Kafka
Kafka new translation
Kafka Poet
Kafka insight years
Literary Criticism
It must end
in the inexplicable
GABRIEL
JOSIPOVIC
June O.
Leavitt
THE MYSTICAL
LIFE OF FRANZ KAFKA
Theosophy, Cabala, and the modem spiritual revival 212pp.
Oxford University Press. £40 (US $65).
Stanley
Corngold and Ruth V. Gross, editors
KAFKA FOR
THE TWENTY-FIRST CENTURY.
286pp.
Camden House. $75.
Stanley
Corngold and Benno Wagner
FRANZ KAFKA
The ghosts in the machine
273pp.
Northwestern University Press. $34.95.
David
Suchoff
KAFKA'S
JEWISH LANGUAGES
The hidden
openness of tradition 267pp. University of Pennsylvania Press. $65.
Shachar M.
Pinsker
LITERARY
PASSPORTS
The making
of modernist Hebrew fiction in Europe
487pp.
Stanford University Press. $60.
On September 23 it will be 100 years exactly since Franz Kafka wrote his breakthrough story, "The Judgement". We are probably no nearer to understanding that or any other of his works today than his first readers were, nor should we expect to be. These books help to show us why.
Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao giải thích được!
Trên TLS, số
7 Sept 2012, GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị
thầy gối
đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này,
thì kể
như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng,
“Sự
Xét Xử”. Và có thể
nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn, so
với những độc
giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải
chấm dứt
bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng
phải đi 1 đường ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp
Lửa của TTT, chấm dứt bằng
lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết
cho cô em
bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con
quái vật,
con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi
sáng, khi ngủ
dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít
phải nhận
cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!
2. Cuốn Sinh
Nhật của bạn quí của Gấu, khi mới
ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh
Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ
đã mất”:
Ui chao, đây
đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như
đoạn sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà
Brod gọi là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks,
của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện:
“Giai thoại
thường toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không
trồi
lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát
Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt
nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it
arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn,
nhân loại không làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào
đó", nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông
thành
Thánh!
Thánh đâu cần chim!
(1)
Thanh,
Không ngờ
Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động
khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi
lúc anh
vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh
ra. Nguời
ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một
phương trời
nào khác gì nhau.
Một hôm tình
cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy.
Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu,
Thanh chẳng
đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh
nhiều.
Thanh lại sống
một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh
cũng có
người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng
nói thế
sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh
lấy tên
anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều
liên lạc với
quê hương.
Chúng ta là
những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy
điều ấy.
Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta,
thật là
bất hạnh.
Những buổi
trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn
có Thanh
và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp
trở về
quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người
bạn. Bạn
chưa đủ. Buộc vào quê hương
phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải
tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không
chúng ta sẽ
mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê
hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại
Thủ Dầu Một
vào tháng
10-1956
Đọc cái thư
thấy sến ơi là sến.
Nhưng
phải như thế,
thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc
Kít,
Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp Lửa.
A Crossbreed
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father. But it only developed in my time; formerly it was far more lamb than cat. Now it is both in about equal parts. From the cat it takes its head and claws, from the lamb its size and shape; from both its eyes, which are wild and changing, its hair, which is soft, lying close to its body, its movements, which partake both of skipping and slinking. Lying on the window-sill in the sun it curls itself up in a ball and purrs; out in the meadow it rushes about as if mad and is scarcely to be caught. It flies from cats and makes to attack lambs. On moonlight nights its favorite promenade is the tiles. It cannot mew and it loathes rats. Beside the hen-coop it can lie for hours in ambush, but it has never yet seized an opportunity for murder.
I feed it on milk; that seems to suit it best. In long draughts it sucks the milk into it through its teeth of a beast of prey. Naturally it is a great source of entertainment for children. Sunday morning is the visiting hour. I sit with the little beast on my knees, and the children of the whole neighborhood stand round me. Then the strangest questions are asked, which no human being could answer: Why there is only one such animal, why I rather than anybody else should own it, whether there was ever an animal like it before and what would happen if it died, whether it feels lonely, why it has no children, what it is called, etc.
I never trouble to answer, but confine myself without further explanation to exhibiting my possession. Sometimes the children bring cats with them; once they actually brought two lambs. But against all their hopes there was no scene of recognition. The animals gazed calmly at each other with their animal eyes, and obviously accepted their reciprocal existence as a divine fact.
Sitting on my knees the beast knows neither fear nor lust of pursuit. Pressed against me it is happiest. It remains faithful to the family that brought it up. In that there is certainly no extraordinary mark of fidelity, but merely the true instinct of an animal which, though it has countless step-relations in the world, has perhaps not a single blood relation, and to which consequently the protection it has found with us is sacred.
Sometimes I cannot help laughing when it sniffs round me and winds itself between my legs and simply will not be parted from me. Not content with being lamb and cat, it almost insists on being a dog as well. Once when, as may happen to anyone, I could see no way out of my business difficulties and all that depends on such things, and had resolved to let everything go, and in this mood was lying in my rocking-chair in my room, the beast on my knees, I happened to glance down and saw tears dropping from its huge whiskers. Were they mine, or were they the animal's? Had this cat, along with the soul of a lamb, the ambitions of a human being? I did not inherit much from my father, but this legacy is worth looking at.
It has the restlessness of both beasts, that of the cat and that of the lamb, diverse as they are. For that reason its skin feels too narrow for it. Sometimes it jumps up on the armchair beside me, plants its front legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It is as if it were saying something to me, and as a matter of fact it turns its head afterwards and gazes in my face to see the impression its communication has made. And to oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it jumps to the floor and dances about with joy.
Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
FRANZ KAFKA: Description of a Struggle (Translated from the German by Tania and James Stern)
Jorge Luis
Borges: The Book of Imaginary Beings
I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father: Tôi có 1 con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của ông già của tôi
Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là thừa
hưởng từ người cha.
Walter
Benjamin
Perhaps the
knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a
legacy
I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily
leaves its
body, even though it sometimes gazes at me with a look of human
understanding,
challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch
chịu như
thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho đến
khi hơi thở
cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi lúc, con vật
nhìn tớ
với cái nhìn thông cảm của 1 con người, ra ý thách tớ, mi làm cái
việc đó đi,
cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!
Trong những năm sau cùng, từ 1916 tới 1924, Kafka nhận được thư, từ giám đốc, quản lý nhà băng, chọc quê ông, khi yêu cầu giải thích những truyện ngắn do ông viết ra (“Thưa Ngài, Ngài làm tôi đếch làm sao vui được. Tôi mua cuốn “Hóa Thân” của Ngài làm quà tặng cho 1 người bà con, nhưng người đó đếch biết làm sao xoay sở, hay là làm gì, với cuốn truyện”).
Ai
là nhà
văn của thế kỷ vừa qua?
Trong ba nhà văn này, người viết xin được chọn Kafka là nhà văn của thế kỷ 20.
Thế kỷ 20 như chúng ta biết, là thế kỷ của hung bạo. Những biểu tượng của nó, là Hitler với Lò Thiêu Người, và Stalin với trại tập trung cải tạo. Điều lạ lùng ở đây là: Kafka mất năm 1924, Hitler nắm quyền vào năm 1933; với Stalin, ngôi sao của ông Thần Đỏ này chỉ sáng rực lên sau Cuộc Chiến Lớn II (1945), và thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Bằng cách nào Kafka nhìn thấy trước hai bóng đen khủng khiếp, là chủ nghĩa Nazi, và chủ nghĩa toàn trị?
Gần hai chục năm sau khi ông mất, nhà thơ người Anh Auden có thể viết, không cố tình nói ngược ngạo, hay tạo sốc: "Nếu phải nêu một tác giả của thời đại chúng ta, sánh được với Dante, Shakespeare, Goethe, và thời đại của họ, Kafka sẽ là người đầu tiên mà người ta nghĩ tới."
G. Steiner cho rằng: "(ngoài Kafka ra) không có thể có tiếng nói chứng nhân nào thật hơn, về bóng đen của thời đại chúng ta." Khi Kafka mất, chỉ có vài truyện ngắn, mẩu văn được xuất bản. Những tác phẩm quan trọng của ông đều được xuất bản sau khi ông mất, do người bạn thân đã không theo di chúc yêu cầu huỷ bỏ. Tại sao thế giới-ác mộng riêng tư của một nhà văn lại trở thành biểu tượng của cả một thế kỷ?
Chọn Kafka là tiếng nói chứng nhân đích thực, nhà văn của thế kỷ hung bạo, là chỉ có "một nửa vấn đề". Kafka, theo tôi, còn là người mở ra thiên niên kỷ mới, qua ẩn dụ "người đàn bà ngoại tình".
Thế nào là "người đàn bà ngoại tình"? Người viết xin đưa ra một vài thí dụ: một người ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài, nhưng không thể nào quên được tiếng mẹ đẻ. Một người di dân phải viết văn bằng tiếng Anh, nhưng đề tài hoàn toàn là "quốc tịch gốc, quê hương gốc" của mình. Một người đàn bà lấy chồng ngoại quốc, nhưng vẫn không thể quên tiếng Việt, quê hương Việt. Một người Ả Rập muốn "giao lưu văn hóa" với người Do Thái...
Văn chương Việt hải ngoại, hiện cũng đang ở trong cái nhìn "tiên tri" của Kafka: đâu là quê nhà, đâu là lưu đầy? Đi /Về: cùng một nghĩa như nhau?
Jennifer Tran
Kafka: Years of insight
Những năm đốn ngộ
Hình trên báo giấy còn thấy được 1 con mắt của Kafka.
Note: Nervous brilliance,
tạm dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn
và hơi
khùng”]
Nhưng cuốn
tiểu sử của Mr Stach cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của
Kafka. Trong
1 lần holyday, đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều
quá. Trong
những năm sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công
viên, và cô
nàng nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông viết
cho cô bé
1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất. Với người
tình sau cùng,
Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này còn dụ ông trở lại được
với Do
Thái giáo.
Những giai
thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm của ông.
Mr Stach
còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính ước lệ
[conventional
views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội ác kinh hoàng ghê
rợn
[atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong trại tập trung Nazi,
cũng như
hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông
mô tả 1 thế giới
như ông nhìn thấy nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách
hại, nhưng
không phải 1 thế giới không có hy vọng.
Franz
Kafka:
Sáng chói bồn chồn
A definitive
biography of a rare writer
Một tiểu sử
chung quyết của 1 nhà văn hiếm, lạ.
Kafka: The
Years of Insight. By Reiner Stach. Princeton University Press;
682 pages; $35
and £24.95.
Hình trên báo giấy còn thấy được 1 con mắt của Kafka.
Note: Nervous brilliance,
tạm dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn
và hơi
khùng”]
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải 1 thế giới không có hy vọng.
Franz Kafka
Nervous brilliance
A definitive biography of a rare writer
Kafka: The Years of Insight. By Reiner Stach. Princeton University Press; 682 pages; $35 and £24.95. Buy from Amazon.com, Amazon.co.uk
IN 1915 a short story called “The Metamorphosis” (“Die Verwandlung”) was published in a small German magazine. It told the story of Gregor Samsa, a salesman who wakes up one morning to find that he has turned into an enormous bug. The author, Franz Kafka, was a middle-ranking civil servant working in Prague. He would die less than ten years later, a little-known author of three novels and several shorter works. But “The Metamorphosis”—perhaps 50 pages long—would go on to inspire countless stage adaptations and doctoral theses and scores of subsequent writers. The story, along with the novels “The Trial” and “The Castle”, ensured Kafka’s place as one of the most important writers of the 20th century.
“Kafka: The Years of Insight” is the second volume of Reiner Stach’s masterful biography of the author. The first dealt with the years 1910 to 1915, when Kafka was a young man writing furiously into the night while working 50-hour weeks. The second volume records his burgeoning fame up until his death in an Austrian sanatorium at the age of 40, after years of suffering from tuberculosis. (A third volume, tracing his early years, is in the works.)
In these final years, from 1916 to 1924, Kafka receives letters from quizzical bank managers asking him to explain his stories (“Sir, You have made me unhappy. I bought your ‘Metamorphosis’ as a present for my cousin, but she doesn’t know what to make of the story”). He spends hours nagging away at his prose, only to rip it up, throw it away and start again. He apparently denies being the author of certain stories when asked by other invalids at a retreat. He has four love affairs, mostly through letters, and spends much of his time away from his cramped office at the Workers’ Accident Insurance Institute. These are years of insight, but also of depression and illness.
Despite the gloom, this biography makes for an excellent read. Mr Stach, a German academic, expertly presents Kafka’s struggles with his work and health against the wider background of the first world war, the birth of Czechoslovakia and the hyperinflation of the 1920s. Alert to the limits of biography, Mr Stach bases everything on archival materials and, where possible, Kafka’s own view of events. He is also wryly aware of the academic cottage industry that has sprung up around Kafka’s work, hints of which had already emerged in his lifetime. “You are so pure, new, independent...that one ought to treat you as if you were already dead and immortal,” wrote one fan.
The picture that emerges is of a difficult, brilliant man. In Mr Stach’s view, Kafka was “a neurotic, hypochondriac, fastidious individual who was complex and sensitive in every regard, who always circled around himself and who made a problem out of absolutely everything”. A decision to visit a married woman, soon to be his lover, takes him three weeks and 20 letters. When writing to his first fiancée, he refers to himself in the third person and struggles to evoke intimacy. Kafka makes decisions only to swiftly unmake them. Other people irritate him. “Sometimes it almost seems to me that life itself is what gets on my nerves,” he wrote to a friend.
But Mr Stach’s biography also shows Kafka’s lighter side. On holiday with a mistress, he feels almost sick with laughter. In the last years of his life he meets a crying young girl in a park who explains that she has lost her doll. He then proceeds to write her a letter a day for three weeks from the perspective of the doll, recounting its exploits. With his final mistress, Dora Diamant, Kafka has no doubt that he wants to marry her. She even inspires him to recover his interest in Judaism.
Such anecdotes pierce the austere image left by Kafka’s work. Mr Stach also effectively undermines conventional views of Kafka as a prophet of the atrocities to come (his three sisters died in Nazi concentration camps, as did two of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks, Kafka depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted individuals, but not one without hope.
Một con kên kên đợp chân
tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới
tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi
qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì
con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ
dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú
này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp
giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1
phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị
phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể
đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ
không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam
chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh
chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên
lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết
rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1
dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té
ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong
máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.
Kafka: The Vulture (1)
Le poète de la honte et de la culpabilité
« Franz
Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ...
].
Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie
la
conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal
ou Soren
Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au
cours
desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel
indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens
kafkaien
de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa
mort, écrivit
John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka
incarne un
aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment
d'anxiété et de
haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. »
Le
sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la
modernité ...
Si vous êtes,
comme K. dans Le Chateau, un «
imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage
au
monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de
honte et même
de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car
il
s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il
était
vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre
dans
l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est
l'embarras qui
a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou
bien ... ou bien?
Steiner
viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh
nghiệm trong
cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị
hoang
hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng
hồ, có
thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của
mình với cái
tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con
đẻ cái, ăn
ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được
John
Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho
“Toàn Tập
Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân
1 sắc thái
của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng,
của cái
gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao
xuyến, và thù
hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó
dịu đi được”.
Tình
cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại
tính!
Tuyệt!
Nếu bạn, như K. trong Lâu Đài, một tên "bợm" giả làm 1 người khác, giấu mặt bạn, trước mọi người, đằng sau cái mặt nạ, bạn có thể cảm nhận ra được cái tình cảm tủi hổ, và luôn cả, phạm tội... K. là bậc thầy trong cái trò đánh lừa mình, mù lòa về mình, nhưng Kafka, không. Chính là trong cái bực bội như thế, ông bèn lôi Ou bien... ou bien ra đọc lại.Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait des métaphores et des associations inattendues, il racontait des histoires, il était poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles soient directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur, mais ces allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas une foi religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
Kafka không phải là người xây dựng lý thuyết hay hệ thống: ông đi theo những giấc mộng, tạo ẩn dụ, kết hợp bất ngờ, kể chuyện, là nhà thơ. Cách viết của ông - thường viện tới những ám dụ tôn giáo (trực tiếp hoặc gián tiếp, Ky tô hay Do thái) – có thể gây lầm lẫn, nhưng những ám dụ này thường được trộn với tếu táo, hài hước, và không hàm ngụ một niềm tin tôn giáo. Tự bản chất, yếu tính, Kafka là 1 nhà thơ của chính sự xáo trộn của mình.
Suốt đời,
Kaka chống lại những phiều nhiễu, xáo trộn, troubles, chúng xâm nhập
cuộc sống
thường nhật của ông, và hơn thế nữa, sự tưởng tượng của ông. Những vấn
đề này,
những khó khăn này, đưa tới một sự tra hỏi, đúng hơn, biến thành một ám
ảnh, mà Nhật Ký, thư từ
trao đổi, (và, gián tiếp, những giả tưởng) cho thấy. Thí dụ, entry đề ngày 18 Tháng Chạp 1922, Kafka,
biết rất rõ về tình trạng sức khoẻ của mình, trở nên tệ quá nhanh,
viết: Nghỉ
ngơi thôi. Hôm qua Hoặc là… hoặc là
[“Resté couché. Hier Ou bien… ou bien] Cái entry
này gây phiền, trên rất nhiều mặt.
Trong Ou bien… ou bien, Kierkegaard toan
tính nghiên cứu hai cách sống khác nhau, của chính cuộc đời của ông,
một, mĩ học;
một, đạo đức. Theo thư gửi bạn, Max Brod, đề ngày 20 Tháng Giêng 1918,
Kafka bắt
đầu đọc tiểu luận của Kierkegaard, nói trên, vào thời kỳ này. Ông không
khoái tập
đầu (cuộc đời mĩ học), trong có Nhật Ký Của Kẻ Quyến Rũ, “Journal d’un
séducteur”,
và vào giữa tháng Ba, 1918, ông viết cho Max Brod: Tôi quá tởm nó (Je
ne peux
toujours pas lire le premier volume de Ou
bien.. ou bien sans répugnance). Tuy nhiên, đúng năm năm sau, trong
khi sức
khỏe càng thêm tồi tệ, Kafka lại lôi Ou
bien… ou bien ra đọc lại. Không biết
phản ứng của ông ra sao, lần đọc lại này, tuy nhiên, chúng ta không thể
không tự
hỏi, liệu cái nhìn nước đôi của Kierkegaard ảnh hưởng, về mặt đạo đức,
đối với
Kafka, một vấn đề ông không làm sao giải quyết, trong suốt cuộc đời
dòng dã?
Steiner viết, Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du péché originel… Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une petite poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l’état d’être déchus]
Thì cũng như…. GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác Bắc Kít! Đây là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!
Comments
Post a Comment