Skip to main content

Kafka

 

Kafka new translation
Kafka Poet
Kafka insight years

 

 *

*

*

*

Literary Criticism

It must end in the inexplicable
GABRIEL JOSIPOVIC

June O. Leavitt
THE MYSTICAL LIFE OF FRANZ KAFKA
Theosophy, Cabala, and the modem spiritual revival 212pp. Oxford University Press. £40 (US $65). 

Stanley Corngold  and Ruth V. Gross, editors
KAFKA FOR THE TWENTY-FIRST CENTURY.
286pp. Camden House. $75.

Stanley Corngold and Benno Wagner
FRANZ KAFKA The ghosts in the machine
273pp. Northwestern University Press. $34.95.        

David Suchoff
KAFKA'S JEWISH LANGUAGES
The hidden openness of tradition 267pp. University of Pennsylvania Press. $65.    

Shachar M. Pinsker
LITERARY PASSPORTS
The making of modernist Hebrew fiction in Europe
487pp. Stanford University Press. $60.         

On September 23 it will be 100 years exactly since Franz Kafka wrote his breakthrough story, "The Judgement". We are probably no nearer to understanding that or any other of his works today than his first readers were, nor should we expect to be. These books help to show us why.

Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao giải thích được!

Trên TLS, số 7 Sept 2012, GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!

Ở đây, cũng phải đi 1 đường ghi chú ngoài lề!

1. Cuốn Bếp Lửa của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!

2. Cuốn Sinh Nhật của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:

Truyện ngắn mà Brod gọi là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]

Nói rõ hơn, nhân loại không làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!

(1)

Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm

Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Đọc cái thư thấy sến ơi là sến.
Nhưng phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp Lửa.

*

**


Kafka: Years of insight         

A Crossbreed 

I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father. But it only developed in my time; formerly it was far more lamb than cat. Now it is both in about equal parts. From the cat it takes its head and claws, from the lamb its size and shape; from both its eyes, which are wild and changing, its hair, which is soft, lying close to its body, its movements, which partake both of skipping and slinking. Lying on the window-sill in the sun it curls itself up in a ball and purrs; out in the meadow it rushes about as if mad and is scarcely to be caught. It flies from cats and makes to attack lambs. On moonlight nights its favorite promenade is the tiles. It cannot mew and it loathes rats. Beside the hen-coop it can lie for hours in ambush, but it has never yet seized an opportunity for murder.

    I feed it on milk; that seems to suit it best. In long draughts it sucks the milk into it through its teeth of a beast of prey. Naturally it is a great source of entertainment for children. Sunday morning is the visiting hour. I sit with the little beast on my knees, and the children of the whole neighborhood stand round me. Then the strangest questions are asked, which no human being could answer: Why there is only one such animal, why I rather than anybody else should own it, whether there was ever an animal like it before and what would happen if it died, whether it feels lonely, why it has no children, what it is called, etc.

    I never trouble to answer, but confine myself without further explanation to exhibiting my possession. Sometimes the children bring cats with them; once they actually brought two lambs. But against all their hopes there was no scene of recognition. The animals gazed calmly at each other with their animal eyes, and obviously accepted their reciprocal existence as a divine fact.

    Sitting on my knees the beast knows neither fear nor lust of pursuit. Pressed against me it is happiest. It remains faithful to the family that brought it up. In that there is certainly no extraordinary mark of fidelity, but merely the true instinct of an animal which, though it has countless step-relations in the world, has perhaps not a single blood relation, and to which consequently the protection it has found with us is sacred.

    Sometimes I cannot help laughing when it sniffs round me and winds itself between my legs and simply will not be parted from me. Not content with being lamb and cat, it almost insists on being a dog as well. Once when, as may happen to anyone, I could see no way out of my business difficulties and all that depends on such things, and had resolved to let everything go, and in this mood was lying in my rocking-chair in my room, the beast on my knees, I happened to glance down and saw tears dropping from its huge whiskers. Were they mine, or were they the animal's? Had this cat, along with the soul of a lamb, the ambitions of a human being? I did not inherit much from my father, but this legacy is worth looking at.

    It has the restlessness of both beasts, that of the cat and that of the lamb, diverse as they are. For that reason its skin feels too narrow for it. Sometimes it jumps up on the armchair beside me, plants its front legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It is as if it were saying something to me, and as a matter of fact it turns its head afterwards and gazes in my face to see the impression its communication has made. And to oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it jumps to the floor and dances about with joy.

    Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.

FRANZ KAFKA: Description of a Struggle (Translated from the German by Tania and James Stern)

Jorge Luis Borges: The Book of Imaginary Beings

I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father: Tôi có 1 con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của ông già của tôi

Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha.
Walter Benjamin

Một chuyến đi

Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch chịu như thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho đến khi hơi thở cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi lúc, con vật nhìn tớ với cái nhìn thông cảm của 1 con  người, ra ý thách tớ, mi làm cái việc đó đi, cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!


“Kafka: Những năm đốn ngộ” là tập nhì, của cuốn tiểu sử hách xì xằng, masterful, về Kafka của Reiner Stach. Tập đầu là về những năm từ 1910 tới 1915, khi Kafka còn trẻ, viết như khùng, như điên, writing furiously, vào ban đêm, into the night, trong khi cày 50 giờ/tuần. Tập nhì ghi lại thời kỳ danh vọng trồi lên, cho tới khi ông mất, ở một viện an dưỡng ở Áo vào tuổi bốn mươi, sau những năm tháng đau khổ vì bịnh lao phổi. (Tập thứ ba, ghi lại những năm đầu đời, đang tiến hành).
Trong những năm sau cùng, từ 1916 tới 1924, Kafka nhận được thư, từ giám đốc, quản lý nhà băng, chọc quê ông, khi yêu cầu giải thích những truyện ngắn do ông viết ra (“Thưa Ngài, Ngài làm tôi đếch làm sao vui được. Tôi mua cuốn “Hóa Thân” của Ngài làm quà tặng cho 1 người bà con, nhưng người đó đếch biết làm sao xoay sở, hay là làm gì, với cuốn truyện”).

Ai là nhà văn của thế kỷ vừa qua?

Đa số đều cho rằng, ba nhà văn đại diện cho thế kỷ 20 là James Joyce, Marcel Proust, và Franz Kafka.
Trong ba nhà văn này, người viết xin được chọn Kafka là nhà văn của thế kỷ 20.

Thế kỷ 20 như chúng ta biết, là thế kỷ của hung bạo. Những biểu tượng của nó, là Hitler với Lò Thiêu Người, và Stalin với trại tập trung cải tạo. Điều lạ lùng ở đây là: Kafka mất năm 1924, Hitler nắm quyền vào năm 1933; với Stalin,  ngôi sao của ông Thần Đỏ này chỉ sáng rực lên sau Cuộc Chiến Lớn II (1945), và thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bằng cách nào Kafka nhìn thấy trước hai bóng đen khủng khiếp, là chủ nghĩa Nazi, và chủ nghĩa toàn trị?

Gần hai chục năm sau khi ông mất, nhà thơ người Anh Auden có thể viết, không cố tình nói ngược ngạo, hay tạo sốc: "Nếu phải nêu một tác giả của thời đại chúng ta, sánh được với Dante, Shakespeare, Goethe, và thời đại của họ, Kafka sẽ là người đầu tiên mà người ta nghĩ tới."

G. Steiner cho rằng:  "(ngoài Kafka ra) không có thể có tiếng nói chứng nhân nào thật hơn, về bóng đen của thời đại chúng ta." Khi Kafka mất, chỉ có vài truyện ngắn, mẩu văn được xuất bản. Những tác phẩm quan trọng của ông đều được xuất bản sau khi ông mất, do người bạn thân đã không theo di chúc yêu cầu huỷ bỏ. Tại sao thế giới-ác mộng riêng tư của một nhà văn lại trở thành biểu tượng của cả một thế kỷ?
Nhà phê bình Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của Kafka, có những dấu vết  đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn ảnh của ông về một hy vọng triệt để, thật u tối: đằng sau bước quân hành của cuộc cách mạng vô sản, ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa, hay kẻ mị dân. Cuốn tiểu thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn hành chánh mà "Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người thừa kế nhà văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng định chế (bộ máy kỹ nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông còn thừa hưởng luôn cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột người.

Chọn Kafka là tiếng nói chứng nhân đích thực, nhà văn của thế kỷ hung bạo, là chỉ có "một nửa vấn đề". Kafka, theo tôi, còn là người mở ra thiên niên kỷ mới, qua ẩn dụ "người đàn bà ngoại tình".

Thế nào là "người đàn bà ngoại tình"? Người viết xin đưa ra một vài thí dụ: một người ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài, nhưng không thể nào quên được tiếng mẹ đẻ. Một người di dân phải viết văn bằng tiếng Anh, nhưng đề tài hoàn toàn là "quốc tịch gốc, quê hương gốc" của mình. Một người đàn bà lấy chồng ngoại quốc, nhưng vẫn không thể quên tiếng Việt, quê hương Việt. Một người Ả Rập muốn "giao lưu văn hóa" với người Do Thái...
Văn chương Việt hải ngoại, hiện cũng đang ở trong cái nhìn "tiên tri" của Kafka: đâu là quê nhà, đâu là lưu đầy? Đi /Về: cùng một nghĩa như nhau?
Jennifer Tran
*
Time: 100 người ảnh hưởng nhất chưa từng sống


Kafka: Years of insight
Những năm đốn ngộ


*

Hình trên báo giấy còn thấy được 1 con mắt của Kafka.

Note: Nervous brilliance, tạm dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn và hơi khùng”]

Nhưng cuốn tiểu sử của Mr Stach cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của Kafka. Trong 1 lần holyday, đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều quá. Trong những năm sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công viên, và cô nàng nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông viết cho cô bé 1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất. Với người tình sau cùng, Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này còn dụ ông trở lại được với Do Thái giáo.
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải 1 thế giới không có hy vọng.

*

Franz Kafka: Sáng chói bồn chồn
A definitive biography of a rare writer
Một tiểu sử chung quyết của 1 nhà văn hiếm, lạ.

Kafka: The Years of Insight. By Reiner Stach. Princeton University Press; 682 pages; $35 and £24.95.

Vào năm 1915, một truyện ngắn được gọi là “Hóa Thân” được xuất bản ở 1 tạp chí “bèo” [small] của Đức. Nó kể câu chuyện một anh chàng bán hàng, một buổi sáng thức dậy thấy mình biến thành 1 con bọ khổng lồ. Tác giả, một nhân viên dân sự trung lưu, làm việc tại Prague. Chưa tới 10 năm sau đó, ông mất, một tác giả ít được biết tới của ba cuốn tiểu thuyết và vài tác phẩm ngắn hơn. Nhưng Hóa Thân – có lẽ chỉ chừng 50 trang - sẽ hóa thân thành 1 con bọ khổng lồ, ấy chết xin lỗi - sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho hằng hà tác phẩm - những chuyển thể sân khấu, dàn dựng kịch nghệ không làm sao đếm nổi, những luận án tiến sĩ thạc sĩ, và hằng hà những nhà văn tiếp theo. Hoá Thân, và cùng với truyện ngắn đó, hai cuốn tiểu thuyết, Vụ Án, Tòa Lâu Đài, đã đóng cứng vị trí của Kafka, như là một trong những nhà văn quan trọng nhất của thế kỷ 20.

*

Hình trên báo giấy còn thấy được 1 con mắt của Kafka.

Note: Nervous brilliance, tạm dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn và hơi khùng”]

Nhưng cuốn tiểu sử của Mr Stach cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của Kafka. Trong 1 lần holyday, đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều quá. Trong những năm sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công viên, và cô nàng nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông viết cho cô bé 1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất. Với người tình sau cùng, Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này còn dụ ông trở lại được với Do Thái giáo.
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải 1 thế giới không có hy vọng.


Franz Kafka

Nervous brilliance

A definitive biography of a rare writer

Kafka: The Years of Insight. By Reiner Stach. Princeton University Press; 682 pages; $35 and £24.95. Buy from Amazon.comAmazon.co.uk

IN 1915 a short story called “The Metamorphosis” (“Die Verwandlung”) was published in a small German magazine. It told the story of Gregor Samsa, a salesman who wakes up one morning to find that he has turned into an enormous bug. The author, Franz Kafka, was a middle-ranking civil servant working in Prague. He would die less than ten years later, a little-known author of three novels and several shorter works. But “The Metamorphosis”—perhaps 50 pages long—would go on to inspire countless stage adaptations and doctoral theses and scores of subsequent writers. The story, along with the novels “The Trial” and “The Castle”, ensured Kafka’s place as one of the most important writers of the 20th century.

“Kafka: The Years of Insight” is the second volume of Reiner Stach’s masterful biography of the author. The first dealt with the years 1910 to 1915, when Kafka was a young man writing furiously into the night while working 50-hour weeks. The second volume records his burgeoning fame up until his death in an Austrian sanatorium at the age of 40, after years of suffering from tuberculosis. (A third volume, tracing his early years, is in the works.)

In these final years, from 1916 to 1924, Kafka receives letters from quizzical bank managers asking him to explain his stories (“Sir, You have made me unhappy. I bought your ‘Metamorphosis’ as a present for my cousin, but she doesn’t know what to make of the story”). He spends hours nagging away at his prose, only to rip it up, throw it away and start again. He apparently denies being the author of certain stories when asked by other invalids at a retreat. He has four love affairs, mostly through letters, and spends much of his time away from his cramped office at the Workers’ Accident Insurance Institute. These are years of insight, but also of depression and illness.

Despite the gloom, this biography makes for an excellent read. Mr Stach, a German academic, expertly presents Kafka’s struggles with his work and health against the wider background of the first world war, the birth of Czechoslovakia and the hyperinflation of the 1920s. Alert to the limits of biography, Mr Stach bases everything on archival materials and, where possible, Kafka’s own view of events. He is also wryly aware of the academic cottage industry that has sprung up around Kafka’s work, hints of which had already emerged in his lifetime. “You are so pure, new, independent...that one ought to treat you as if you were already dead and immortal,” wrote one fan.

The picture that emerges is of a difficult, brilliant man. In Mr Stach’s view, Kafka was “a neurotic, hypochondriac, fastidious individual who was complex and sensitive in every regard, who always circled around himself and who made a problem out of absolutely everything”. A decision to visit a married woman, soon to be his lover, takes him three weeks and 20 letters. When writing to his first fiancée, he refers to himself in the third person and struggles to evoke intimacy. Kafka makes decisions only to swiftly unmake them. Other people irritate him. “Sometimes it almost seems to me that life itself is what gets on my nerves,” he wrote to a friend.

But Mr Stach’s biography also shows Kafka’s lighter side. On holiday with a mistress, he feels almost sick with laughter. In the last years of his life he meets a crying young girl in a park who explains that she has lost her doll. He then proceeds to write her a letter a day for three weeks from the perspective of the doll, recounting its exploits. With his final mistress, Dora Diamant, Kafka has no doubt that he wants to marry her. She even inspires him to recover his interest in Judaism.

Such anecdotes pierce the austere image left by Kafka’s work. Mr Stach also effectively undermines conventional views of Kafka as a prophet of the atrocities to come (his three sisters died in Nazi concentration camps, as did two of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks, Kafka depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted individuals, but not one without hope.


*

Con chim giận dữ

Một con kên kên đợp chân tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1 phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1 dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.

Kafka: The Vulture (1)


Le poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

« Franz Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ... ]. Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal ou Soren Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au cours desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens kafkaien de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa mort, écrivit John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka incarne un aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment d'anxiété et de haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. » Le sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la modernité ...
Si vous êtes, comme K. dans Le Chateau, un « imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage au monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de honte et même de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car il s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il était vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre dans l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est l'embarras qui a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou bien ... ou bien?

Steiner viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng hồ, có thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của mình với cái tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con đẻ cái, ăn ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được John Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho “Toàn Tập Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân 1 sắc thái của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng, của cái gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao xuyến, và thù hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó dịu đi được”.
Tình cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại tính!

Tuyệt!

Nếu bạn, như K. trong Lâu Đài, một tên "bợm" giả làm 1 người khác, giấu mặt bạn, trước mọi người, đằng sau cái mặt nạ, bạn có thể cảm nhận ra được cái tình cảm tủi hổ, và luôn cả, phạm tội... K. là bậc thầy trong cái trò đánh lừa mình, mù lòa về mình, nhưng Kafka, không. Chính là trong cái bực bội như thế, ông bèn lôi Ou bien... ou bien ra đọc lại.
*

Saul Friedlander
[Kafka]:
Le poète de la honte et de la culpabilité

Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

Kafka n'était pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait des métaphores et des associations inattendues, il racontait des histoires, il était poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles soient directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur, mais ces allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas une foi religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.

Kafka không phải là người xây dựng lý thuyết hay hệ thống: ông đi theo những giấc mộng, tạo ẩn dụ, kết hợp bất ngờ, kể chuyện, là nhà thơ. Cách viết của ông - thường viện tới những ám dụ tôn giáo (trực tiếp hoặc gián tiếp, Ky tô hay Do thái) – có thể gây lầm lẫn, nhưng những ám dụ này thường được trộn với tếu táo, hài hước, và không hàm ngụ một niềm tin tôn giáo. Tự bản chất, yếu tính, Kafka là 1 nhà thơ của chính sự xáo trộn của mình.

Suốt đời, Kaka chống lại những phiều nhiễu, xáo trộn, troubles, chúng xâm nhập cuộc sống thường nhật của ông, và hơn thế nữa, sự tưởng tượng của ông. Những vấn đề này, những khó khăn này, đưa tới một sự tra hỏi, đúng hơn, biến thành một ám ảnh, mà Nhật Ký, thư từ trao đổi, (và, gián tiếp, những giả tưởng) cho thấy. Thí dụ, entry đề ngày 18 Tháng Chạp 1922, Kafka, biết rất rõ về tình trạng sức khoẻ của mình, trở nên tệ quá nhanh, viết: Nghỉ ngơi thôi. Hôm qua Hoặc làhoặc là [“Resté couché. Hier Ou bien… ou bien] Cái entry này gây phiền, trên rất nhiều mặt.
Trong Ou bien… ou bien, Kierkegaard toan tính nghiên cứu hai cách sống khác nhau, của chính cuộc đời của ông, một, mĩ học; một, đạo đức. Theo thư gửi bạn, Max Brod, đề ngày 20 Tháng Giêng 1918, Kafka bắt đầu đọc tiểu luận của Kierkegaard, nói trên, vào thời kỳ này. Ông không khoái tập đầu (cuộc đời mĩ học), trong có Nhật Ký Của Kẻ Quyến Rũ, “Journal d’un séducteur”, và vào giữa tháng Ba, 1918, ông viết cho Max Brod: Tôi quá tởm nó (Je ne peux toujours pas lire le premier volume de Ou bien.. ou bien sans répugnance). Tuy nhiên, đúng năm năm sau, trong khi sức khỏe càng thêm tồi tệ, Kafka lại lôi Ou bien… ou bien ra đọc lại.  Không biết phản ứng của ông ra sao, lần đọc lại này, tuy nhiên, chúng ta không thể không tự hỏi, liệu cái nhìn nước đôi của Kierkegaard ảnh hưởng, về mặt đạo đức, đối với Kafka, một vấn đề ông không làm sao giải quyết, trong suốt cuộc đời dòng dã?

Steiner viết, Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du péché originel… Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une petite poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l’état d’être déchus]

Thì cũng như….  GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác Bắc Kít! Đây là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

Raymond Chandler by Oates