồ rước về!
Hồi ký của Greene. Những đoạn viết về Việt Nam thật tuyệt.
"Tôi nhận thấy, Malaya 'đần' như một người đàn bà đẹp đôi khi 'độn'. Người ở đó thường nói, 'Bạn phải thăm xứ xở này vào thời bình', và tôi thật tình muốn vặc lại, 'Nhưng tớ chỉ quan tâm tới cái xứ sở đần độn này, khi có máu'. Không có máu, nó trơ ra với vài câu lạc bộ Anh, với một dúm xì căng đan nho nhỏ, nằm tênh hênh chờ một tay Maugham nào đó mần báo cáo về chúng."
"Nhưng Đông Dương, khác hẳn. Ở đó, tôi nuốt trọn bùa yêu, ngải lú, tôi cụng ly rượu tình với mấy đám sĩ quan Lực Lượng Lê Dương, mắt tay nào cũng sáng lên, khi vừa nghe nhắc đến hai tiếng Sài Gòn, hay Hà Nội."
Và bùa yêu ép phê liền tù tì, tôi muốn nói, giáng cú sét đánh đầu tiên của nó, qua những cô gái mảnh khảnh, thanh lịch, trong những chiếc quần lụa trắng, qua cái dáng chiều mầu thiếc xà xuống cánh đồng lúa trải dài ra mãi, đây đó là mấy chú trâu nước nặng nề trong cái dáng đi lảo đảo hai bên mông vốn có tự thời nguyên thuỷ của loài vật này, hay là qua mấy tiệm bán nước thơm của người Tây ở đường Catinat, hay trong những sòng bài của người Tầu ở Chợ Lớn, nhưng trên hết, là qua cái cảm giác bi bi hài hài, trớ trêu làm sao, và cũng rất ư là phấn chấn hồ hởi mà một dấu báo của hiểm nguy mang đến cho du khách với cái vé khứ hồi thủ sẵn ở trong túi: những tiệm ăn bao quanh bằng những hàng dây kẽm gai nhằm chống lại lựu đạn, những vọng gác cao lênh khênh dọc theo những con lộ nơi đồng bằng Nam Bộ với những lời cảnh báo thật là kỳ kỳ [bằng tiếng Tây, lẽ dĩ nhiên]: "Nếu bạn bị tấn công, và bị bắt giữ trên đường đi, hãy báo liền lập tức cho viên sếp đồn quan trọng đầu tiên".
Dịp đó, tôi ở hai tuần, và tranh thủ tối đa, tới giây phút cuối cùng, cái giây phút không thể tha thứ , "the unforgiving minute". Hà Nội cách Sài Gòn bằng London xa Rome, nhưng ngoài chuyện ăn ngủ... ở cả hai thành phố, tôi còn ban cho mình những chuyến tham quan nơi đồng bằng Nam Bộ, tới những giáo phái lạ lùng như Cao Đài mà những ông thánh của nó bao gồm Victor Hugo, Christ, Phật, và Tôn Dật Tiên.
Ways of escape
Theo GCC, VNCH là chế độ đẹp nhất mà xứ Mít có, và sẽ chẳng bao giờ có nữa. Sở dĩ như thế, là vì cái nền của nó là 1 miền đất thiên đàng. Con người hiền hoà, thiên nhiên hai mùa mưa nắng, đói khổ, lạnh quá, nóng quá không hề biết tới, lại được thằng Tây coi như ngang hàng với nó… Một khi Bắc Kít ăn cướp, là xong.
My Old Saigon
Thảo Trần & Hoàng Dược Thảo @ Tara, Fall, 2003
7.4.2010
Ấp Tara ở đâu xa? Nó ở đây:
Chỉ có ngoại là
nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái
chòi sát bên căn nhà đổ nát
cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu
người con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi
nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình
ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà
đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại,
tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối
trâu đi, hai bên có hai hàng su đũa,
ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều,
hoặc hai cậu cháu lang thang khi nắng chiều đã
nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục thứ dây
leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây
hai bên đường, tôi chợt thấy trong đám dây
leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là
loại dây leo không rễ, bám vào cây
nào thì cây đó sẽ khô héo
dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà
ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa
đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ
trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng
của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ
còn mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín
vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già,
mốc. Ngày xưa tôi và dì út thay
phiên nhau hành nó, không ngày nào
mà hai dì cháu không trèo cây,
hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín
đầy cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt nghe tiếng chim,
lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm
thanh ríu rít như ngày xưa, hay là
nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại
vườn cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe
tiếng ngoại đánh thức...
… Và Gấu có còn muốn trở về với nó nữa không?
Uyên đã thực sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển cả, bởi vì mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm thấy được, con đường trở về...
Kính GNV, tôi rất
thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của bà thanh thản mà
gây buồn da diết, đúng là viết mà
như không.
Đoạn "Tara" mà tôi mới trích,
hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự
nhiên.
Chúc mừng bà. Xin cảm ơn
đã cho tôi được đọc.
Kính,
HÂ
Đa tạ
TT/GNV
Thần
Chết và Gái Già
Man has here two and a half
minutes – one to smile, one to sigh, and half a one to
love; for in the midst of this minute he dies.
Đời người, dài như thế, tóm
gọn, chỉ có hai phút rưỡi. Một, để cười, một,
để thở dài 1 phát, và nửa phút
để yêu, và chính là trong “nửa” chưa
tới "một" đó, ngỏm.
-Jean Paul Richter, 1795
Câu trên, tặng
Gấu Cái thì tuyệt.
Kèm giai thoại sau đây.
Maiden, tra từ điển có
nghĩa trinh nữ, và còn có nghĩa gái
già, “hoa xuân chưa [từng] gặp bướm trần gian”!
Ui chao, không hiểu đầu óc
ra sao, hay là càng già càng
trở nên bịnh hoạn, nhìn cái hình,
là nhớ những lần hụt ăn, để xổng 1 con mồi nào
đó!
Hồi Gấu Cái đẻ thằng con trai
đầu, Bà Nội của Ẻn nghe tin, bèn từ Cai Lậy
lên, mang theo 1 cô gái quê cực xinh,
Bé Năm, để lo cho thằng bé.
Gấu Cái, chắc là sợ quá,
bèn ra lệnh tống cổ con bé về Cai Lậy trở lại.
“Ẻn” không biết tính Gấu, không hề bao giờ
làm cái vụ đó, mà chỉ thích
lên xóm, khi cần. Nghĩa là ăn bánh trả
tiền.
Nhưng thương hại con bé, thế
là đề nghị Bà Trẻ đem về nhà, trên
Phú Nhuận.
Đúng là trao trứng cho
ác, là vì ông con của Bà,
tức ông cậu của Gấu, Cậu Hồng, chớp liền. Cậu làm
thịt con bé. Bà Trẻ Gấu biết, bèn chờ cho
tới khi biết, con bé không có thai, Bả cho
nó mớ tiền trở về quê.
Gấu nghe chuyện này, khi về già,
cách đây chừng vài năm, qua Gấu Cái,
khi Bả nghe Gấu kể chuyện về 1 em đề nghị bỏ Gấu Cái,
và để bù lại, em cho Gấu hưởng mùi trinh
nữ!
Bả nói, mày bảnh [ngu]
thật, gái còn nguyên là chê!
Gấu bực quá, bèn phản
biện, chỉ có mỗi một lần không chịu trả tiền,
thì mang cả cuộc đời ra, thế!
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26538019163/
My Old Saigon
manhhai
SAIGON 1966 - by Mikey Walters - Tiệm giầy Trần Rắc và Hà Nội trên phố giầy Lê Thánh Tôn
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/
Không nhớ tiệm nào.
Nghe nói, cái hầm từ Dinh ông Diệm, ăn ra tới khu mấy tiệm giầy. Hai ông chui lên, chạy vô Nhà Thờ Cha Tam, Chợ Lớn, gửi e mail cho Big Minh, xin hàng.
Người cho xe tăng vô rước. Trên đường về, Người cho cận vệ đòm cả hai, lấy 40 ngàn đô chia nhau xài chơi.
Bảo vệ Đàng Trong
Giải Phóng Đàng Ngoài
http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html
Hình lấy trên net. Tân Định. Phía bên trái, là đường Trần Quang Khải. Ngay đầu đường, có nhà bảo sanh Trương Phương (?), mấy đứa nhỏ con vợ chồng Gấu đều sinh tại đây. Kế nhà bảo sanh vài căn, là nhà ông chú, Chú Th, bạn học của ông già. Gấu có nhắc tới ông chú này, trong đi tìm một cái tên cho 1 cuộc chiến.
Cầu Kiệu, Phú Nhuận ở
phía sau. Phía trước, đi mãi tới Bến
Tầu Sài Gòn. TOBIA là nhà hòm.
Quán Chùa (La
Pagode) là một địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài
Gòn trước đây. Theo các miêu tả thời đó
thì đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc
một "thế hệ mới" trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm
nghe tiếng đại bác của Nhã Ca (bản
Nam Cường, 68), Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:
Cái sự kiện Gấu hay ngồi
ở Quán Chùa, và đám bạn cũng
kéo nhau ra đó, hoàn toàn là
do "ngẫu nhiên, tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!
Gấu làm cho UPI, trụ
sở số 19 Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một
đầu đâm ra Chợ Cũ, một ra bùng binh bờ sông, có
bức tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra biển. Sáng
sớm, Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ
8 giờ sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có
gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước rồi.
Khi không có hình, Gấu
bèn ghé Quán Chùa.
Tuy nhiên, cái sự
kiện hay ngồi Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn
Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám
nằm vùng, trong có đấng Lữ Phương. Ông
này dùng từ “viễn mơ” để chửi đám Gấu. Không
chỉ hay ngồi Quán Chùa, đếch biết đến nỗi quê
hương bị Mẽo dầy xéo, vân vân và vân
vân, mà còn thờ phụng thứ văn chương hiện
sinh, ăn phải cứt mũi lõ, bày đặt tiểu thuyết mới
này nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng,
thực sự tham chiến!
Rồi tới PCT!
Nhiều lắm. Duyên do chỉ là do Gấu Cà Chớn đầu têu!
Gấu đã viết về cái
cảnh này rồi:
Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.
Những buổi sáng, nếu có
Radiophoto, khi xong việc, hoặc ở lại sở phụ giúp một
đồng nghiệp làm ca sáng, chờ tới trưa coi UPI
có hình cần chuyển, hoặc theo ông Hưng, đồng
nghiệp làm cho hãng AP tới văn phòng hãng
này, ở tầng lầu phía bên trên passage
Eden, nhìn bức hình Huỳnh Thành Mỹ phóng
lớn treo trên tường, uống ly cà phê kiểu Mỹ,
nói dăm ba câu tiếng Tây với Horst Fass, trưởng
phòng hình ảnh, rồi cùng ông Hưng đi
kiếm mấy cuốn truyện "série noire" của một tay bán
sách dạo ở một con hẻm chật cứng giữa hai bức tường gần bên
tiệm thuốc tây trên đường Tự Do. Trường hợp không
có Radiophoto, thường ngồi trơ cu lơ một mình trong lúc
chờ bạn bè tại một bàn tại góc quán
Cái Chùa, mơ màng tự hỏi không biết sáng
nay cô bạn có giờ học tại Văn Khoa hay không, mơ
màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ
gặp một người chắc chắn hơn hẳn mi: Một người hoặc không nợ nần
gì cuộc chiến nên không bị nó hành
hạ đến trở thành khật khùng, hoặc thừa thông minh,
thừa khôn ngoan để cùng cô thoát ra khỏi,
cho dù người đó có yêu thương cô hay
không thì mọi chuyện cũng chẳng liên can chi tới
mi.
Hoặc ba hoa trò chuyện chán
chê với đám bạn bè cho tới khi không
còn kiếm ra một câu nói thật độc địa,
thật cay đắng về nhau, về một cuốn sách vừa được xuất bản,
một bài thơ, một truyện ngắn vừa được đăng báo, tựu
chung cũng chỉ để quên đi một chốc một lát, hoặc may
lắm một nửa buổi không nhớ tới cô bạn. Rồi cũng tàn
câu chuyện, đám bè bạn từng đứa bỏ ra về. Huỳnh
Phan Anh có thể đã đến giờ lên lớp, có
thể bực mình vì thằng bạn Bắc Kỳ đổi tên cuốn
truyện, Thất Lạc thành Thật Lạt, nhại cách nói
của dân miền Nam. Còn Nguyễn Xuân Hoàng
có lần bỏ quán Cái Chùa đến cả tuần lễ,
chỉ vì cũng vẫn thằng bạn khốn nạn bầy đặt viết bài phê
bình, giới thiệu cuốn sách mới ra lò của anh,
Sinh Nhật, bị đổi thành Sinh Nhạt, và bài phê
bình mang tên Đi Tìm Một Chiếc Mũ Đã Mất,
nhại theo Proust. Bao nhiêu năm trời nhớ lại mới thấy càng
thù ghét cái phần thâm căn cố đế, cái
bản chất thâm độc nơi đáy sâu thân thể, bao
nhiêu năm tháng, mưa gió, khí hậu, con người,
vùng đất hiền hòa không sao gột rửa nổi. Ba mươi năm
sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn bè, đứa còn đứa mất,
chẳng đứa nào được may mắn với cõi sống, cõi viết.
Nguyễn Đình Toàn ở Việt Nam, nghe nói
mắt cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không
được may mắn. Còn Nguyễn Xuân Hoàng bây giờ
lại ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo
gì hay không...
Cõi khác
Ngồi Quán Chùa, gọi 1 ly cà phê, 1 cái bánh croissant, rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở những quán khác. Và do Gấu cày hai jobs, thường là Gấu trả tiền, thời đó chưa có cái trò “kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo. Chẳng thế mà có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em, cũng lính tráng, sĩ quan, bây giờ, khi gặp lại ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra Quán Chùa, thấy anh ngồi đó, là "yên chí lớn" rồi!
Khi nào thèm bún ốc, thèm phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì, thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại về Quán Chùa uống cà phê.
Sau này, ra hải ngoại, Gấu vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm ngó dung nhan Cô T, là vậy. Giả như quen biết từ hồi đó, biết đâu số phận lại khác đi, Cô T, có ông chồng tử trận, Gấu có thằng em, chẳng thua, nhưng, biết đâu nhờ vậy, Cô không quen cái băng Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ - ma cà rồng, quỉ, kên kên... đúng hơn - sống bằng xác chết của ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng ra tiền”, biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ "Việt Nam" như bà Ba Lan, Nobel văn chương!
Hà, hà!
Thê thảm nhất, là
lần ghé Quận Cam, cùng lúc Cô
T cũng từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp,
vừa uống cà phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói,
anh tới chỗ… bữa nay ra mắt sách của băng Cờ Lăng.
Ui chao, Gấu có bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!
[Khúc này viết để gửi tri kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]
Note: Có 1 quán, một cái xe đẩy, đúng hơn, bán bún ốc, tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa soạn AP, bên trong Passage Eden. Bà chủ xe bún ốc, có lần cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày, gia đình quây cót, nuôi trong nhà, không cần phải đi chợ.
Ngồi ăn, nhìn ra, là
thấy Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở
lại Quán Chùa, tiếp bạn quí!
Note: Hai bài viết, đang Top Ten, theo server, là cũng về Xề Gòn, bạn bè ngày nào:
[Trong hình, Bạn Duật
đứng hàng thứ nhì, đeo kính, đi giầy,
tính từ phía trái]
Ba Trăm Năm Sau Có
Ai Khóc Gấu Cà Chớn
Lại có ông, cứ mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của tôi. Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được. Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba trăm năm sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình!
Gấu bị Thầy Kuốc thù, có thể là do đề nghị, nếu có ngứa, thì gãi, hoặc đi gặp Bác Sĩ, vì có khi, do di chứng của giang mai.
Đừng viết!
Có lần, được, chắc là
đàn em “mồi”, hỏi, tại sao viết, Thầy buông
độc 1 tiếng:
Ngứa!
Kẹt 1 cái, cả 1 đám đàn em sau đó, nhao nhao lập lại sư phụ, do ngứa mà viết!
Chủ là 1 anh Tẩy. Có cậu con trai, chiều chiều hai cha con đi dạo, Gấu có gặp đôi lần..... Bạn Chất hay ngồi đây lắm, khi có "viện trợ Mỹ" - khi bà Út, phu nhân đại tá Út, tỉnh trưởng Cà Mau về Sài Gòn chơi. Bà là em gái bà cụ Chất. Thường là anh kéo theo GCC. Cả hai, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ nhảy đầm.
Gấu, những đêm trực - Đài Liên Lạc VTD, đường Phan Đình Phùng cũng gần đó, thỉnh thoảng cũng mò ra đây, khi quá nhớ cô bạn… Quán cà phê Duyên Anh cũng đâu đó…
Ui chao cả 1 trời kỷ niệm.
Văn Cảnh. Tới có 1 lần. Đi với Gấu Cái.
Đúng ra là bị Gấu Cái “cho vô xiệc”.
Biết chồng mình nhớ cô bạn phù dâu ngày nào, và cũng thèm nghe nhạc thính phòng, bèn phịa, nó hẹn vợ chồng mình ở Văn Cảnh, tối nay....!
Dã man thật!
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26198790884/
http://www.tanvien.net/sangtac/sa05_coi_khac.html
Cũng bị VC làm thịt như vầy.
Cứ có ông nào OK, là VC làm thịt, để sau này nhường chỗ cho toàn 1 lũ bần cố nông, chăn trâu, học lớp 1, hay y tá dạo.
Nguyễn Chí Khả, anh Nguyễn Chí Kham, đọc truyện, sửa giùm
Bạn thử nhìn lũ Trùm VC hiện nay, coi, có tên nào có tí chữ hiện lên mặt không?