Nostalgie de la boue

 


 

May 21, 2013

Con người ta liên thông với thế giới bằng các giác quan, còn mối quan hệ với quá khứ chắc chắn là phức tạp hơn rất nhiều.

Tôi nhớ đến bộ phim “Johnny Got His Gun”, một bộ phim rất đặc biệt của lịch sử điện ảnh thế giới. Cuốn tiểu thuyết cùng tên được xuất bản năm 1939, đúng vào những ngày đầu tiên của Thế chiến thứ hai, và bối cảnh câu chuyện xảy ra vào cuối Thế chiến thứ nhất. Tác giả cuốn tiểu thuyết, Dalton Trumbo, đồng thời cũng là tác giả kịch bản, và không những thế còn làm nốt nhiệm vụ đạo diễn. Bộ phim được trình chiếu vào năm 1971, ngay lập tức được vinh danh nồng nhiệt ở festival Cannes và trở thành một trong các biểu tượng văn hóa mạnh mẽ của phong trào chống chiến tranh (hồi đó dĩ nhiên là chiến tranh Việt Nam). Xem bộ phim này chắc chắn những người từng khóc khi xem đến đoạn các chàng cao bồi mặt sẹo ngã xuống trong một vụ đọ súng hay nàng nọ biết tin chàng kia tử trận, chắc chắn phải khóc đến cả một bể nước. Ngay cả những người ít dành nước mắt cho phim ảnh (xét cho cùng là phù phiếm - “xa nhau không hề rơi nước mắt”, cần phải thế!) cũng khó tránh khỏi rơm rớm.

Bởi vì tình cảnh nhân vật chính Joe của bộ phim khủng khiếp quá: Joe là thanh niên người Mỹ tình nguyện đi chiến trận, nhưng khi chiến tranh sắp kết thúc thì bị dính miểng, mất hết toàn bộ tay chân mặt mũi, toàn bộ các giác quan mà con người ta có trên người: thính giác, thị giác, khứu giác và khả năng nói. Joe chỉ có thể cảm nhận được một chút ít qua tiếp xúc với phần da còn lành lặn ở nửa người trên. Thậm chí Joe còn không phân biệt được sáng tối, rằng mình đang ở trong đời thực hay trong giấc mơ, chỉ riêng việc đang ở trong một căn phòng bệnh viện thôi mà cũng phải chật vật lắm anh mới biết được.

Thế nhưng, điều này làm cho câu chuyện càng trở nên khủng khiếp hơn, trí óc của Joe vẫn còn nguyên vẹn, và lời kể chuyện của anh, mà người xem hiểu là một dạng tiếng nói nội tâm, khiến người ta hiểu dù bị tước hết những điều vô cùng cơ bản của cuộc sống, thì về cơ bản Joe vẫn sống, và, còn hơn thế nữa, sống với đầy đủ ý nghĩa lành mạnh của từ này.

 

Kể câu chuyện này tôi hoàn toàn không có ý định hỏi độc giả xem liệu một bộ phim như vậy có cảm động hay không, vì chắc chắn là nó rất cảm động (nhiều trường đoạn niềm cảm động đó lên đến mức không thể chịu đựng nổi: cứ thử xem phim rồi sẽ hiểu tôi muốn nói gì!), mà cái trường hợp vô cùng đặc biệt của anh lính Joe ấy dường như muốn nói với chúng ta rằng mọi việc trên đời này thật ra đều nhỏ bé thôi, và thực tình không ai biết nổi mức độ tối thiểu của mỗi chúng ta có thể đạt tới đâu.

Bác tôi đi lính hồi chiến tranh, suốt bốn năm cực khổ ở chiến trường Nam Lào, không bao giờ có một tin tức gì về nhà, ai cũng tưởng là không còn sống nữa. Thế mà khi về đến nhà (lành lặn, các giác quan đều còn hoạt động bình thường), câu chuyện duy nhất mà bác kể lại cho những đứa cháu của mình chỉ có thế này: khi được chuyển quân về vùng Vĩnh Phú trong đêm, sáng sớm mở mắt chợt nghe thấy tiếng bọn trẻ con líu lo bên ngoài, bác chợt thấy cảm giác của mình nhẹ hẳn xuống. Và như vậy không phải vì không có tiếng bom đạn, mà chỉ vì mấy năm liền nghe giọng nói nặng trịch của người miền Trung giờ đây bác bỗng bắt gặp trở lại âm điệu nhẹ hơn của người miền Bắc. Không có câu chuyện nào khác nữa về các trận đánh, bác tôi tuột thoát ra khỏi cuộc chiến bằng một cảm giác nhẹ nhàng về sự “chuyển tông” các giọng nói như vậy. Như thể ký ức về chiến tranh đã được gột rửa thông qua một tác động vô cùng nhỏ của giác quan.

Rồi cũng đến lúc bản thân tôi, khi phải đối diện với câu hỏi “Còn lại gì?” về những điều mình đã trải qua trong đời, cũng dần nhận ra cái còn lại khiêm tốn lắm lắm. Người ta bước vào đời với bao nhiêu hình dung to tát (để mượn lại nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens: “Great Expectations”: những hoài vọng to lớn) và cũng có thể làm được những điều to tát, nhưng rốt cuộc khi ngoái nhìn lại thì cái di sản cá nhân của ký ức mới nghèo nàn làm sao, tưởng chừng như xếp vừa vào một hộp giày cũ cất đâu đó trong căn phòng để đồ lặt vặt, chẳng mấy khi lôi ra xem lại. 

Cả thành phố Vienna hoa lệ mà tôi đến thăm cùng với một sự rộn ràng náo nhiệt của tâm trí giờ còn lại trong ký ức một vài hình ảnh nhòe nhoẹt, sắc nét nhất lại không phải là tòa lâu đài Schoenbrunn mênh mông, từng được lấy làm bối cảnh cho bộ phim “Marie-Antoinette” của Sofia Coppola hay quảng trường MQ của các viện bảo tàng nổi tiếng, mà là giây phút ngủ quên trên bãi cỏ xanh ven bờ sông Danube, và nụ cười của một người phụ nữ đẩy xe cho đứa con nhỏ tình cờ bắt gặp tôi ở một góc phố và niềm nở hỏi xem tôi có cần giúp đỡ gì không. Cái bằng chứng cho sự ngơ ngác trên nét mặt của tôi ấy lại là điều còn lại lâu nhất trong ký ức tôi.

Rồi ấn tượng xa xưa nhất mà tôi có về cuộc sống xung quanh: lần này một giác quan khác đã chiếm chỗ thị giác, cụ thể hơn là khứu giác. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ rõ mồn một mùi của nhà ăn tại trường mẫu giáo nơi tôi đến học trong một khoảng thời gian rất ngắn. Mỗi lần đi qua một nơi có cái mùi gần giống như vậy (chỉ có thể gần giống, vì đúng theo lý thuyết của thiên tài mùi vị Jean-Baptiste Grenouille của cuốn tiểu thuyết “Das Parfum”, mỗi mùi là duy nhất), là giống như một cái công tắc được bật thông qua bàn tay mảnh dẻ của mùi vị, lại hiện ra căn phòng ngủ trưa của những đứa trẻ con, nền đá hoa và những khuôn mặt tuy bụ bẫm theo lứa tuổi nhưng vẫn có chút gì đó thật nghèo đói tội nghiệp. Mà xét cho đến cùng, đó cũng chỉ là hỗn hợp của tinh bột, rau cải và một chút ít thịt.

Tôi dần trở nên tin tưởng rằng ký ức đọng lại kiên cường nhất trong các nếp gấp não bộ ngày càng lười biếng của chúng ta chính là ký ức về mùi vị. Có một câu chuyện cười nói rằng nếu muốn biết liệu mình đã đến ga Hưng Hòa hay chưa thì cứ việc thò tay ra khỏi cửa sổ tàu hỏa, khi rụt tay lại mà thấy không còn đồng hồ thì đúng là đã tới rồi. Còn tôi, kể cả nhắm mắt tôi cũng nhận ra mùi vị đặc trưng của Sài Gòn, dù thành phố ấy tôi mới chỉ ghé ngang qua vài lần. Một vài thành phố có mùi vị không thể trộn lẫn, hoặc là giữa các khu phố khác nhau của cùng một nơi cũng có mùi rất khác nhau: Paris chẳng hạn, quận 6 có mùi của sự náo nhiệt, mùi sang cả của quần áo đẹp và tác phẩm nghệ thuật, quận 16 lại lành lạnh và pha chút chất thải của những con chó nhà giàu, sang đến quận 13 là đã rộn rã xì dầu nước mắm và một cái mùi nhất quyết không thể quên: thịt quay.

Ký ức về con người cũng vậy thôi, sẽ đến lúc thật khó hình dung nét mặt một ai đó, nhưng một cái mùi đặc biệt sẽ giúp cho quá khứ sống dậy (cầu cho đó không phải là một mùi khó chịu!), kể cả những mùi nhân tạo như Flora, J’Adore hay Poison.

“Ai đem phân chất một mùi hương”, Xuân Diệu từng hỏi tu từ như vậy. Có lẽ thủ phạm chính là ký ức của chúng ta, trong cái nhu cầu da diết tóm bắt lấy quá khứ của nó.

14 comments:

  1. one of the most impressive pieces of you that i've ever read!

    ReplyDelete
  2. tình cảm cứ như thể chuẩn bị ra sách best-seller đến nơi í :b

    ReplyDelete
  3. à đây là bài cũ xài lại, viết cách đây chừng bốn năm :p

    ReplyDelete
  4. Giờ mình vẫn nhớ cái mùi Sài Gòn, khi lần đầu vào chơi năm 1988. Khi ở hẳn thì không còn thấy mùi đó nữa

    ReplyDelete
  5. Replies
    1. hàm tình ngưng thế tạ quân vương :p

      Delete
  6. Très beau, et sensationnel ! Je te donnerais volontiers un dix-sept sur vingt ! Il te manque un point pour les idées philosophiques (Kant a dit ceci et Kierkegaard cela... pour faire l'érudition, hihi), un point pour t'inviter à soigner encore, et toujours, ton style, tes phrases, tes mots, mais jamais au détriment de l'émotion bien sûr. Le dernier est le point de la perfection, qui n'existe pas.
    Ne veux-tu pas essayer d'écrire sur JJR, "Les rêveries" par exemple ? Je vais te citer, te traduire et on va essayer de publier ? Mais dans ce cas dernier il faut écrire au minimum cinq pages.

    ReplyDelete
    Replies
    1. à nhưng í của bác là sensuel chứ phải không ạ, sao lại sensationnel? :p

      Delete
  7. Quá hay! Đọc xong tôi tự hỏi: mùi Sài Gòn như thế nào? Trước đây, tôi chưa bao giờ tự hỏi, nhưng chắc là phải có. Riêng tôi, nhớ đến Sài Gòn, là nhớ đến cái nắng huy hoàng, những cơn mưa sao mà ấm áp (tắm mưa là cái thú số một thủa còn bé xíu).

    Viết về Sài Gòn "cổ điển", phải nói đến Bình Nguyên Lộc, của "Hồn ma cũ", "Ba con cáo" (?)... Sau BNL là có nhiều nhưng đa số là Bắc Kỳ di cư, viết về Sài Gòn nhưng vẫn phản mùi Hà Nội... đường Cổ Ngư, Ô Cầu Giấy, bãi Phúc Xá... Như MT, TTT, NĐT hay Nguyễn Quốc Trụ... Đoạn văn sau đây là của NQT, "Lần cuối Sài Gòn", đăng trên blog của anh:

    "... Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"

    Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

    (Bà Thái Chi là người phụ nữ Hà Nội chăm phần chăm, có vẻ khó tính như NQT nói. Tôi lần mò đến quán Thái Chi lần đầu lúc khoảng 16, 17 tuổi. Quán cà-phê là một căn nhà nhỏ tối om om, chẳng có bảng hiệu gì cả. Rất có vẻ Hà Nội của TTT. Bà chủ nhìn tôi cặp mắt như muốn nói: "Cậu nhãi ranh mà bầy đặt... cà phê cà pháo"...)

    ReplyDelete
    Replies
    1. đúng, BNL có truyện ngắn "Ba con cáo" thực sự xuất sắc

      đoạn này tôi viết về Mai Thảo và "Đêm giã từ Hà Nội":

      Tôi từng viết về văn chương (ngôn ngữ) Mai Thảo như thế này: "Ở Mai Thảo, cái đặc trưng lồ lộ là những rút gọn từ ngữ: sẽ không là "một niềm cay đắng" mà "một cay đắng", sẽ không là "một nỗi kinh ngạc" mà "một kinh ngạc", sẽ không là "một sự rã rời" mà "một rã rời"."

      Kể từ đó, không nhận ra gì thêm.

      Cho đến lúc tận tay cầm vào "Đêm giã từ Hà Nội", tác phẩm đầu tay của Mai Thảo (ảnh ở đây là trang đầu).

      Ấn tượng mà Mai Thảo cảm nhận về Hà Nội là ba điều: "vực thẳm", "tảng bóng tối" và "Hà Nội đổi màu". Những gì Mai Thảo, hay nói rộng hơn là lứa nhà văn hồi ấy, giã từ, bỏ lại sau lưng là như vậy.

      Sách giấy có phần thiêng của nó là bởi thế, giống như những vị quý tộc khinh bỉ thói chập cheng của ebook; sờ vào quyển sách giấy, một tiếp xúc trực tiếp cũng khiến ta nhận ra những gì không thể hình dung nếu chỉ đọc ebook.

      Tôi hiểu, những rút gọn từ ngữ của Mai Thảo là vì: Mai Thảo đã bỏ lại rất nhiều thứ sau lưng, đã giã từ, đã coi quá khứ là vực thẳm. Câu văn của Mai Thảo cứ rút ngắn lại, vì một phần đã thả xuống vực thẳm, cho trôi về Hà Nội. Ở những thiên tuyệt bút của Mai Thảo, văn chương giống như là vực thẳm (Đêm giã từ Hà Nội, Căn nhà vùng nước mặn, Tùy bút, Ta thấy hình ta những miếu đền).

      Mai Thảo viết "Đêm giã từ Hà Nội" chừng 100 ngày sau khi Hiệp định Genève được ký kết. Năm 1956, Mai Thảo coi như vượt qua được một vực thẳm để viết "Sài Gòn thủ đô văn hóa Việt Nam", mở ra một trang sử mới cho văn chương Việt Nam, cũng là mở ra lịch sử tạp chí Sáng Tạo.

      Delete
    2. Chuau từng thấy ai viết về "văn chương" Mai Thảo như bác NL cả! Veritablement sensationel! (Tôi đã từng nói nhiều về MT, nhưng chỉ nói với bạn bè, chưa bao giơ viết ra, và có lẽ không bao giờ sẽ viết! Không hiểu tại sao, có thể tôi nhìn MT chỉ thấy những nỗi buồn "vực thẳm" và tôi kính trọng nó vô cùng. Bề ngoài của văn chương MT có cái vẻ "phù phiếm", nhưng tôi có cảm tưởng anh cố tình che dấu ỡ dưới một điều gì anh tôn thờ, chưa chắc đó là Hà Nội hay một mối tình... mà có thể cả bầu trời tuổi trẻ... Trừ bạn bè của anh, người ta chỉ có thể nhìn thấy phần nào thế giới nội tâm của MT qua tâp thơ "... Miếu đền...").

      Tóm lại, văn chương về Hà Nội của những kẻ bỏ đi năm 54, phải nói đến TTT và chỉ TTT cũng đủ! TTT có hai tác phẩm "chuyện trị" Hà Nội là Bếp Lửa và Ung Thư. Nhưng chỉ có Bếp Lửa đã xuất bản (đến bốn lần trước 75), được Tam Ích xem là truyện hay nhất miền Nam thời đó, nhưng với tôi Bếp Lửa mới chỉ là một tùy bút hay roman-essay, "Ung Thư" mới là tiểu thuyết. Đề tài của Ung Thư giống hệt Bếp Lửa, nhưng bao la sâu thẳm hơn nhiều... Tiếc là Ung Thư chưa bao giờ thấy ánh sáng mặt trời với trọn vẹn hình dạng của nó.

      Có lần tôi viết đâu đó hay chỉ nói: nếu ông Thần của 1001 Đêm, cho tôi một điều ước duy nhất, đó là là điều tôi muốn thấy xẩy ra.

      Delete
    3. đã hẹn sẽ nói riêng về Ung Thư mà vẫn chưa làm được; đề tài Bếp Lửa Mr Tin văn rành lắm đấy :)




Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư