Jpseph Brodsky: Nghĩa địa Do Thái ở Leningrad
Nghĩa địa Do Thái ở gần Leningrad Еврейское кладбище около Ленинграда
Еврейское кладбище около Ленинграда
Еврейское кладбище около Ленинграда.
Кривой забор из гнилой фанеры.
За кривым забором лежат рядом
юристы, торговцы, музыканты, революционеры.
Для себя пели.
Для себя копили.
Для других умирали.
Но сначала платили налоги,
уважали пристава,
и в этом мире, безвыходно материальном,
толковали Талмуд,
оставаясь идеалистами.
Может, видели больше.
А, возможно, верили слепо.
Но учили детей, чтобы были терпимы
и стали упорны.
И не сеяли хлеба.
Никогда не сеяли хлеба.
Просто сами ложились
в холодную землю, как зерна.
И навек засыпали.
А потом -- их землей засыпали,
зажигали свечи,
и в день Поминовения
голодные старики высокими голосами,
задыхаясь от голода, кричали об успокоении.
И они обретали его.
В виде распада материи.
Ничего не помня.
Ничего не забывая.
За кривым забором из гнилой фанеры,
в четырех километрах от кольца трамвая.
Bản dịch của Nguyễn Văn Thiết
Gửi bởi nguyenvanthiet ngày 25/07/2007 04:33
Nghĩa địa Do Thái ở gần Leningrad.
Bờ rào xiêu vẹo làm từ ván mục.
Phía sau bờ rào họ yên nghỉ bên nhau
những nhà buôn, nhà cách mạng, những nhạc công, những nhà luật học.
Họ đã từng ca hát.
Từng dành dụm cho mình.
Rồi đã chết vì người khác.
Nhưng đầu tiên thuế họ đã nộp
và họ tôn trọng chính quyền
trong thế giới này vật chất
họ bàn luận kinh Talmud
và coi mình là những kẻ duy tâm.
Có thể, họ đã nhìn thấy nhiều hơn.
Mà, có thể, họ đã tin mù quáng.
Nhưng họ đã dạy cho trẻ con chịu đựng
và biết kiên tâm.
Lúa mì họ không gieo trồng.
Chưa bao giờ họ gieo lúa cả.
Chỉ đơn giản họ tự nằm xuống đó
như hạt giống trong đất lạnh, giá băng
ngủ say trong giấc ngủ vĩnh hằng.
Còn sau đó
người ta đến thắp nến trên mặt đất
trong ngày lễ Ba ngôi
những người già đói khát, bằng lời
kêu về sự bình yên, ngạt thở vì cơn đói.
Và sự bình yên những người này tìm thấy
trong thể vật chất phân hủy rã rời.
Không có gì để quên.
Không còn gì nhớ hết.
Sau bờ rào xiêu vẹo từ ván mục
bốn cây số cách bến tàu điện cuối cùng.
/new_daily_poetry/Jweish_Cimetery_Leningrad.html
Bài này đang Top. GCC đã dịch ra tiếng Mít. Post lại ở đây
Bài thơ này có trong From Russia with Love, mà Tin Văn đang lai rai giới thiệu, và trong W.S. Merwin, Selected Translations.
Những lời lèm bèm về nó, là của tác giả cuốn From Russia with Love.
The Jewish cemetery near
Leningrad.
A crooked fence of rotten plywood.
And behind it, lying side by side,
lawyers, merchants, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves.
They accumulated money for themselves.
They died for others.
But in the first place
they paid their taxes, and
respected the law,
and in this hopelessly material world,
they interpreted the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they saw more.
Perhaps they believed blindly.
But they taught their children to be patient
and to stick to things.
And they did not plant any seeds.
They never planted seeds.
They simply lay themselves down
in the cold earth, like grain.
And they fell asleep forever.
And after, they were covered with earth,
candles were lit for them,
and on the Day of Atonement
hungry old men with piping voices,
gasping with cold, wailed about peace.
And they got it.
As dissolution of matter.
Remembering nothing.
Forgetting nothing.
Behind the crooked fence of rotting plywood,
four miles from the tramway terminus.
Joseph Brodsky
Nghĩa địa Do Thái gần
Leningrad
Một hàng rào gỗ cong queo, mục nát
Và đằng sau nó, nằm, kế bên nhau
luật sư, thương nhân, nhạc sĩ, những nhà cách mạng
Họ hát cho họ
Họ tích tụ tiền bạc cho họ
Họ chết cho những người khác
Nhưng trước hết, trên hết, họ đóng thuế
Và tuân theo luật pháp
Và trong cái thế giới trần tục, vật chất, vô hy vọng
Họ giải thích Kinh Talmud, và luôn giữ mình,
như những con người lý tưởng
Có thể họ nhìn nhiều hơn
Có thể, họ mù lòa tin tưởng
Nhưng họ dậy con cái hãy kiên nhẫn
Và bám sát vào sự vật
Và họ không gieo mầm
Họ không hề gieo mầm
Họ giản dị nằm xuống
Trên đất lạnh như hạt
Và chìm vào giấc ngủ đời đời
Và sau đó, đất phủ họ
Những cây đèn cầy vì họ được đốt lên
Và vào cái Ngày Chuộc Lỗi, Đền Tội
Những ông già đói khát, với giọng như tiếng sáo,
Thở hổn hển vì lạnh
Rên rỉ về hòa bường, hòa bường
Và họ có nó
Như phân huỷ vật chất
Nhớ, chẳng nhớ gì
Quên, chẳng quên gì
Đằng sau hàng rào gỗ cong queo mục nát
Cách trạm xe điện cuối bốn dặm.
"Cemetery", as this poem
is called in the article, is uncharacteristic, not only on account of
the subject but prosodically as well. The first stanza is rhymed, but
thereafter the poem resolves itself into vers libre. I know of
no other poem like it in Joseph's published oeuvre. Indeed, were it not
that he never denied writing it, one might almost have thought it was
by someone else. In a sense, perhaps it was.
I never discussed it with Joseph, since we didn't
talk about our Jewishness, or even Judaism as such, though I may have
mentioned my own ambivalence. While it is sometimes suggested or
claimed that Joseph had rejected Judaism, as far as I know he neither
embraced it nor denied it. I think that his attitude did not really
change. He was a Jew of the assimilated, Russified kind, a "bad Jew",
as he put it, and not much interested in adopting or reclaiming the
tradition; in short, he was no "refusenik". On the other hand, for
instance, Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish
Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to
be included in the book, Joseph replied that he wanted to be in it. And when, for
instance, he was asked at a press conference in Stockholm, in December
1987, at the Nobel ceremonies, how he would describe himself, he
answered: "I feel myself a Jew, although I never learnt Jewish
traditions." He added, however: "But as for my own language, I
undoubtedly regard myself as Russian."
Being a Jew, like being an exile, has certain
advantages, in that (anywhere other than in Israel, perhaps New York,
or wherever Jewish ghettos survive) it situates one on the margins,
rather than at the centre of society. Jews tend to take on the colour
of their surroundings. Jewish history, as a whole - and even "bad" Jews
are heirs to that history - gives the individual Jew a claim, however
tenuous, on a variety of cultural or linguistic territories. This is a
source of strength, but also of weakness, in that he may feel that he
truly belongs to none. Of course, Joseph did live in New York, but he
was frequently on the road, in the States or abroad, and had another
home in New England. Further- more, his exceptionally wide,
international circle of friends and acquaintances far transcended the
Jewish cultural world, assuming that there is such a thing.
"Nghĩa địa" như bài thơ
được gọi, trong bài viết, thì chẳng hay ho gì, không chỉ ở cái giọng kể
lể, mà còn cả ở cái chất thơ xuôi của nó. Khổ đầu thì còn có vần điệu,
nhưng sau biến thành thơ tự do. Ngoài nó ra, không còn bài nào
như thế, trong số tác phẩm của Joseph... nhưng khi được 1 tay xb hỏi,
có cho nó vô 1 tuyển tập Những tiếng
nói ở bên trong [chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái Hiện Đại,
do anh ta xb, hay là không [Anthony Rudolf, co-editor of the
international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish
Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to be
included in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn" có nó,
trong đó!
Hay, thí dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng Chạp, 1987, ở Stockholm,
khi tới đó lấy cái Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên… Ngụy,
dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó ra làm sao”, và nói thêm, “Về
ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng là của 1 tên… Mít”!
Là 1 tên Ngụy, thì giống như 1 tên lưu vong, có tí lợi; nó đẩy tên đó
ra bên lề, thay vì ở trung tâm xã hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng cho
chúng 1 màu của chung lũ chúng, ở loanh quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban
cho từng cá nhân Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây là nguồn sức mạnh của
chúng, nhưng vưỡn không làm sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ đâu,
bất cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng ra cái chó gì cả, hắn đếch thuộc về
ai, về đâu, đại khái thế!
The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần
Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….
Đáp ứng, của Akhmatova,
khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong
danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản
cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ
hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and
to preserve their memory among the living….
Trong 1 bài viết trên talawas, đại thi sĩ Kinh Bắc biện hộ cho cái sự
ông ngồi nắn nón viết tự kiểm theo lệnh Tố Hữu, để được tha về nhà tiếp
tục làm thơ, và tìm lá diêu bông, rằng, cái âm điệu thơ Kinh [quá] Bắc
[Kít] của ông, buồn rầu, bi thương, đủ chửi bố Cách Mạng của VC rồi.
Theo sự hiểu biết cá nhân
của Gấu, thì chỉ hai nhà thơ, sống thật đời của mình, không 1 vết nhơ,
không khi nào phải “edit” cái phẩm hạnh của mình, là Brodsky và ông anh
nhà thơ của GCC.
Chẳng thế mà Milosz rất thèm 1 cuộc đời như của Brodsky, hay nói như 1
người dân bình thường Nga, tớ rất thèm có 1 cuộc đời riêng tư như của
Brodsky, như trong bài viết của Tolstaya cho thấy.
Bảnh như Osip Mandelstam mà cũng phải sống cuộc đời kép, trong thế giới khốn nạn đó. Để sống sót, Mandelstam cũng đã từng phải làm thơ thổi Xì, như bà vợ ông kể lại, và khi những người quen xúi bà, đừng bao giờ nhắc tới nó, bà đã không làm như vậy:
Nadezhda Mandelstam recalled how her husband Osip Mandelstam had done what was necessary to survive:
To be sure, M. also, at
the very last moment, did what was required of him and wrote a hymn of
praise to Stalin, but the "Ode" did not achieve its purpose of saving
his life. It is possible, though, that without it I should not have
survived either. . . . By surviving I was able to save his poetry....
When we left Voronezh, M. asked Natasha to destroy the "Ode." Many
people now advise me not to speak of it at all, as thou it had never
existed. But I cannot agree to this, because the truth would then be
incomplete: leading a double life was an absolute fact of our age and
nobody was exempt. The only difference was that while others wrote
their odes in their apartments and country villas and were rewarded for
them, M wrote his with a rope around his neck. Akhmatova did the same,
as they drew-the noose tighter around the neck of her son. Who can
blame either her or M.
Roberta Reeder: Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên tri
Trong khi lũ nhà văn nhà thơ Liên Xô làm thơ ca ngợi Xì và được bổng lộc, thì M làm thơ ca ngợi Xì với cái thòng lọng ở cổ, và bài thơ “Ode” đó cũng chẳng cứu được mạng của ông. Người ta xúi tôi, đừng nhắc tới nó, nhưng tôi nghĩ không được, vì như thế sự thực không đầy đủ: sống cuộc đời kép là sự thực tuyệt đối của thời chúng ta.
Tuyệt.
Chỉ có hai nhà thơ sống sự thực tuyệt đối của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là Brodsky và TTT!
Etkind relates how this trial pitted two traditional foes against each other, the bureaucracy and the intelligentsia. Brodsky represented Russian poetry.
"The Jewish Cemetery in Leningrad"
VENICE. I have not been there, but Joseph's Venice and even his Petersburg are familiar urban landscapes. Even if Joseph made little of it, perhaps his Jewishness was also in evidence. A sense of doom, of endurable disaster; of self-depreciation as well, alienation, although he managed to combine this with a kind of assertiveness, so that it never turned into Jewish selbsthass. In a way, the Jewishness was a given. Indeed, it was better not stated, since it could so easily lead to identification with victimhood. That may be why he never, so far as I know, re-printed the early "The Jewish Cemetery in Leningrad", another poem that I translated, also because of its overtly Jewish content, unique in his work. The poem may not be written from the point of view of a victim, but the Jew as victim or scapegoat features in it. Oddly - or not so oddly - this somewhat juvenile work was mentioned in an article entitled "A Literary Drone" in Vechernii Leningrad (Evening Leningrad) in November 1963, a sort of prologue to the famous trial in February. Casting around for evidence in his writings of "Jewish nationalism", which even so late in the history of the Soviet Union was still a heinous sin, all his accusers could come up with was this poem (friends of Joseph were also named, Vladimir Shveigolts, Anatoly Geikh- man, Leonid Aronzon, all typically Jewish names):
The Jewish
cemetery near Leningrad.
A crooked
fence of rotten plywood.
And behind
it, lying side by side,
lawyers,
merchants, musicians, revolutionaries.
They sang
for themselves.
They
accumulated money for themselves.
They died
for others.
But in the
first place they paid their taxes, and
respected
the law,
and in this
hopelessly material world,
they
interpreted the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they
saw more.
Perhaps they
believed blindly.
But they
taught their children to be patient
and to stick
to things.
And they did
not plant any seeds.
They never
planted seeds.
They simply
lay themselves down
in the cold
earth, like grain.
And they
fell asleep forever.
And after,
they were covered with earth,
candles were
lit for them,
and on the
Day of Atonement
hungry old
men with piping voices,
gasping with
cold, wailed about peace.
And they got
it.
As
dissolution of matter.
Remembering
nothing.
Forgetting
nothing.
Behind the
crooked fence of rotting plywood,
four miles
from the tramway terminus.
"Cemetery",
as this poem is called in the article, is uncharacteristic, not only on
account
of the subject but prosodically as well. The first stanza is rhymed,
but
thereafter the poem resolves itself into vers
libre. I know of no other poem like it in Joseph's published
oeuvre.
Indeed, were it not that he never denied writing it, one might almost
have
thought it was by someone else. In a sense, perhaps it was.
I never
discussed it with Joseph, since we didn't talk about our Jewishness, or
even
Judaism as such, though I may have mentioned my own ambivalence. While
it is
sometimes suggested or claimed that Joseph had rejected Judaism, as far
as I
know he neither embraced it nor denied it. I think that his attitude
did not really
change. He was a Jew of the assimilated, Russified kind, a "bad
Jew", as he put it, and not much interested in adopting or reclaiming
the
tradition; in short, he was no "refusenik". On the other hand, for
instance, Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology
Voices
Within the Ark: The Modern Jewish Poets (1980) tells me that when asked
if he
would be willing to be included in the book, Joseph replied that he
wanted to
be in it. And when, for instance, he was asked at a press conference in
Stockholm,
in December 1987, at the Nobel ceremonies, how he would describe
himself, he
answered: "I feel myself a Jew, although I never learnt Jewish
traditions." He added, however: "But as for my own language, I
undoubtedly regard myself as Russian."
Being a Jew,
like being an exile, has certain advantages, in that (anywhere other
than in
Israel, perhaps New York, or wherever Jewish ghettos survive) it
situates one
on the margins, rather than at the
centre of society. Jews tend to take on the colour of their
surroundings.
Jewish history, as a whole - and even "bad" Jews are heirs to that
history - gives the individual Jew a claim, however tenuous, on a
variety of
cultural or linguistic territories. This is a source of strength, but
also of
weakness, in that he may feel that he truly belongs to none. Of course,
Joseph
did live in New York, but he was frequently on the road, in the States
or
abroad, and had another home in New England. Further- more, his
exceptionally
wide, international circle of friends and acquaintances far transcended
the
Jewish cultural world, assuming that there is such a thing.
“The Jewish
Cemetery in Leningrad" is not a good poem; it may even be a bad poem.
And
my reasons for translating it may not have been praiseworthy either.
The poem
seemed to me even then
somewhat jejune. Those interred in Leningrad's Jewish cemetery were cut
off
("sang for themselves "), landless ("they never planted seeds,
only themselves") and superstitious, imprisoned by tradition ("hungry
old men with piping voices"). Their hopes or beliefs were illusory: the
peace they prayed for came to them as "dissolution of matter". There
is no light; there is not
even a "nobody in a raincoat". And that's partly the trouble. The
poem is programmatic, its theme too large, given the means at the young
poet's
disposal. It is as if he simply did not know what to do with the
material. But
this in itself interested me, particularly in view of the extraordinary
sureness of his hand in all the other poems I'd looked at, even from
that early
period. It may have been the first of the few poems by Joseph that I
translated. For me it was a place of meeting with him, this having
nothing, I
suppose, to do with its literary worth.
When I asked
Joseph if I might reprint my version, his response was: "Do what you
like,
Danny!" So, either he didn't give a damn, or he was disposed to indulge
me. Perhaps both. Might he
have responded differently, had I put it differently, viz. "Would you
rather I didn't use it, Joseph?" After all, he had not said anything
about
his inclusion in the original Yevtushenko anthology,
until Max Hayward gave him the opportunity to refuse, whereupon he did
refuse!
Cuốn sách về
Brodsky này, như lời Bạt cho thấy, có cùng tuổi [hải ngoại] của Gấu,
1997, hay đúng
hơn, kém Gấu ba tuổi.
Gấu làm quen Brodsky thời gian này, nhân đọc Coetzee viết về những tiểu
luận của ông, trên tờ NYRB; bài tưởng niệm khi ông
mất, của Tolstaya...
Trong cuốn này, có nhắc tới bài viết, Gấu chôm,
xen với
những kỷ niệm về Joseph Huỳnh Văn, trong bài “Ai cho phép mi là thi sĩ”
Post ở đây,
rảnh rang lèm bèm sau.
Thú nhất
câu: "Hãy nhớ Gấu, và quên số mệnh cà chớn của Gấu"!
"Remember
me, but ah! Forget my fate!"
Postface
Monday, 19 May, 1997
WHEN I BEGAN
this writing almost a year and a half ago, I intended ...
Well, I
intended nothing. Rather, I
was dealing, as best I could, with a
persistent grief. And that led me to revisit our various times
together. And that, in its turn, led me back to his writing, or one
might
say led me to it for the first time, because - as he put it:
"all that is left of a man is a part of speech." I tried to separate
the
strands of our understandings and misunderstandings. The
journal became as much a self-interrogation as an interrogation
of our friendship. I found myself moving, quite confusingly,
between private and public, between affinities, issues of
friendship, and problems of translation. Of course, the journal is
also about translation. It is a confession, too, although I have tried
to limit that aspect of it, and not only because I know how much
Joseph disliked confessionalism.
While
writing, I have talked to others. I have been made aware of many
different points of view, which not surprisingly are often
conflicting. From these I have taken what seemed to illuminate my
own perceptions and ignored, or left for others to explore or
not explore, those which it seemed impertinent to work with.
It has not been hard for me to steer clear of his "private
life", since I was hardly privy to it. Quite a few of my remarks are
speculative. But I have tried, in general, not to over- indulge
myself in what at worst is simply fiction-making.
As I looked
at one or two of Joseph's translations and, again, at many of
his Russian poems, I was once more brought up against my
ignorance, my over-dependency on intuition, my inability to
pick up allusions. I also became aware - as I hardly was before -
of the scale of the Russian tragedy, the truly heroic grandeur of
the life, say, of Akhmatova. And Brodsky.
I have been
listening to Purcell's Dido and
Aeneas. And were I not convinced
that it would come across as sentimental, I would re-name thjs
manuscript "Remember Me". Dido cries: "Remember me, but ah!
forget my fate!" In a letter to Brodsky probably 10 July I965;
for an English translation, see Anna Akhmatova, My Half
Century, Selected Prose, 1992) Akhmatova writes: "I'm at the hut. The
well creaks, the ravens caw. I'm listening to the Purcell
(Dido and Aeneas) that was brought on your recommendation. It
is so powerful that it's impossible to talk about it." In an earlier
letter (20 October I964) she had written: "Promise me one thing -
that you will stay perfectly healthy, there's nothing on earth
worse than hot-water bottles, shots, and high blood pressure -
and the worse thing is that it's irreversible. And if you are healthy,
golden paths, happiness, and that divine communion with nature,
which so captivates all those who read your poetry,may await
you." Alas, he was unable to heed her advice, but the reciprocal
nature of their relationship, in spite of the age difference,
is evident. One understands, he observed, walking beside
Akhmatova, why Russia was sometimes ruled by empresses.
But he did walk beside her.
Considered by many to be the greatest Russian poet of his generation, Joseph Brodsky (1940-1996) received the Nobel Prize for Literature in 1987. By this time he was a fluent writer and speaker of English - yet when exiled from the Soviet Union in 1972 (after serving 18 months of a five-year sentence in a labour camp) he was practically restricted to his native tongue. Brodsky, like Nabokov, became that most rare and intriguing of writers - one who mastered English as a second creative language and re- invented himself in it.
Daniel Weissbort was closely associated with Brodsky as friend and translator. In addition to being a fascinating biographical (and autobiographical) study, From Russian with Love provides detailed discussion of the problems of Englishing Brodsky's poems. Iris a telling contribution to translation studies and a searching meditation on the nature of language itself.
Daniel
Weissbort, born in I93S. co-founded with Ted Hughes the journal Modern
Poetry
in translation which he edited from 1965-1003. He directed the
Translation
Workshop at the University of Iowa for many years. His translations
from
Russian include the Selected Poems of Nikolai Zabolotsky and his most
recent
book of poems is Letters to Ted (Anvil. 2002).
He lives in
London.
Bài tưởng niệm
Brodsky của Tolstaya, mà Gấu chôm, viết về bạn không quí Joseph HV,
cũng có tí kỷ niệm thú vị.
NTV khi đó chưa về xứ Mít ở luôn,
ghé nhà chơi, lấy tờ NYRB có bài viết về đọc, than, mi lọc ăn hết thịt,
chỉ cho
độc giả tí xương, ra ý, bài viết thì còn nhiều chi tiết quá hay, Gấu
đếch dịch!
Không phải vậy.
Cái phần Gấu
giữ lại, là tính để dành, cho 1 dịp khác.
Sau đó, Gấu đưa vô bài viết về Đỗ
Long Vân, bạn của Joseph Huỳnh Văn, và đưa vô bài thơ gửi cho… Gấu Cái,
như 1 lời
tạ lỗi, cả 1 đời, mi đâu có dành cho ta dù chỉ nửa phút, mà chạy theo
hết con này
đến con kia!
Tatyana Tolstaya, trong một bài tưởng niệm nhà thơ Joseph Brodsky, có nhắc đến một cổ tục của người dân Nga, khi trong nhà có người ra đi, họ lấy khăn phủ kín những tấm gương, sợ người thân còn nấn ná bịn rịn, sẽ đau lòng không còn nhìn thấy bóng mình ở trong đó; bà tự hỏi: làm sao phủ kín những con đuờng, những sông, những núi... nhà thơ vẫn thường soi bóng mình lên đó?
Chúng ta quá cách xa, những con đường, những sông, những núi, quá cách xa con người Đỗ Long Vân, khi ông còn cũng như khi ông đã mất. Qua một người quen, tôi được biết, những ngày sau 1975, ông sống lặng lẽ tại một căn hộ ở đường Hồ Biểu Chánh, đọc, phần lớn là khoa học giả tưởng, dịch bộ "Những Hệ Thống Mỹ Học" của Alain. Khi người bạn ngỏ ý mang đi, ra ngoài này in, ông ngẫm nghĩ rồi lắc đầu: Thôi để cho PKT ở đây, lo việc này giùm tôi.... (2)
NQT
GCC có đọc
trên net, đâu đó, của 1 người, biết những ngày sau cùng, và cái chết
đau buồn của
DLV. Nó làm Gấu nhớ đến truyền thuyết về những con voi già, biết giờ
chết của mình,
bèn bò về nghĩa địa của loài voi…
Trong "Một Chủ
Nhật Khác", TTT có nhắc tới giai thoại này, và cho biết thêm, cái tay
kiếm ra Đà
Lạt, và dựng nó thành 1 thành phố, là 1 trong những con voi, những cột
trụ chống
Trời, cho dân Mít.
Đâu có phải
tự nhiên mà cuộc tình thần sầu chấm dứt cõi văn chương Ngụy thần sầu
diễn ra ở Đà
Lạt!
[Viết câu này
là viết riêng cho Gấu, nhe!]
Ui chao, bạn
DLV của GCC, lập lại y chang giai thoại, về tên Ngụy cuối cùng đó: Ta
đếch đi đâu,
cũng chẳng về nghĩa địa voi ở Đà Lạt, ta chọn 1 xó xỉnh nào của Sài
Gòn, để chết.
Hi vọng
Tặng em, như một lời tạ tội
Người
Nga, khi người thân vĩnh biệt
Thường phủ kín những tấm gương
Để người đi không đau lòng, hoảng hốt
Hồn còn đây, bóng đã không còn
Người Việt
thường dặn dò
Hồn đừng quên
Con đường trở lại làm trẻ thơ
Mỗi lần qua sông, qua biển
Anh mong có
em ở bên
Bởi vì chẳng bao giờ anh tìm thấy
Hình bóng anh
Ở trong em
Nhưng biết
đâu, vào giờ phút chót
Tuổi thơ của anh, của em
Nhập làm một
Em chẳng
hằng mong
Đừng ai đi trước
NQT
Xuống tiệm sách cũ, vồ
được cuốn này, quá tuyệt.
Post liền bài thơ “Nghĩa địa Văn Điển ở Hà Lội”. Bài này Gấu thấy rồi,
tính giới thiệu rồi, nhưng nay có thêm 1 ấn bản nữa, kèm cả 1 chương
sách về nó. Thú quá!
Còn vồ thêm được mấy cuốn nữa, cũng quá OK. Thơ của Bertold Brecht, thí
dụ, quí vị độc giả TV, xin từ từ.... hà, hà!
The Jewish cemetery near
Leningrad.
The Jewish cemetery near
Leningrad.
A crooked fence of rotten plywood.
And behind it, lying side by side,
lawyers, merchants, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves.
They accumulated money for themselves.
They died for others.
But in the first place they paid their taxes, and
respected the law,
and in this hopelessly material world,
they interpreted the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they saw more.
Perhaps they believed blindly.
But they taught their children to be patient
and to stick to things.
And they did not plant any seeds.
They never planted seeds.
They simply lay themselves down
in the cold earth, like grain.
And they fell asleep forever.
And after, they were covered with earth,
candles were lit for them,
and on the Day of Atonement
hungry old men with piping voices,
gasping with cold, wailed about peace.
And they got it.
As dissolution of matter.
Remembering nothing.
Forgetting nothing.
Behind the crooked fence of rotting plywood,
four miles from the tramway terminus.
THE JEWISH CEMETERY
The Jewish Cemetery near
Leningrad:
a lame fence of rotten planks
and lying behind it side by side
lawyers, businessmen, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves,
got rich "for themselves,
died for others.
But always paid their taxes first;
heeded the constabulary,
and in this inescapably material world
studied the Talmud,
remained idealists.
Maybe they saw something more,
maybe believed blindly.
In any case they taught their children
tolerance. But
obstinacy. They
sowed no wheat,
never sowed wheat,
simply lay down in the earth
like grain
and fell asleep forever.
Earth was heaped over them,
.andles were lit for them,
and on their day of the dead raw voices of famished
old men, the cold at their throats,
shrieked at them, “Eternal peace!”
Which they have found
in the disintegration of matter,
remembering nothing
forgetting nothing
behind the lame fence of
rotten planks
four kilometers past the streetcar terminal.
1967, translated with
Wladimir Weidlé
Comments
Post a Comment