The Rain
The afternoon grows light because at last
Abruptly a minutely shredded rain
Is falling, or it fell. For once again
Rain is something happening in the past.
Whoever hears it fall has brought to mind
Time when by a sudden lucky chance
A flower called “rose” was open to his glance
And the curious color of the colored kind.
This rain that blinds the windows with its mists
Will gladden in suburbs no more to be found
The black grapes on a vine there overhead
In a certain patio that no longer exists.
And the drenched afternoon brings back the sound
How longed for, of my father’s voice, not dead.
[From Dreamtigers, by Jorge Luis Borges, translated by Harold Morland]
LA PLUIE
Brusquement s'éclaircit le ciel embarrassé :
II pleut enfin. Le flot minutieux arrose
Ma rue. Ou l'arrosa. La pluie est une chose
En quelque sorte qui survient dans le passé.
Je l'écoute; à sa voix, dans le soir remplacé,
Tout un temps bienheureux s'entrouvre et se propose:
Le temps qui m'enseigna le parfum de la rose
Et l'étrange couleur du rouge courroucé.
La rafale qui bat aux vitres aveuglées
Rejouira les noirs raisins et les allées
Poudreuses d'un jardin qui n'est plus, vers le bord
Indécis d'un faubourg. A travers la durée,
L'heure humide m'apporte une voix desirée :
Mon pere est là, qui revient et qui n'est pas mort.
Ibarra
LEONARD NATHAN
Erotic imagination and disinterested care-how can we separate them? In any case, it is difficult to do so in this poem, the author of which is my colleague and co translator Leonard Nathan, who lives in Berkeley.
Czeslaw Milosz
TOAST
There was a woman in Ithaca
who cried softly all night
in the next room and helpless
I fell in love with her under the blanket
of snow that settled on all the roofs
of the town, filling up
every dark depression.
Next morning
in the motel coffee shop
I studied all the made-up faces
of women. Was it the middle-aged blonde
who kidded the waitress
or the young brunette lifting
her cup like a toast?
Love, whoever you are,
your courage was my companion
for many cold towns
after the betrayal of Ithaca,
and when I order coffee
in a strange place, still
I say, lifting, this is for you.
Is it appropriate or inappropriate! Perhaps it's appropriate, since the poet, Leonard
Nathan, wrote and published it; and in spite of its john8 form, this is a serious
poem, sufficiently complex in its thou8ht to discoura8e us from retellin8 it in our
own words.
BLADDER SONG
On a piece of toilet paper
Afloat in the un-flushed piss,
The fully printed lips of a woman.
Nathan, cheer up! The sewer
Sends you a big red kiss.
Ah, nothing's wasted, if it's human.
WALT WHITMAN
1819-1892
Walt Whitman had avid eyes. He wanted to see everything, to memorize everything, and to enclose it all in his poems. But he remains for us primarily a poet of great heart, of all-embracing love, which fuses its varieties into one love, erotic, but also compassionate, protective, and marveling at everything great and magnificent in man. This aspect of his poetry prompted me to place several fragments of his oeuvre in this chapter.
Some Civil War poems of Whitman's should be placed here, because they are the most direct in invoking the dead of that war.
Czeslaw Milosz
A SIGHT IN CAMP IN THE DAYBREAK
GRAY AND DIM
A sight in camp in the daybreak gray and dim,
As from my tent I emerge so early sleepless,
As slow I walk in the cool fresh air the path near by the
hospital tent,
Three forms I see on stretchers lying, brought out there
untended lying,
Over each the blanket spread, ample brownish woolen blanket,
Gray and heavy blanket, folding, covering all.
Curious I halt and silent stand,
Then with light fingers I from the face of the nearest the first
just lift the blanket;
Who are you elderly man so gaunt and grim, with well-
gray'd hair, and flesh all sunken about the eyes?
Who are you my dear comrade?
Then to the second I step-and who are you my child and
darling?
Who are you sweet boy with cheeks yet blooming?
Then to the third-a face nor child nor old, very calm, as of
beautiful yellow-white ivory;
Young man I think I know you-I think this face is the face of the
Christ himself,
Dead and divine and brother of all, and here again he lies.
10
The Nightmare, That Tiger of the Dream
Indiana University,
April 1980
I am often haunted by nightmare.
And I feel that were I a theologian-happily
I am not-I might find an argument in
favor of hell. . . . The nightmare has a
peculiar horror to it. The nightmare, that
tiger of the dream.
WILLIS BARNSTONE: In the years that we have known each other we have spoken almost exclusively about poetry.
JORGE LUIS BORGES: Yes. It's the only subject, really.
BARNSTONE: A few days ago when we took a plane in New York,myou asked what the name of the airline was, and I said 1W A. You asked what that stood for, and I said Trans World Airlines. Do you remember what you said?
BORGES: Yes. I said that that stood for Walt Whitman Trans World.
He would have enjoyed that.
Người ta có thể đọc « cả 1 thư viện » của thế gian, nhưng vẫn là 1 tên vô học. Nhưng nếu chỉ vô tư ‘chơi’ một, hoặc hai câu, mà thôi, và thế là thành 1 tay uyên bác.
Tuyệt !
GNV có lần được 1 độc giả, trên 1 blog [không phải TV] khen, đọc hết cõi văn Tây !
Đa tạ, nhưng không phải vậy.
GNV này, nếu nói về đọc văn người, Ta hay Tây, thì, như TTT viết về nhà văn nhà thơ Mít, "hết thời thanh xuân là... thôi", cái đọc của Gấu chấm dứt, sau khi VC ăn cướp được Miền Nam!
Muốn đọc nữa, cũng chịu thua!
Cặn kẽ hơn, nó chấm dứt trước đó, với Camus, và Faulkner.
Từ khi ra hải ngoại, Gấu chưa hề có diễm phúc được đọc, hay đọc được, chỉ 1 tác phẩm văn chương, do trúng 1 cú rìu phá băng của… Steiner, và vì cú đó, khám phá ra Lò Thiêu, rồi bị 1 đòn hồi mã thương, tức cú đánh quật ngược lại, và nhờ cú này, khám phá ra Lò Cải Tạo.
Bị trúng hai búa khủng khiếp như thế, không bị THNM, là nhờ... BHD.
Một độc giả TV đã nhận ra điều này, khi phán, ngoài những trang về BHD, còn lại là đen thui !
Chỉ chừng 1 năm nay, GNV mới lại có lại được cái thú đọc văn, và như để đền bù, ông Trời còn cho phép Gấu làm được tí thơ, và đọc được Thơ!
Anticipation of love
Neither the intimacy of your look, your brow fair as
a feast day,
nor the favor of your body, still mysterious, reserved,
and childlike,
nor what comes to me of your life, settling in words
or silence,
will be so mysterious a gift
as the sight of your sleep, enfolded
in the vigil of my arms.
Virgin again, miraculously, by the absolving power of
sleep,
quiet and luminous like some happy thing recovered
by memory,
you will give me that shore of your life that you
yourself do not own.
Cast up into silence
I shall discern that ultimate beach of your being
and see you for the first time, perhaps,
as God must see you-
the fiction of Time destroyed,
free from love, from me.
[Robert Fitzgerald]
J.L. Borges: Selected Poems 1923-1967
A Bilingual ed by Norman Thomas Di Giovanni
Đường vào tình yêu
Không phải vẻ thân mật, riêng tư của cái nhìn, cặp lông mi ngày hội của em
Không phải mùi cơ thể của em, tuy vưỡn bí hiểm, vưỡn dành riêng cho anh, và vưỡn muôn đời trẻ thơ
Không phải điều đến với anh, từ em, bằng lời, hay bằng im lặng
Sẽ cực kỳ bí ẩn, như một món quà
Khi nhìn thấy em ngủ,
Cuộn tròn, thánh thiện, như thiên thần, như thánh nữ - của bạn Cà - trong tay anh
Thánh nữ, again, như lời kinh, bằng cái quyền uy thấm nhập của giấc ngủ
lặng lẽ, long lanh, như một điều “gọi là” hạnh phúc, được tìm thấy lại, từ hồi nhớ
Em sẽ cho anh bến bờ đó của đời em, mà em, chính em, không sở hữu.
Nhập vào im lặng
Anh sẽ nhận ra bãi biển tối hậu của sự hiện hữu là em
Và sẽ nhìn thấy em lần đầu, có lẽ,
Như Ông Giời phải, bắt buộc phải, chiêm ngưỡng em, như thế -
Giả tưởng của Thời Gian bị hủy diệt
Vô tư thoát ra khỏi tình yêu
Thoát ra khỏi anh.
Iosip Brodsky
Russian
1940-1996
THE MONUMENT
Let us set up a monument
in the city, at the end of the long avenue,
or at the center of the big square,
a monument
that will stand out against any background
because it will be
quite well built and very realistic.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.
We will plant flowers
around the pedestal
and with the permission of the city fathers
we will lay out a little garden
where our children
will blink
at the great orange sun
and take the figure perched above them
for a well-known thinker
a composer
or a general.
I guarantee that flowers will appear
every morning
on the pedestal.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.
Even taxi drivers
will admire its majestic silhouette.
The garden will be a place
for rendezvous.
Let us set up a monument,
we will pass under it
hurrying on our way to work,
foreigners will have their pictures taken
standing under it,
we will splash it at night with the glare
of floodlights.
Let us set up a monument to The Lie.
1967, translated with
Wladimir weidle
W.S. Merwin
Đài Kỷ Niệm
Mít chúng mình hãy xây 1 đài kỷ niệm/tưởng niệm/lăng miện/lăng mạ...
như Lăng Bác
Ở Xề Gòn, cuối con đường thiệt là dài Hồng Thập Tự
hay ở Quảng Trường Lớn Chợ Bến Thành
Một đài kỷ niệm hiên ngang, hùng dũng, vượt lên khỏi/đếch cần 1 thứ nền tảng, gốc gác
Ngụy/Cách Mạng/Bắc Kít/Nam Kít/Trung Kít…
Bởi là vì nó sẽ được xây thật là bảnh, và thật là hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói
Mít chúng ta sẽ xây một đài kỷ niệm
Nó sẽ đếch làm bực mình bất cứ 1 tên Mít nào.
Chúng mình sẽ trồng hoa quanh Đài
Và, với sự cho phép của ông cha thành phố
Chúng mình sẽ xây dựng 1 công viên Lê Văn Tám nho nhỏ
Nơi đám con nít của chúng ta
Sẽ chói mắt khi mặt trời chân lý xoáy qua tim
Sẽ chụp hình kỷ niệm dưới chân Đài
Cho một tư tưởng gia nổi tiếng, thí dụ Bác Hồ
Một nhà soạn nhạc, Phạm Duy
Một ông tướng, Võ Tướng Quân
Tớ bảo đảm hoa sẽ nở mọi buổi sáng
quanh Đài.
Hãy để cho đám Mít Miền Nam dựng 1 Đài Kỷ Niệm ở Thành Hồ
như Lăng Bác ở Hà Lội
Nó sẽ chẳng làm phiền bất cứ một ai.
Ngay cả 1 tên tài xế tắc xi
Sẽ trầm trồ vì cái dáng sang cả của Đài
Khu vườn sẽ là nơi hò hẹn
Hãy dựng 1 Đài
Chúng ta sẽ đi dưới nó
Trên đường hối hả tới chỗ làm việc
Đám mũi lõ sẽ chụp hình búa xua, khi đứng tạo dáng bên Đài.
Mỗi lần Xề Gòn vào mùa mưa, là Đài sẽ lấp lánh với muôn vàn đợt sóng lung linh dưới ánh đèn lũ lụt
Hãy dựng 1 Đài Tưởng Niệm/Kỷ Niệm/Lưu Niệm Tình Hữu Nghị Việt-Trung…
J.L. Borges
Here once again the memorable lips, unique and like yours.
I am this groping intensity that is a soul.
I have got near to happiness and have stood in the shadow
of suffering.
I have crossed the sea.
I have known many lands; I have seen one woman and two
or three men.
I have loved a girl who was fair and proud, with a Spanish
quietness.
I have seen the city's edge, an endless sprawl where the sun
goes down tirelessly, over and over.
I have relished many words.
I believe deeply that this is all and that I will neither see
nor accomplish new things,
I believe that my days and my nights, in their poverty and
their riches, are the equal of God's and of all men's.
[W. S. Merwin]
MA VIE ENTIÈRE
Me voici encore, les lèvres mémorables, unique et semblable à vous.
J'ai persévéré dans l'à-peu-près du bonheur et dans l'intimité de la peine.
J'ai traversé la mer.
J'ai connu bien des pays; j'ai vu une femme et deux ou
trois hommes.
J'ai aimé une enfant altière et blanche et d'une hispanique
quiétude.
J'ai vu d'infinies banlieues ou s'accomplit sans s'assouvir
une immortalité de couchants.
J'ai gouté à de nombreux mots.
Je crois profondément que c'est tout et que je ne verrai ni
ne ferai de nouvelles choses.
Je crois que mes journées et mes nuits
égalent en pauvreté comme en richesse celles de Dieu et
celles de tous les hommes.
[Ibarra]
Trọn đời Gấu
Đắm đuối nơi “xém một tí” hạnh phúc, và, trong bóng của sự đau khổ
Tôi đi hết biển [đếch thấy xứ Mít]
Tôi biết nhiều xứ sở; tôi nhìn thấy 1 người đàn bà, và hai hoặc ba người đàn ông
Tôi yêu một cô gái kiêu sa, trầm lắng Tây Ban Nha
Tôi đã nhìn thấy mép bờ thành phố,
một cõi bao la trải dài, nơi mặt trời lặn, lặn hoài,
không mệt mỏi.
Tôi nếm đi nếm lại rất nhiều từ
Tôi nghĩ như vậy là quá đủ, chẳng cần thêm gì nữa.
Tôi tin tưởng, những ngày, những đêm của tôi, trong cái sự khốn cùng cũng như giầu sang của chúng,
thì chẳng thua gì, của Thượng Đế, và của tất cả mọi người.
June 21
Father's Day: Cornelius Eady
Cornelius Eady is a New York City poet. Last year he published a small book about his father's death. It's called You Don't Miss Your Water. The title comes from a song lyric: "But when you left me, O how I cried. You don't miss your water till the well runs dry." It's about a son's relation to a difficult father at the time of his dying. Only about twenty pieces, a mix of poems and short prose, written in the plainest language, the book also became the basis for an off-Broadway theater piece. Here's a taste:
A Little Bit of Soap
One of the things my father never liked about me was my dark skin. You used to be so pretty was the way he'd put it, and it was true, there is proof, a baby picture of a curly-haired, just a hairs breadth away from fair skinned child, me, my small fingers balled up into a fist.
And then, as if some God shrugged and suddenly turned away its gaze, something caved in, and I was dark, dark, and all that it implied.
So what happened? My father always seemed to want me to explain, what did this desertion mean? This skin that seemed born to give up, this hair that crinkled to knots, this fairy tale-like transformation?
You used to look real good, my father, a man of slightly lighter hue, would say to me, his son, his changeling. Maybe you ought to wash more.
Robert Hass [1998] Now & Then
Ngày của Bố
Cornelius Eady là 1 nhà thơ New York City. Năm ngoái ông cho xb một cuốn sách nhỏ về cái chết của cha ông, “Bố đừng quên nước của Bố”.
Cái tít là từ một bài ca, “Nhưng khi bố rời con, ôi con khóc làm sao. Bố đừng quên nước của bố cho tới khi giếng cạn”. Cuốn sách mỏng là về liên hệ của đứa con trai với người bố khó khăn, lúc ông bố mất. Chỉ hai mươi bài, thơ trộn với những đoản văn, viết bằng 1 thứ ngôn ngữ trần trụi, cuốn sách được làm nền dựng thành kịch Broadway. Sau đây là một mùi vị:
Một tí xà bông
Một điều mà ông bố của tôi bực, về tôi, là da tôi xậm. Hồi bé mi đâu có vậy. Và quả thế thực. Thằng bé con ngày nào là tôi, nhìn tấm hình, mới đẹp làm sao. Đẹp ơi là đẹp, và thế rồi, Ông Giời cà chớn nhãng đi 1 phát, một điều gì xẩy ra, khắc vào thằng bé, chắc hẳn, thế là thành ra tôi sau đó, 1 thằng bé da đen thui.
Chuyện quái gì xẩy ra vậy? Cha tôi hình như muốn tôi giải thích. Tại làm sao lại có sự “đào ngũ, đào nhiệm, ruồng bỏ… cái con mẹ gì” như thế? Làn da của tôi, như được bà mụ nhào nặn ra, là để... đầu hàng, hà hà!
Ngày bé mi mới xinh xắn làm sao, cha tôi lầu bầu hoài, có lẽ mi phải chịu khó tắm nhiều lần thêm 1 tí!
Ui chao, Gấu đọc, thì bèn nhớ đến ông bố của mình, bị 1 đấng học trò dìm xuống sông, đến ngạt thở mà chết.
Thế là hồi nhỏ, mỗi lần đi tắm sông, tắm ao, là thằng cu Gấu, nhà quê, Bắc Kít, lần nào cũng vậy, bèn lặn thật sâu, nín thở thật lâu, như để nhìn thấy, hoặc tưởng tượng ra, cái xen, ông bố của mình đang ngạt thở!
A Quoi Bon Dire
Seventeen years ago you said
Something that sounded like Good-bye;
And everybody thinks that you are dead,
But I.
So I, as I grow stiff and old,
To this and that say Good-bye too;
And everybody sees that I am old
But you.
And one fine morning in a sunny lane
Some boy and girl will meet and swear
That nobody can love their way again
While over there
You will have smiled, I shall have tossed your hair.
The next year T. S. Eliot's "Love Song of J. Alfred Prufrock" would appear and come in another and more surprising way at the subject of lived and unlived life. It's fascinating to see, as Keegan allows us to do, the poems we know in relation to some of the poems we seem to have forgotten.
À Quoi Bon Dire
Lời Nào Em Không Nói
Mười bảy năm trước em phán
Có điều gì nghe như Good-bye
Và mọi người đều nghĩ, em đi xa
Không phải em mà là anh.
Và như thế, anh, ườn mãi ra, già mãi đi.
Uờn như thế, già như thế, thì cũng là Good-bye.
Và mọi người thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười, và anh sẽ đụng nhẹ lên mái tóc em.
*
Đáng lẽ đầu năm thì bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì phải ghẹo ít chữ .
Bài thơ này, theo như lời giới thiệu :
Here, from 1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H. Lawrence and Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của bà Charlotte Mew, vậy thì người xưng I ở đây chắc nên cho là phái nữ .
K nghĩ ý nó như vậy nè :
Mười bảy năm trước anh nói
gì gì nghe như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em càng ngày càng khô, càng lão
Em giờ cũng nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi sáng đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm cười, và em sẽ đùa với mái tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện, chúc Tết Tây K & O luôn.
Robert Hasas: Now & Then
THE YOUNG NIGHT
And now the lustral waters of night absolve me
from the many colors and the many forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient norms
of sleep and shadow. Darkness is sealing
the mirrors which copy the fiction of things.
Goethe said it best: everything near becomes far.
Those four words capture the entire twilight.
In the garden, roses cease to be roses;
they wish to be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
Note
Đêm trẻ
Và bây giờ nước thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất nhiều màu sắc và hình thể.
Trong vườn, chim và sao tán tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu chuẩn xa xưa về ngủ và bóng
Đêm đen sẽ đóng khằn những tấm gương
Chúng lập lại giả tưởng của sự vật
Về cú này, Goethe phán bảnh nhất, mọi vật gần thì bèn xa,
[Cái gì gì ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy từ tóm trọn chạng vạng
Trong vườn những bông hồng ngưng là những bông hồng
Chúng trở thành BHD.
Li Po
Chinese
701-762
I wake and my bed is gleaming with moonlight
Frozen into the dazzling whiteness I look up
To the moon herself
And lie thinking of home
-1966
W.S. Merwin
Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiền khán nguyệt quang
Nghi thị địa thương sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Lý Bạch
Ý Nghĩ Trong Đêm Vắng
Trước giường ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại nhớ xóm làng ngày xưa.
Trần Trọng San dịch
[No Subject ]
Friday, June 13, 2014 7:49 PM
Gửi đến bác, một bài thơ trích từ một tổ khúc, cũng nằm trong mạch "sầu nhớ xứ"...
Chúc bác mãi vui trong cõi văn chương của mình.
Kính!
D.V
xxix
ngồi chờ rạng đông, đến hết đêm
ngồi lần giở
những hồn ma từ trang sách thức dậy
sống với cõi đời khác, những không gian đã lùi xa
những mặt người đã lùi xa
cùng với những cái đau, gục đầu, nức nở
cùng với tiếng cười, vọng từ lòng giếng xóm cũ
hãy trở lại, trở lại
giữa những không gian nhòa lẫn vào nhau
trong tiếng nước nhỏ giọt, nhịp
bền bỉ dửng dưng của đồng hồ
(nghe như tiếng mọt gặm nhấm một thời xa, xa nữa)
và thời gian, như dòng cát mịn, lần hồi
đưa chân người chậm bước, loạc xoạc…
có phải đang ngồi đây, trước trang sách mở
hay đang trở về thẩn thơ, dọc bờ cát biển đêm xưa?
Dã Viên
Đa Tạ
Take Care
NQT
Re: Mãi vui.
Gửi bạn bài thơ sau đây. Sẽ đi 1 đuờng dịch dọt sau.
Dans mon métier,
mon art morose
Dans mon métier, mon art morose
exercé dans la nuit silencieuse
quand la lune seule fait rage
quand les amants sont étendus
avec toutes leurs douleurs dans les bras,
je travaille, à la lumière du chant,
non par ambition ou pour mon pain
ni pour le semblant, ni par commerce
de charmes sur des scènes d'ivoire
mais pour le salaire ordinaire
du profond secret de leurs coeurs,
Ni pour le prétentieux, ignorant
la lune qui fait rage, j'écris
sur ces pages mouillées d'embrun,
ni pour les morts trop hauts
avec leurs rossignols et leurs psaumes
mais pour les amants, leurs bras
enlacant les chagrins du Temps,
qui n'accordent ni attention, ni salaire
ni éloge à mon métier, mon art morose.
Dylan Thomas: Vision et Prière
Note: GCC mua cuốn này lâu lắm rồi, khi không đọc được thơ. Cứ tự nhủ, rồi có ngày đọc được.
Y chang cái hồi mới lớn, mua… Lukacs. Trần Phong Giao có lần hất hàm hỏi, cậu mua thứ này để nhát ma hả?
Bạn quí Mít Butor thì khinh khỉnh, mi học trường Mít, tiếng Tây ăn đong, mà cũng bày đặt đọc tiểu thuyết mới!
LET'S GO
For L
Let's go-
Fallen leaves blow into deep valleys
But the song has no home to return to.
Let's go-
Moonlight on the ice
Has spilled beyond the river bed.
Let's go-
Eyes gaze at the same patch of sky
Hearts strike the twilight drum.
Let's go-
We have not lost our memories
We shall search for life's pool.
Let's go-
The road, the road
Is covered with a drift of scarlet poppies.
Bei Dao: The Rose of Time
Đi thôi
Gửi L
Đi thôi-
Lá rụng dạt xuống thung lũng sâu
Nhưng bài hát không có nhà để trở về
Đi thôi-
Trăng sáng trên mặt băng,
Tràn quá lòng sông
Đi thôi-
Mắt, vẫn mảnh trời
Tim, nhịp hoàng hôn
Đi thôi-
Đôi ta chưa mất kỷ niệm
Sẽ tìm ao đời
Đi thôi-
Con đường, con đường
Lều bều anh túc đỏ
Jorge Luis Borges
Spanish
1899-1986
MY WHOLE LIFE
Here once again the memorable lips, unique and like yours.
I am this groping intensity that is a soul.
I have got near to happiness and have stood in the shadow of suffering.
I have crossed the sea.
I have known many lands; I have seen one woman and two or three men.
I have loved a girl who was fair and proud, with a Spanish quietness.
I have seen the city's edge, an endless sprawl where the sun goes down
tirelessly, over and over.
I have relished many words.
I believe deeply that this is all and that I will neither see nor accomplish
new things.
I believe that my days and my nights, in their poverty and their riches,
are the equal of God's and of all men's.
1968
W.S. Merwin
THE POET TELLS OF HIS FAME
The rim of the sky is the measure of my glory,
The libraries of the East argue over my verses,
The rulers seek me out to fill my mouth with gold,
The angels already know my last couplet by heart.
The tools of my art are humiliation and anguish.
Oh if only I had been born dead!
from the Divan of Abulcasim
EI Hadrami (rzth century)
1968
W.S. Merwin
Le cercle du Ciel est la mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.
GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ... 21
Bầu trời là thước đo vinh quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
Ta thấy hình ta những miếu đền
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương
Mai Thảo
The Moon
for Maria Kodama
There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Trăng
Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.
THE YOUNG NIGHT
And now the lustral waters of night absolve me
from the many colors and the many forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient norms
of sleep and shadow. Darkness is sealing
the mirrors which copy the fiction of things.
Goethe said it best: everything near becomes far.
Those four words capture the entire twilight.
In the garden, roses cease to be roses;
they wish to be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
Note
Under the Mirabeau Bridge the Seine
Flows and our love
Must I be reminded again
How joy came always after pain
Night comes the hour is rung
The days go I remain
Hands within hands we stand face to face
While underneath
The bridge of our arms passes
The loose wave of our gazing which is endless
Night comes the hour is rung
The days go I remain
Love slips away like this water flowing
Love slips away
How slow life is in its going
And hope is so violent a thing
Night comes the hour is rung
The days go I remain
The days pass the weeks pass and are gone
Neither time that is gone
Nor love ever returns again
Under the Mirabeau Bridge Flows the Seine
Night comes the hour is rung
The days go I remain
1956
W.S Merwin
Cầu Mirabeau
Dưới cầu Mirabeau, sông Seine chảy
Và tình đôi ta
Liệu anh phải nhớ
Niềm vui luôn tới, sau nỗi đau
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tay trong tay mặt nhìn mặt
Dưới cầu đôi tay
Sóng uể oải lập đi lập lại
Nhân lên mãi mãi
Ánh mắt thiên thu hoài hoài của đôi ta
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tình đi, như nước chảy
Tình đi
Ôi, đời sao chậm lụt
Hy vọng sao hung bạo đến như vầy
Đêm tới giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Ngày đi, tháng đi
Thời gian không đi
Tình không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
In summer's idle time,
When trees grow heavy with leaves
And spread shade everywhere
That is a delight to lie in
Alone
Or in the company of a dear friend,
Dreaming or having a quiet talk
Without looking at each other,
Until she feels drowsy
As if after too much wine,
And you draw close for a kiss
On her cheek, and instead
Stay with lips pursed, listening
To a bee make its rounds lazily,
And a far-off rooster crow
On the edge of sleep with the leaves hushed
Or rustling, ever so softly,
About something or other on their mind.
Charles Simic
Điều Gấu thoáng nghe
Mùa hạ, lúc rảnh rỗi
Khi cây nặng trĩu lá
Trải bóng lên mọi nơi
Sướng làm sao, nằm
Một mình
Hay với một em thật thân, là Em, tất nhiên, hà hà!
Lơ tơ mơ, hay đi 1 đường chuyện vãn êm ả
Đếch thèm nhìn nhau
Cho tới khi Em uể oải, thờ thẫn
Như thể uống nhiều rượu chát
Và Gấu bèn đi 1 đường nằm sát vô Em
Tính xin 1 cú hôn
Lên má, và, thay vì vậy
Thì bèn cứ nằm yên, môi mím lại, lắng nghe
Một con ong lười biếng lượn vài đường
Hay con quạ, xa hơn con gà trống
Ở ven bờ giấc mộng, cùng đám lá lặng thinh
Hay rì rào nhẹ ơi là nhẹ
Về một điều, hay một điều gì khác, trong hồn.
Anonymous
Egyptian
zoth century B.C.
Death is before me today
like health to the sick
like leaving the bedroom after sickness.
Death is before me today
like the odor of myrrh
like sitting under a cloth on a day of wind.
Death is before me today
like the odor of lotus
like sitting down on the shore of drunkenness.
Death is before me today
like the end of the rain
like a man's homecoming after the wars abroad.
Death is before me today
like the sky when it clears
like a man's wish to see home after numberless years of captivity.
1960
Vô danh,
Ai Cập 20th century B.C.
Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như khỏe trước bịnh
Như rời phòng ngủ sau cơn bịnh
Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như mùi dầu myrrh
Như ngồi dưới mảnh vải trong một ngày có gió
Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như mùi hoa sen
Như ngồi ở bờ bãi say sưa
Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như chấm dứt một trận mưa
Như người đàn ông trở về sau nhiều trận chiến ở thật xa nhà, ở hải ngoại.
Cái chết trước mặt tớ bữa nay
Như bầu trời, khi trong sáng
Như ước mong của một người đàn ông nhìn thấy nhà của mình
Sau bao nhiêu năm tù dài dằng dặc
1960
Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119
The Ideal Retreat
I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At times I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.
1967, translated with
Nguyen Ngoc Bich
Trong bài tưởng niệm NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:
Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả hai đã uống.
Source
Theo Gấu, thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt Nam.
Trước 1975, tình cờ GNV có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư Không Lộ, hình như vậy, trên Thời Tập, và như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Theo như trí nhớ tồi tệ của GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn Nhan, về Không Lộ, có cái ý “thét lên 1 tiếng lạnh hư không”, chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin và Nguyễn Ngọc Bích chuyển qua tiếng Mẽo
Tớ sẽ chọn một nơi mà rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay xác con gấu, hay con cáo gì gì đó [của Hemingway]
Mà để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!
Osip Mandelstam
LENINGRAD
Russian
1891-1938
I've come back to my city. These are my own old tears,
my own little veins, the swollen glands of my childhood.
So you're back. Open wide. Swallow
the fish oil from the river lamps of Leningrad.
Open your eyes. Do you know this December day,
the egg yolk with the deadly tar beaten into it?
Petersburg! I don't want to die yet!
You know my telephone numbers.
Petersburg! I've still got the addresses:
I can look up dead voices.
I live on back stairs, and the bell,
torn-out nerves and all, jangles in my temples.
And I wait till morning for guests that I love,
and rattle the door in its chains.
Leningrad. December 1930
1972, translated with
Clarence Brown
W.S. Merwin
I returned to my city, familiar to tears,
to my childhood's tonsils and
varicose veins.
You have returned here-then swallow
the Leningrad street-lamps' cod-liver oil.
Recognize now the day of December fog
when ominous street-tar is mixed with the yolk of egg.
Petersburg, I do not want to die yet
I have your telephone numbers in my head.
Petersburg, I still have addresses at which
I will find the voice of the dead.
I live on a black stair, and into my temple
strikes the doorbell, torn out with flesh.
And all night long I await the dear guests,
and I jangle my fetters, the chains on the door.
[Osip Mandelstam, Selected Poems, translated by David McDuff. Cambridge: River Press, 1973, p.111] (1)
Tôi trở lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
That same light by which I saw her last
Made me close my eyes now in revery;
Remembering how she sat in the garden
With a red shawl over her shoulders
And a small book in her lap,
Once in a long while looking up
With the day's brightness on her face,
As if to appraise something of utmost seriousness
She has just read at least twice,
With the sky clear and open to view;
Because the leaves had already fallen
And lay still around her two feet.
Charles Simic
Ánh Sáng Tháng Mười
Cũng ánh sáng này tôi nhìn nàng lần sau cùng
Bây giờ nó làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng ngồi trong khu vườn
Khăn đỏ choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ trên đùi
Nàng nhìn lên một lúc thật lâu
Với ánh sáng ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc ít nhất là hai lần,
Bầu trời thì trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những chiếc lá đã rụng
Phủ quanh chân nàng.
Late Train
A few couples walk off into the dark.
In the spot where they vanished,
The trees are swaying as if in a storm
Without making the slightest sound.
The train, too, sits still in the station.
I remember a friend telling me once
How he woke up in a long train
Put out of service in a railroad yard.
In the dining car the tables were all set
With wine glasses and fresh flowers,
And the moon's white glove on one of them.
Here, there's nothing but night and darkness.
In the empty coach, far in the back,
I think I can see one shadowy passenger
Raising his pale hand to wave to me,
Or to peer at the watch on his wrist
I suspect has stopped running years ago.
Tàu muộn
Vài cặp bước vô khoảng tối
Ở cái điểm sáng từ đó họ biến mất
Cây lắc lư như trong một trận bão
Đếch thèm phát ra một tiếng động, dù cực nhỏ
Con tàu, cũng thế, đứng im lìm tại một nhà ga
Gấu bỗng nhớ một đấng bạn, có lần kể cho nghe
Như thế nào, anh ta thức giấc trong một con tàu dài thòng
Một con tàu “hoang”, một sân ga “phế”!
Tại toa ăn của con tàu
Bàn được dọn
Những ly rượu sáng choang bên cạnh những bó hoa tươi rói
Phủ lên tất cả là cái bao tay màu trắng của Chị Hằng từ phía bên trên kia nhìn xuống
Ở đây ư, làm gì có vẻ đẹp liêu trai mộng mị như thế
Mà chỉ là đêm đen và bóng tối
Trong một toa trống, ở tận xa về phía sau của con tầu
Gấu nghĩ, Gấu nhìn thấy bóng của một hành khách
Giơ cánh tay nhợt nhạt lên vẫy GCC/GNV
Hay là, chỉ để coi giờ của cái đồng hồ đeo ở cổ tay
Đã chết sững từ "ru mãi ngàn năm".
Paradise
In a neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the city burned in midsummer heat;
Where a lady barber who called herself Cleopatra
Wielded the scissors of fate over my head
Threatening to cut off my ears and nose;
Where a man and a woman went walking naked
In one of the dark side streets at dawn.
I must be dreaming, I told myself.
It was like meeting a couple of sphinxes.
I expected them to have wings, bodies of lions:
Him with his wildly tattooed chest;
Her with her huge, dangling breasts.
It happened so quickly, and so long ago!
You know that time just before the day breaks
When one yearns to lie down on cool sheets
In a room with shades drawn?
The hour when the beautiful suicides
Lying side by side in the morgue
Get up and walk out into the first light.
Like seagulls, but everything else quiet….
Steam rising out of the subway gratings….
Bodies glistening with sweat ...
Madness, and you might even say, paradise!
Thiên Đàng
Trong 1 khu xóm có thời được gọi bằng cái nick, Nhà Bếp của Địa Ngục
Nơi một người ăn xin, vỗ ngực xưng tên, ta chơi cây vĩ cầm Nero
Nơi thành phố cháy bỏng cái nắng giữa hè;
Nơi bà chủ tiệm làm tóc tự gọi mình là Cleopatra
Khuơ khuơ cây kéo số mệnh trên đầu Gấu
Hăm, ta sẽ thiến tai và mũi, và có thể, 1 cái gì đó nữa, của mi!
Nơi một đấng đàn ông và một cô nường tản bộ, cả hai trần như nhộng
Tại một con phố tôi tối, vào lúc rạng đông.
Mi đúng là đang mớ, Gấu bảo Gấu
Đúng là như gặp một cặp nhân sư
Gấu đã mong, họ có cánh, và có mình, sư tử
Chàng, ngực trạm trổ hoang dại
Nàng, vú cực bự đong đưa
Chuyện xẩy ra thật lẹ, và cũng lâu lắm rồi, từ thuở Diễm Xưa....
Bạn biết, thời gian đó, ngay trước rạng đông
Khi con người thèm ngả lưng xuống những chiếc khăn trải giường mát lạnh
Trong 1 căn phòng, những chiếc mành mành đã được kéo xuống
Đúng thời khắc mà những cái chết đẹp đẽ vì tự vận
Nằm song song bên nhau trong nhà xác,
Bèn thức dậy, bước ra ngoài, nhập vào tia sáng đầu tiên
Những bức rèm của những khách sạn rẻ tiền bay ra khỏi cửa sổ
Như những con hải âu, nhưng mọi thứ, mọi vật khác thì đều êm ả…
Hơi nước bốc lên từ những lưới sắt đuờng xe điện ngầm …
Những cơ thể lấp lánh mồ hôi…
Khùng điên, vậy mà bạn dám biểu, thiên đàng!
Paradise
In a neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the city burned in midsummer heat;
Where a lady barber who called herself Cleopatra
Wielded the scissors of fate over my head
Threatening to cut off my ears and nose;
Where a man and a woman went walking naked
In one of the dark side streets at dawn.
I must be dreaming, I told myself.
It was like meeting a couple of sphinxes.
I expected them to have wings, bodies of lions:
Him with his wildly tattooed chest;
Her with her huge, dangling breasts.
It happened so quickly, and so long ago!
You know that time just before the day breaks
When one yearns to lie down on cool sheets
In a room with shades drawn?
The hour when the beautiful suicides
Lying side by side in the morgue
Get up and walk out into the first light.
The curtains of cheap hotels flying out of windows
Like seagulls, but everything else quiet….
Steam rising out of the subway gratings….
Bodies glistening with sweat ...
Madness, and you might even say, paradise!
Cabbage
She was about to chop the head
In half,
But I made her reconsider
By telling her:
"Cabbage symbolizes mysterious love."
Or so said one Charles Fourier,
Who said many other strange and wonderful things,
So that people called him mad behind his back,
Whereupon I kissed the back of her neck
Ever so gently,
Whereupon she cut the cabbage in two
With a single stroke of her knife.
Charles Simic
Bắp Cải
Nàng tính bổ 1 phát
Là cái bắp cải biến thành hai
Nhưng tôi khiến nàng nghĩ lại
Khi đi 1 đường cầu hòa:
“Bắp cải tượng trưng cho tình yêu bí ẩn”
Một gã tên là Charles Fourier hình như đã phán như vậy
Hắn phán nhiều điều kỳ lạ và tuyệt vời
Bởi vậy họ gọi hắn là thằng khùng, ở sau lưng
Nhân lúc đó, Gấu bèn hôn sau cổ nàng
Thật dịu dàng
Như chưa ai từng hôn dịu dàng như thế
Nhân lúc đó, nàng đi 1 đường dao thật là ngọt
Tình của chúng tôi - cái bắp cải - như thế là chia làm đôi
Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119
The Ideal Retreat
I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At times I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.
1967, translated with
Nguyen Ngoc Bich
Anonymous
Egyptian
zoth century B.C.
Death is before me today
like health to the sick
like leaving the bedroom after sickness.
Death is before me today
like the odor of myrrh
like sitting under a cloth on a day of wind.
Death is before me today
like the odor of lotus
like sitting down on the shore of drunkenness.
Death is before me today
like the end of the rain
like a man's homecoming after the wars abroad.
Death is before me today
like the sky when it clears
like a man's wish to see home after numberless years of captivity.
1960
Guillaume Apollinaire
French
1880-1918
Under the Mirabeau Bridge the Seine
Flows and our love
Must I be reminded again
How joy came always after pain
Night comes the hour is rung
The days go I remain
Hands within hands we stand face to face
While underneath
The bridge of our arms passes
The loose wave of our gazing which is endless
Night comes the hour is rung
The days go I remain
Love slips away like this water flowing
Love slips away
How slow life is in its going
And hope is so violent a thing
Night comes the hour is rung
The days go I remain
The days pass the weeks pass and are gone
Neither time that is gone
Nor love ever returns again
Under the Mirabeau Bridge Flows the Seine
Night comes the hour is rung
The days go I remain
1956
Lament for the makers: Khóc người làm thơ
NEITHER OUT FAR NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the land.
They look at the sea all day.
As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng sâu
Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
TTT
Đám người dọc theo cát
Tất cả quay và nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào nó đi qua
Thân tầu, lóng lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể tang thương như thế nào
Một khi sự thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn ra biển
Họ không thể nhìn xa
Họ không thể nhìn sâu
Nhưng liệu có 1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn mà họ giữ?
Ui chao đọc bài thơ này, thì bèn nghĩ liền đến bài thơ của Gấu!
Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
Comments
Post a Comment