In Memoriam: Zbigniew Herbert
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew Herbert
Zbigniew
Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of
seventy-three. He is one of the most influential European poets of the
last
half century, and perhaps-even more than his great contemporaries
Czeslaw
Milosz and Wladislawa Szymborska-the defining Polish poet of the
post-war years.
It's hard to know how to talk about him, because he
requires
superlatives and he despised superlatives. He was born in Lvov in 1924.
At
fifteen, after the German invasion of Poland, he joined an underground
military
unit. For the ten years after the war when control of literature in the
Polish
Stalinist regime was most intense, he wrote his poems, as he said, "for
the drawer." His first book appeared in 1956. His tactic, as Joseph
Brodsky has said, was to turn down the temperature of language until it
burned
like an iron fence in winter. His verse is spare, supple, clear,
ironic. At a
time when the imagination was, as he wrote, "like stretcher bearers
lost
in the fog," this voice seemed especially sane, skeptical, and adamant.
He
was also a master of the prose poem. Here are some samples:
The Wind and the Rose
Once in a garden there grew a
rose. A wind fell in love with her.
They were completely different, he-light and fair; she immobile and
heavy as
blood.
There came a man in wooden clogs and with his thick
hands he
plucked the rose. The wind leapt after him, but the man slammed the
door in his
face.
-O that I might turn to stone-wept the unlucky one-I
was able to go round the whole world, I was able to stay away for
years
at a time, but I knew that she was always there waiting.
The wind understood that, in order really to suffer,
one has
to be faithful.
Robert Hass: Now
& Then.
The Poet’s Choice Columns 1997-2000
Zbigniew Herbert mất vài tuần
trước đây, ở Warsaw thọ 73 tuổi. Ông
là 1 trong những nhà thơ Âu Châu, ảnh hưởng nhất trong nửa thế kỷ, và
có lẽ -
bảnh hơn nhiều, so với ngay cả hai người vĩ đại, đã từng được Nobel,
đồng thời,
đồng hương với ông, là Czeslaw Milosz và Wladislawa Szymborska -
nhà thơ
định nghĩa thơ Ba Lan hậu chiến.
Thật khó mà biết làm thế nào nói về ông, bởi là vì ông đòi hỏi sự
thần sầu, trong khi lại ghét sự thần sầu. Ông sinh tại Lvov năm 1924.
Mười lăm
tuổi, khi Đức xâm lăng Ba Lan, ông gia nhập đạo quân kháng chiến. Trong
10 năm,
sau chiến tranh, khi chế độ Xì Ta Lin Ba Lan kìm kẹp văn chương tới
chỉ, ông
làm thơ, thứ thơ mà ông nói, “để trong ngăn kéo”. Cuốn đầu tiên của ông, xb năm 1956. Đòn của
ông [his
tactic], như Brodsky chỉ cho thấy, là giảm nhiệt độ ngôn ngữ tới khi nó
cháy đỏ
như một mảnh hàng rào sắt, trong mùa đông. Câu thơ của ông thì thanh
đạm, mềm mại,
sáng sủa, tếu tếu. Tới cái lúc, khi mà tưởng tượng, như ông viết, “như
những
người khiêng băng ca – trong khi tản thương, [“sơ tán cái con mẹ gì
đó”, hà hà]
- mất tích trong sương mù”, thì tiếng thơ
khi đó, mới đặc dị trong lành, mới
bi quan, và mới sắt đá làm sao.Ông
còn là 1 sư phụ của
thơ xuôi. Thí dụ:
Gió và BHD
Ngày xưa,
trong một khu vườn, có BHD. Anh Cu Gió bèn tương tư nàng. Chúng mới
khác nhau
làm sao. Anh Cu Gió, thì bông lơn, cà chớn, lêu ba lêu bêu, nhẹ hều,
còn Nàng
thì bất động, và nặng, như máu.
Rồi tới 1 ngày, một tên đàn ông, đi guốc mộc, tới
vườn. Hắn dùng tay dày ngắt bông hồng. Gió đuổi theo, nhưng gã đàn
ông đóng sầm cửa vào mặt nó.
-Ui chao, thế
này thì ta biến thành đá mất – Anh Cu Gió bất hạnh khóc. Ta có thể đi
khắp đó đây,
ta bà thế giới, ta có thể cô đơn 1 một mình, hàng năm trời, ở trong cái
xó xỉnh
nào, nhưng ta biết, Nàng chẳng bao giờ còn ở đó nữa, để mà đợi ta.
Anh Cu Gió
ngộ ra 1 điều là, để thực sự đau khổ, người ta phải thành thực, hết
lòng, một lòng
một dạ, tin tưởng, trung thuỷ….
A DEVIL
He is an utter failure as
a devil. Even his tail. Not long and fleshy with a black brush of hair
at the end, but short, fluffy, and sticking out comically like a
rabbit's. His skin is pink, only under his left shoulder-blade a mark
the size of a gold ducat. But his horns are the worst. They don't grow
outward like other devils' but inward, into the brain. That's why he
suffers so often lrom headaches.
He is sad. He sleeps for days on end. Neither good nor evil attract
him. When he walks down the street, you see distinctly the motion of
the rosy wings of his lungs.
Con Quỉ
Đúng là 1 thất bại thê thảm, như 1 con quỉ. Nhìn cái đuôi là thấy rồi!Không dài và béo với một búi tóc đen ở cuối, mà lại ngắn, như nùi bông, thòi ra rất ư là tiếu lâm, cà chớn, giống như đuôi thỏ. Da màu hồng, chỉ ở bên dưới vai trái – có cái dấu lớn bằng đồng ducat bằng vàng. Nhưng tệ hại nhất là sừng. Chúng không chọc ra như những con quỉ khác, mà lại đâm vô não. Đó là lý do tại sao nó hay kêu đau đầu.
Nó thì buồn. Nó ngủ suốt. Thiện hay ác, chẳng màng. Khi nó đi xuống phố, bạn thấy rõ sự chuyển động của hai cánh phổi màu hồng.
Robert Hass,
nhà thơ với vòng nguyệt quế Mẽo, U.S. Poet Laureate, còn là nhà dịch
thơ số 1,
như những bạn thơ, cũng "U.S. Laureate" như Charles Simic, thí
dụ.
Tin
Văn sẽ đi những bài viết trong này, vì đọc chúng, cũng là đọc thơ toàn
thế giới!
Hà, hà!
Khi GCC phịa
ra mục “thơ mỗi ngày” và được 1 độc giả đi 1 cái mail cám ơn, đã
thấy sướng
mê tơi.
Nhưng mục nhà thơ Robert Hass phịa ra mới khủng, như chính ông thú
nhận,
chưa từng có trên đời:
The
Poet’s Choice Columns.
A Note to Readers
THIS IS A BOOK of poems and small essays about them written over a period of about two years. It came about because Nina King, then literary editor of the Washington Post, invited me to write a weekly column for the Post's Book World. The idea was that I would, each week, select a poem and comment on it. The aim was to introduce poetry to people who had never read it at all; to reintroduce it to people who had read it in school but had gotten out of the habit and, having an impulse to find their way back to it, didn't know where to start; and to give people who did read poetry some poems and ideas about poems to think about.
The column was a novelty. Nothing quite like it had been done in an American newspaper in many decades, if ever, and it was immediately popular with readers of Book World….
Để ăn mừng tập thơ, GCC xin giới thiệu tới độc giả TV, bài tưởng niệm Zbigniew Herbert, Robert Hass viết, đúng SN/GCC.
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew Herbert
Zbigniew
Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of seventy-three. He
is one
of the most influential European poets of the last half century, and
perhaps-even more than his great contemporaries Czeslaw Milosz and
Wladislawa
Szymborska-the defining Polish poet of the post-war years.
It's hard to
know how to talk about him, because he requires superlatives and he
despised
superlatives. He was born in Lvov in 1924. At fifteen, after the German
invasion
of Poland, he joined an underground military unit. For the ten years
after the
war when control of literature in the Polish Stalinist regime was most
intense,
he wrote his poems, as he said, "for the drawer." His first book
appeared in 1956. His tactic, as Joseph Brodsky has said, was to turn
down the
temperature of language until it burned like an iron fence in winter.
His verse
is spare, supple, clear, ironic. At a time when the imagination was, as
he
wrote, "like stretcher bearers lost in the fog," this voice seemed
especially
sane, skeptical, and adamant. He was also a master of the prose poem.
Here are
some samples:
The Wind and the Rose
Once in a
garden there grew a rose. A wind fell in love with her. They were
completely different,
he-light and fair; she immobile and heavy as blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose. The
wind
leapt after him, but the man slammed the door in his face.
-O that I
might turn to stone-wept the unlucky one-I was
able to go round the whole world, I was
able to stay away for years at a time, but I knew that she was always
there
waiting.
The wind
understood that, in order really to suffer, one has to be faithful.
Khi ông anh của tớ từ mặt
trận trở về
Trán của anh có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi sao
Một vực thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những chi tiết)
Anh trở thành nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi, anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi nhìn anh
Ngày càng xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy anh
Và anh lần lần trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những cái vỏ sò
âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng còn gì
Ngoại trừ xúc giác
Những câu chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang ông anh của tớ
đi
Đưa ra khỏi thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô nhà
Và đến cửa sổ phòng tớ gõ
Và anh kể cho tớ nghe
Những câu chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt thằng em trai của anh
Với những ngón tay mù,
Của mưa.
Zbigniew Herbert
Robert Hass,
nhà thơ với vòng nguyệt quế Mẽo, U.S. Poet Laureate, còn là nhà dịch
thơ số 1,
như những bạn thơ, cũng "U.S. Laureate" như Charles Simic, thí
dụ.
Tin
Văn sẽ đi những bài viết trong này, vì đọc chúng, cũng là đọc thơ toàn
thế giới!
Hà, hà!
Khi GCC phịa
ra mục “thơ mỗi ngày” và được 1 độc giả đi 1 cái mail cám ơn, đã
thấy sướng
mê tơi.
Nhưng mục nhà thơ Robert Hass phịa ra mới khủng, như chính ông thú
nhận,
chưa từng có trên đời:
The
Poet’s Choice Columns.
A Note to Readers
THIS IS A BOOK of poems and small essays about them written over a period of about two years. It came about because Nina King, then literary editor of the Washington Post, invited me to write a weekly column for the Post's Book World. The idea was that I would, each week, select a poem and comment on it. The aim was to introduce poetry to people who had never read it at all; to reintroduce it to people who had read it in school but had gotten out of the habit and, having an impulse to find their way back to it, didn't know where to start; and to give people who did read poetry some poems and ideas about poems to think about.
The column was a novelty. Nothing quite like it had been done in an American newspaper in many decades, if ever, and it was immediately popular with readers of Book World….
Để ăn mừng tập thơ, GCC xin giới thiệu tới độc giả TV, bài tưởng niệm Zbigniew Herbert, Robert Hass viết, đúng SN/GCC.
AUGUST 16 [1998]AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew Herbert
Zbigniew
Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of seventy-three. He
is one
of the most influential European poets of the last half century, and
perhaps-even more than his great contemporaries Czeslaw Milosz and
Wladislawa
Symborska-the defining Polish poet of the post-war years.
It's hard to
know how to talk about him, because he requires superlatives and he
despised
superlatives. He was born in Lvov in 1924. At fifteen, after the German
invasion
of Poland, he joined an underground military unit. For the ten years
after the
war when control of literature in the Polish Stalinist regime was most
intense,
he wrote his poems, as he said, "for the drawer." His first book
appeared in 1956. His tactic, as Joseph Brodsky has said, was to turn
down the
temperature of language until it burned like an iron fence in winter.
His verse
is spare, supple, clear, ironic. At a time when the imagination was, as
he
wrote, "like stretcher bearers lost in the fog," this voice seemed
especially
sane, skeptical, and adamant. He was also a master of the prose poem.
Here are
some samples:
The Wind and the Rose
Once in a
garden there grew a rose. A wind fell in love with her. They were
completely different,
he-light and fair; she immobile and heavy as blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose. The
wind
leapt after him, but the man slammed the door in his face.
-O that I
might turn to stone-wept the unlucky one-I was
able to go round the whole world, I was
able to stay away for years at a time, but I knew that she was always
there
waiting.
The wind
understood that, in order really to suffer, one has to be faithful.
THE RAIN
When my older brother
came back from war
he had on his forehead a little silver star
and under the star
an abyss
a splinter of shrapnel
hit him at Verdun
or perhaps at Grunwald
(he'd forgotten the details)
He used to talk much
In many languages
But he liked most of all
The language of history
until losing breath
he commanded his dead pals to run
Roland Kowalski Hannibal
he shouted
that this was the last crusade
that Carthage soon would fall
and then sobbing confessed
that Napoleon did not like him
we looked at him
getting paler and paler
abandoned by his senses
he turned slowly into a monument
into musical shells of ears
entered a stone forest
and the skin of his face
was secured
with the blind dry
buttons of eyes
nothing was left him
but touch
what stories
he told with his hands
in the right he had romances
in the left soldier's memories
they took my brother
and carried him out of town
he returns every fall
slim and very quiet
he does not want to come in
he knocks at the window for me
we walk together in the
streets
and he recites to me
improbable tales
touching my face
with blind fingers of rain
Zbigniew Herbert: The Collected Poems 1956-1998
(1)
Mưa
Khi ông anh của tớ từ mặt
trận trở về
Trán của anh có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi sao
Một vực thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những chi tiết)
Anh trở thành nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi, anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi nhìn anh
Ngày càng xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy anh
Và anh lần lần trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những cái vỏ sò
âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng còn gì
Ngoại trừ xúc giác
Những câu chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang ông anh của tớ
đi
Đưa ra khỏi thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô nhà
Và đến cửa sổ phòng tớ gõ
Hai anh em đi bộ trong
những con phố Xề Gòn
Và anh kể cho tớ nghe
Những câu chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt thằng em trai của anh
Với những ngón tay mù,
Của mưa
Why The Classics
Tại sao những nhà cổ điển
Note: Zbigniew Hertbert, trong tuyển tập văn xuôi, có đi đường về bài thơ này.
The Romantic view of the
poet who bares his wounds, relates
his misfortunes, still has many supporters today, despite changes in
style and
literary taste.
Cái trò cào cấu vết thương, than thân trách phận, của đám nhà văn nhà
thơ Lãng
Mạn, đến nay vưỡn còn nhiều fan, mặc dù thay đổi văn phong và khẩu vị.
Thơ ca như là 1 nghệ thuật của từ ngữ làm tôi ngáp.
THEORY OF DREAMS
In memory of Jean Améry
1.
The
torturers sleep soundly their dreams are rosy
good-natured
genocides - foreign and home-grown
already
forgiven by brief human memory
a gentle
breeze turns the pages of family albums
the windows
of the house open to August the shade of an
apple-tree in bloom
under which
a fine brood has gathered
grandfather's
open carriage an expedition to church
first
communion mother's first embrace
a campfire
in a clearing and a starry sky
without
omens or mysteries without an Apocalypse
so they
sleep soundly their dreams are wholesome
full of food
drink fleshy bodies of women
with whom
they play erotic games in bushes in groves
and over it
all floats a never-forgotten voice
a voice pure
as a spring innocent as an echo
singing of a
boy who spied a rose on the heath
memory's
bell awakens no ghosts or nightmares
memory's
bell repeats its great absolution
they wake in
the early morning full of will and strength
carefully
they shave their bourgeois cheeks
what remains
of their hair they style as a laurel wreath
in the
waters of oblivion that wash all away
they lather
their bodies with soap of the brand Macbeth
2.
Why does
sleep - the shelter of all human beings.
withhold its
grace from the victims of violence
why do they
bleed at night between clean sheets
and enter
their beds as if they were torture chambers
cells on
death row or the shadow of the gallows
after all
they too had mothers and they have seen
the woods
clearing sky blossoming apple-tree rose
who drove it
all from every corner of their souls
they too
experienced moments of happiness so why
does their
howling awaken the innocent household
why do they
tear off yet again on their mad escape
beating
their heads on a wall and then sleep no more
staring
dully at the clock which won't change a thing
memory's
bell repeats its great terror
memory's
bell beats an unceasing alarm
it's truly
hard to admit the torturers won the victory
the victims
have been vanquished for all of eternity
so they must
make terms with this punishment without guilt
with the
scar of shame the fingermarks on their cheeks
the abject
will to survive-the temptation of forgiveness
the story of
hell is now rightly felt to be in bad taste
there's no
longer any place to lodge your complaint
the tribunal
of dreams delivers unfathomable verdicts
-Zbigniew Herbert
(Translated
from the Polish by Alissa Valles)
Par-delà le
crime et le châtiment
Vượt
quá tội ác và hình phạt
Torture, writes Améry, has "an
indelible character".
Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử
tự nhiên
về huỷ diệt
[Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of
destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là:
Ai đã
từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc
[đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt,
le vrai mal du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1", “la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ
của
Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản chất, so với những gì tôi viết ở
trên,
và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát
hỏng
Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng
ruộng
Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt nước mắt đồng lõa. Sầu
Xa Xứ
thứ thiệt không phải là tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais
l’autodestruction.
Cuốn của
Jean Améry, là của 1 vị độc giả TV, tặng Gấu Cà Chớn, cũng lâu lắm rồi.
Tks. Take
care
A DEVIL
He is an
utter failure as a devil. Even his tail. Not long and fleshy with a
black
brush of hair at the end, but short, fluffy, and sticking out comically
like a
rabbit's. His skin is pink, only under his left shoulder-blade a mark
the size of a
gold ducat. But his horns are the worst. They don't grow outward like
other
devils' but inward, into the brain. That's why he suffers so often lrom
headaches.
He is sad.
He sleeps for days on end. Neither good nor evil attract him. When he
walks down the street, you see distinctly the motion of the rosy wings
of his
lungs.
Con Quỉ
Đúng là 1 thất
bại thê thảm, như 1 con quỉ. Nhìn cái đuôi
là thấy rồi!
Không dài và
béo với một búi tóc đen ở cuối, mà lại ngắn, như nùi bông, thòi ra rất
ư là tiếu
lâm, cà chớn, giống như đuôi thỏ. Da màu hồng, chỉ ở bên dưới vai trái
– có cái
dấu lớn bằng đồng ducat bằng vàng. Nhưng tệ hại nhất là sừng. Chúng
không
chọc ra như những con quỉ khác, mà lại đâm vô não. Đó là lý do tại sao
nó hay kêu
đau đầu.
Nó thì buồn.
Nó ngủ suốt. Thiện hay ác, chẳng màng. Khi nó đi xuống phố, bạn
thấy rõ sự chuyển động của hai cánh phổi màu hồng.
THE HILL FACING THE PALACE
The hill
facing Minos's palace is like a Greek theater
tragedy
leaning its back against the impetuous slope
rows of
fragrant shrubs curious olive trees
applaud the
ruins
Between
nature and human fate
there is no
essential connection
the saying
that grass mocks catastrophe
is a whim of
the inconsolable and fickle
An odd case:
two straight parallel lines
will never
intersect not even in infinity
That's all
you can honestly say about it
Ngọn đồi đối diện cung điện
Ngọn đồi đối
diện cung điện Minos
thì giống như một rạp hát Hy Lạp
bi kịch dựa
lưng trên những luống ô liu thơm ngát-
những con dốc
mãnh liệt, hung hãn
Điêu tàn vỗ
tay điêu tàn
Giữa thiên
nhiên và số phận của con người
chẳng hề có liên
hệ thiết yếu
Câu nói, cỏ
cây chọc quê tai ương,
Là 1 cú cà
giựt thoáng qua, của điều không thể an ủi, không kiên định
Một trường hợp
lẻ: hai đường thẳng song song
không bao giờ gặp nhau, ngay cả ở vô cực
Đó là tất cả
những gì bạn có thể thành thực nói về điều này.
Zbigniew
Herbert, “Ba Lan Tam Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là, Milosz, Szymborska
đều đợp
Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Mít Nam: Bùi Giáng,
Tô
Thuỳ Yên,
Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã từng gọi.
Gấu biết tới
Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ điển?" (1)
Nhưng
để đọc
được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của ông thì cũng
dày cộm,
và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới đọc được, mới
đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!
Nhà
văn Nam Phi [Coetzee] nhắc tới một bài
diễn thuyết - cùng tên với bài viết của ông, của T.S. Elliot -
vào
tháng Mười 1944, tại London,
khi
Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc
chiến, Eliot chỉ nhắc tới nó, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ là
tai nạn của hiện
tại
(accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi, đối với cuộc
sống của
Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài nói chuyện.
"Nhà là nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ [Eliot] cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert.
Với Herbert, đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Như vậy, với chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng chỉ là một cái hắt hơi của lịch sử. Không phải viết từ những đối nghịch chính trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó, mà trở nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm cho được, cái gọi là nhà, liệu có đúng như Eliot nói đó không: Nhà là nơi một người bắt đầu.Hay nhà là nơi cứ thế sống sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên, Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà văn Việt nam ở hải ngoại.
Câu dưới, có vẻ như dành cho nhà văn trong nước.
This poetry
is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty
of an
inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact
that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense
of
humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự kiện, cùng lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, hay cái cảm quan cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình – thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.
Adam Zagajewski: Introduction(Translated by Bill Johnston) (1)
Bài “Thế nào là cổ điển?” là bài mở ra cuốn tiểu luận đầu của Coetzee, Stranger Shores, “Những bến bờ lạ lẫm hơn”, hết sức quan trọng, GCC tính dịch hoài, nhưng tuổi thì già, lực thì tận, trời cho chỉ có thế [đây là câu trả lời, của ông anh nhà thơ TTT, lần Gấu phôn (sau cùng) hỏi ông, anh có tính “viết” nữa không, “trời cho chỉ có thế!”].
Câu này,
trong bài viết của Coetzee mà chẳng thú sao, chép lại để tặng “anh Cu
Dzũng" -
cũng 1 thứ Bắc Kít, như GCC, "anh Cu Gấu" như TTT, "anh Cu Nghệ", như
viết cho
Đảo Xa, "trời cho nhiều hơn thế, hy vọng" -:
Phê bình là bổn
phận- bị buộc vào mình: tra hỏi quá khứ. (1)
Cái gọi là “bốn
ngàn năm văn hiến”, như thế, cần phải "bị/được" "tra tấn/vấn"!
(1)
One might even venture further along this road to say that the function of criticism is defined by the classic: criticism is that which is duty-bound to interrogate the classic. Thus the fear that the classic will not survive the decentering acts of criticism may be turned on its head: rather than being the foe of the classic, criticism, and indeed criticism of the most skeptical kind, may be what the classic uses to define itself and ensure its survival. Criticism may in that sense be one of the instruments of the cunning of history.
Đó là câu khép lại bài viết, và như thế, bài viết còn có tên: Phê bình là gì?, theo GCC.ORWELL'S ALBUM
He didn't manage his life very
well a certain Eric Blair
on every picture his face is extraordinarily melancholy.
A top student at Eton-Oxford-then colonial service
during which he cut the sum total of elephants by one.
He was witness to the hanging of some unruly Burmese
and described it in detail. War in Spain with the anarchs.
There's a picture: fighters in front of the Lenin barracks
in the background he stands too tall and entirely alone.
Sadly there's no photo of his
period of poverty studies
in Paris and London. A gap allowing for speculation.
And then finally late fame-more
than that-wealth:
we see him with dog and grandson. Two pretty wives
a country house in Banhil where he lies under a stone.
Not one holiday snapshot-tennis
shoes a sunlit yacht
the courting of amusement. Good. Luckily no photo
of him in hospital. The bed. The white flag of a towel
held to a bleeding mouth. But he will never surrender.
And he goes off like a pendulum patient and suffering
to a certain encounter.
Zbigniew Herbert: The Collected Poems
Album của Orwell
Ông ta không biết làm cho thật
bảnh, đời của mình, cái tay Eric
Blair nào đó này
Ấy là vì nhìn mọi bức hình, mặt ông buồn thiu.
Sinh viên số 1 Eton-Oxford
Rồi thì phục vụ ở thuộc địa
Trong thời gian này, ông làm thịt 1 con voi, khiến tổng số voi bị thiến
mất 1
con.
Ông còn chứng kiến tận mắt lũ mũi lõ Hồng Mao treo cổ
những tên Miến cô lô nhần dám chống lại mẫu quốc,
và miêu tả thực là tỉ mỉ thú vui này.
Chiến tranh Tây Bán Nhà với đám vô chính phủ
Có bức hình này trông cũng thú: những chiến sĩ trước những doanh trại
Lenin,
Ở phía sau, ông đứng, cao lêu khêu, và mới cô đơn làm sao.
Hơi có tí buồn, là không có tấm
hình nào thời gian ông sống khốn
khó,
khi đi học ở Paris, và London.
Một khoảng trống, tha hồ mà đoán mò.
Và sau cùng,
vinh quang muộn - hơn cả thế nữa –
giàu sang:
chúng ta nhìn thấy ông ta, với, nào chó, nào cháu trai.
Hai bà vợ đẹp, một căn nhà đồng quê ở Banhil nơi ông nằm dưới 1 hòn đá.
Không thấy bức nào - dã ngoại, pinic, ngày nghỉ -
những đôi giày tennis, một du thuyền sáng choang ánh mặt trời, rong
buồm mua
lấy 1 ngày vui, kiểu đó.
Thì cũng tốt thôi.
May quá, đếch có tấm nào khi ông nằm nhà thương.
Trên giường. Một cái khăn trắng giống như 1 lá cờ ở miệng, ngăn thổ
máu.
Nhưng ông sẽ chẳng bao giờ đầu hàng.
Và ông đi, như quả lắc, nhẫn nại và đau khổ, cho một cuộc gặp gỡ nào đó.
A TALE
The poet
imitates the voices of birds
he cranes
his long neck
his
protruding Adam's apple
is like a
clumsy finger on a wing of melody
when singing
he deeply believes
that he
advances the sunrise
the warmth
of his song depends on this
as does the
purity of his high notes
the poet
imitates the sleep of stones
his head
withdrawn into his shoulders
he is like a
piece of sculpture
breathing
rarely and painfully
when asleep
he believes that he alone
will
penetrate the mystery of existence
and take
without the help of theologians
eternity
into his avid mouth
what would
the world be
were it not
filled with
the
incessant bustling of the poet
among the
birds and stones
Zbigniew Herbert
Một câu chuyện
Thi sĩ bắt
chước tiếng chim
anh ta dướn
cái cổ dài
trái táo
Adam lồi hẳn lên
như 1 ngón
tay vụng về trên cánh giai điệu
khi hát, anh
thực tin
anh đi trước
mặt trời mọc
bài ca ấm áp
là nhờ vậy
cũng nhờ vậy,
sự tinh khiết của những nốt nhạc cao
thi sĩ bắt
chước giấc ngủ của những hòn đá
cái đầu của anh
ta tụt vô vai
trông anh chẳng
khác chi một mẩu điêu khắc
thở, hiếm
hoi và đau đớn làm sao
khi ngủ, anh
ta nghĩ chỉ mình anh ta
nhập vô được
sự bí mật của hiện hữu
và đợp được
vĩnh cửu vào trong
cái miệng thèm thuồng của mình
đếch cần sự
trợ giúp của mấy đấng thần học
nếu không được làm đầy bằng những tiếng lèm bèm
không ngừng của thi sĩ Gấu Cà Chớn
APOCRYPHAS
THE MERCY OF THE EXECUTIONER
MONG THE MANY portraits of Jan van Olden Barneveldt I like most the one painted by an unknown master. The Great Pensionary is shown as an old man. Even the paint's substance carries the marks of disintegration, of mold, dust, lid cobweb. Though not a beautiful face, it is full of expression and noble strength: a very high forehead, a large, meaty, not very shapely nose, a patriarchal beard, and under bushy eyebrows intelligent eyes where the desperate energy of someone trapped is glowing.
No historian denies that Barneveldt was one of the most meritorious founders of the new Republic. He was called Holland's defender. This first great politician, who came from the middle classes and represented their interests, knew how to defend the rights of the young state better than anyone else. He negotiated with the powerful monarchs of Spain, France, and England, prepared advantageous armistices, peace treaties, and alliances, and during the forty years of his life worked faithfully and untiringly for his country, But with the approach of old age his political sense began to fail. Barneveldt made crucial mistakes, and the culmination of these was a “sharp resolution" allowing towns to recruit mercenaries not subject to orders from the Prince of Orange, the true commander of the Republic's army. The country was on the threshold of civil war.
Barneveldt not only lost all sense of judgment in the situation, but his instinct of self-preservation abandoned him as well. He did not understand, or did not want to understand that his handful of supporters was melting away and everyone was against him-the governor, the Estates General and the towns. Returning home from his office, he stepped with indifference over leaflets written against him. He did not listen to the friends, who insisted that he resign and go abroad. He was like a turtle dying on the sand, sinking deeper and deeper.
The finale was easy to guess, and surprising only to Barneveldt himself. Arrested after a months-long investigation, he stood before a tribunal composed mostly of his enemies. Deprived of a lawyer, furiously defended his honor rather than his life. The time of the action: May 13, 1619. Place: The Hague, Binnenhof - a brick Gothic and Renaissance decoration of the drama. In the courtyard a wooden scaffold was hastily erected and sand strewn about. It was late afternoon. The fiery carriage of Helios -as rhetorical poets write – rolled westward. When they brought in the condemned man, the crowd fell silent. Barneveldt was hurrying toward death: "What you must do, do it fast," he urged the executors of the verdict. Then something happened that went far beyond the ritual of the execution, beyond the procedure of any known execution. The executioner led the condemned man to a spot where sunlight was falling and said, Your Honor, you will have sun on your face." One might ask the question whether the executioner who cut off the head of the Great Pensionary was a good executioner. The goodness of the executioner depends on his ability to carry out his task quickly, efficiently, and in an impersonal way. Who more than he deserves to be called executor of fate, or the soundless lightning of destiny? His virtues should be silence and cool restraint. He should administer the blow without compassion, without any kind of emotion. Barneveldt's executioner broke the rules of the game, left his role, and, what is more, violated the principles of professional ethics. Why did he do it? Certainly it was an impulse of the heart. But didn't the condemned man, who was stripped of all earthly glory, perceive derision in it? After all, it is indifferent to those who are leaving forever whether they die in the sun, in shadow, or the darkness of night. The executioner, artisan of death, became an ambiguous figure filled with potential meaning when to the condemned man-in his last moment-he threw a crumb of goodness.
Zbigniew Herbert, Collected Prose 1948 -1998
Comments
Post a Comment