Ba Người Khác


  Tản mạn về
Ba Người Khác
 5


Bài liên quan
Ba Người Khác
Tô Hoài
Kim Thuyền Thoát Xác
Một chút gì để sống vì nó
Look on these horrors
Coetzee
Đọc Hitler của Mailer

 

 

 

 Ba Người Khác

Do chưa được đọc, nhưng qua những bài viết về nó, có vẻ như đây là một tác phẩm đang được đón nhận. Và, một tác phẩm mang tính sám hối, của Tô Hoài, một trong những nhà văn công thần của chế độ, khi nhìn lại Vụ Án cải cách ruộng đất
Gấu này sợ rằng mấy ông đọc ông, đã hiểu sai về cái độc, cái ác như là thức ăn của thiên tài.Gấu đã từng lèm bèm đôi ba lần về vị lão tiền bối này. Ông là một trong những thần tượng của Gấu thời còn là con nít, với những tác phẩm như Dế Mèn phiêu lưu ký. Vũ Ngọc Phan, khi hỏi, tại sao trong tập chuyện loài vật của Tô Hoài, lại lạc vô một anh Cu Lặc, là đã manh nha điều này: Muốn hiểu rõ thiên tài Tô Hoài, là phải lần về những tác phẩm viết về thế giới loài vật, và con người trẻ thơ của con người. Cu Lặc có gì đó tương tự một nhân vật trong Của Chuột và Người của Steinbeck.
Tuy nhiên, nếu chúng ta tin rằng, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết, và từ đó, của khổ đau, và biết rằng, Tô Hoài đã có thời kỳ sống tại Miền Nam, và cái thời tiết được trừ đi cái lạnh, cái đói, cái ác của Miền Bắc đó, đã làm cho ông ta biết rằng là, đây là thiên đường.
Cái Ác của văn Tô Hoài, là do đã từng có lần đến được Thiên Đường, và tìm đủ mọi cách chiếm đoạt nó, “Bắc Kỳ hóa” nó, coi nó như là chiến lợi phẩm, cho nó biết thế nào là cái lạnh, cái đói, cái ác của đồng bằng Bắc Bộ, của rừng thượng du Miền Bắc!
Một cách nào đó, ông là một Phạm Xuân Ẩn, ở trong văn chương, muốn biến cả nước thành… thiên đường, và tin tưởng rằng cuộc chiến thắng Miền Nam của Miền Bắc sẽ làm được điều này.
Đây là tam đoạn luận của cuộc chiến Việt Nam, theo Gấu:
-Muốn giải phóng Miền Bắc ra khỏi cái độc cái ác, cái đói muôn đời, con quỉ nơi chuồng heo, cái bản chất “ku-lắc Á châu” dã man của nó, (1), là phải chiếm lấy Miền Nam.
-Cho Miền Nam nếm mùi cái độc cái ác cái lạnh cái đói của Miền Bắc, [đây là nguyên nhân phát sinh Lò Cải Tạo?]
-Cùng cả nước tiến lên thiên đường!
(1) Tolstaya: 

*
Theo bài viết của Phạm Xuân Nguyên, khi nói về thái độ của nhà văn, đứng ngoài sự kiện, cứ thản nhiên kể tỉnh bơ, và chẳng hề đưa ra một ý kiến cá nhân nào liên quan tới nhân vật, sự kiện, đời sống, xã hội Miền Bắc, khi xẩy ra Vụ Án [Cải Cách Ruộng Đất], trong khi chính tác giả đã từng có công lớn trong việc hoàn thành nó: Cách viết này Nguyễn Khải cũng đã từng áp dụng, trong một truyện ngắn viết về Hà Nội, phía sân sau của nó, như một tác giả, Vũ Hoàng Dương,  trên tờ Gió Đông ngày nào đã từng chỉ ra, và Gấu đã trích lại, trong một bài Tạp Ghi trên tờ Văn Học, cũng ngày nào, bây giờ tình cờ đọc lại được [Văn Học số 136, tháng Tám, 1997, trong có bài Trần Dần, thủ lĩnh trong bóng tối, của Phạm Thị Hoài, Những Giọt Trầm của Lê Minh Hà]. VHD viết:
“Riêng nhà văn, dường như ông không màng đến chuyện đánh giá. Ông cứ kể tỉnh bơ, những chuyện động đến nhà nước, đến con người, đến bản thân ông… Ông tỉnh bơ như thể: tôi chỉ nói thực tế, bản thân chẳng có ý kiến gì.” 

Vũ Hoằng Dương trích dẫn Bùi Minh Quốc, “Chả trách Nguyên Ngọc có lần xếp Nguyễn Khải (cùng với Chế Lan Viên) là hai, trong “những người thông minh sắc sảo vào hàng nhất nước”!
Thảo nào, Simone Weil tởm cái gọi là thông minh của nhân loại. Có thằng Đại Ác nào ngu đần bao giờ đâu!

*

Bất giác, [lại bất giác], Gấu nhớ tới nhà thơ Nga, Joseph Brodsky. Ông vinh danh nữ sư phụ của ông, là nhà thơ Nga, Marina Tsvetaeva, khi nhận ra trong thơ của bà có tính “Calvinistic”. Ông nói, Bà là một “Calvinist”, và một cùng một nghĩa như vậy, Dostoevsky cũng là một “Calvinist”.
Và nhà thơ giải thích, Calvinist, nói một cách ngắn gọn, là một người luôn chường mặt ra, đối đầu với Ngày Phán Xét. [.. someone who constantly declares Judgment Day against himself ] (1).
Ông giải thích thêm: Đó là một con người luôn luôn tính sổ với chính mình, với luơng tâm của mình, và với lương tâm.
Rồi ông nói thêm về nữ sư phụ của ông: Theo nghĩa trên, trong nước Nga, không có một nữ thi sĩ nào khác, ngoài bà ra.
(1) Trong Chuyện trò với Brodsky, của Volkov
*

Nhưng có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.
Ngay từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người - một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam, giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương lai bên ngoài lũy tre làng.
Hình bóng cũ

Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi tiết chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết. Nghe nói Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính thức", và bằng cách nào ông sống sót... Trong hai nhà văn tiền bối kể trên, Tô Hoài mới là người thân cận với tuổi thơ của tôi, của "chúng tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ sĩ được thiền sư xén tóc "cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ xuống tóc cho một tín đồ nào đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một buổi hẹn hò. Ôi nỗi đắng cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt, mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày tháng... Làm sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một thiên lương như vậy, với những quan sát tinh vi về loài vật, về một con người như Cu Lặc, lại có thể cay nghiệt như thế về một cõi tề, nguỵ? Đành phải giải thích bằng kinh nghiệm đọc Primo Levi, một nạn nhân của Lò Thiêu, qua bài viết: "Những cuốn tiểu thuyết do dế kể".
Một chuyến đi

*
Lò Thiêu đẻ ra nhà nước Israel. 30 Tháng Tư 1975, giống dân có tên là Thuyền Nhân...
Nếu như thế, Vụ Án CCRĐ đẻ ra 30 Tháng Tư. Chỉ có cách đó mới tạo ra cuộc di dân khổng lồ đầu tiên, sau cuộc Nam Tiến của Nguyễn Hoàng và mớ bầu đoàn thê tử và thủ hạ. Biến giấc mơ Hoành Sơn Nhất Đái thành hiện thực. Lập lại cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh. Đẩy Miền Nam vào thế đối nghịch, rồi khởi động, activate, chân lý nước Việt Nam là một, thống nhất đất nước, nhưng thực sự là thôn tính Miền Nam. Kẻ Giải Phóng biến thành Kẻ Cướp, Kẻ Cứu Rỗi biến thành Quỉ, thành Bọ, là vậy.
Đây là cách D.M. Thomas đọc thế kỷ ở trong ta, hay là cuộc đời Solzhenitsyn.
Ý nghĩa trên nằm trong ẩn ngữ Ba Người Khác. Con số 3 của Kafka, trong Con Bọ. Khác, của Camus. Kẻ lạ, kẻ khác, người dưng. Không phải ta.
Không phải Tô Hoài. 

*

Tuy chưa đọc, nhưng nếu như những lời ca ngợi của PXN về cái tài văn ma quái, cách viết điềm tĩnh, nhẩn nha... khiến Gấu này liên tưởng tới cách viết Les Bienveillantes của Littell: Thật thanh thản, bình an trong niềm khiếp sợ [d'une telle sénérité dans l'effroi]!
Tay Mẽo này phải mất 15 năm làm công quả, công tác thiện nguyện, rồi mới dám ngồi xuống, viết ra Cái Ác Lạnh.
Còn Tô Hoài?
Ông mất cả đời làm công quả cho Cái Ác.

*

Bài của BBC cho biết Tô Hoài là người từng trực tiếp làm “anh đội cải cách rồi anh đội sửa sai” trong giai đoạn lịch sử ấy.
"Hơn một thập niên sau khi tác phẩm được hoàn thành, Việt Nam đã cho ấn hành tiểu thuyết của nhà văn kỳ cựu Tô Hoài, viết trực diện về chiến dịch cải cách ruộng đất thập niên 1950" [BBC].
Như vậy, ở đâu, cái vị trí của nhà văn Tô Hoài, khi viết về Cái Ác Lạnh này? Đây là niềm âu lo của một độc giả của Littell:
-Ông có thành công không, trong cái việc đi vô cuốn sách?
-Thành công chứ, nhưng bây giờ, mới căng, làm sao ra đây?

*

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Littell mời nhẩy sâu vào những đáy sâu của con người.
Một cú ngụp vô thời.
Để xét đoán chuyện gì xẩy ra ở trong tim trong hồn thằng chả này, những phạm trù như tốt và xấu, thiện và ác tỏ ra vô dụng.
Điều tra về Cái Ác. Enquête sur le Mal.
Nhập thân vào tên đao phủ. Tìm điều không thể giải thích. Không thể hiểu được. Không nắm bắt được.

 *

Nguồn tác phẩm đang gây chấn động toàn thể thế giới văn học:
Hình một thiếu nữ Nga bị Nazi tra tấn và sau đó treo cổ.

Còn với Tô Hoài, là cái gì?
Ông ta là ai khi viết Ba Người Khác?
Ông là nhà văn nhập thân đao phủ, hay là đao phủ nhập thân nhà văn?

*

 Nỗi đau Vụ Án VC I [Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc, so với Vụ Án VC II, 30 Tháng Tư 1975, tại Miền Nam], phải hơn nửa thế kỷ sau. khi trở lại làng cũ, Gấu mới cảm nhận được, khi hỏi thăm bà chị ruột, về Bông Hồng Của Mọi Bông Hồng, tức cô Hồng Con, 'thánh nữ' đầu tiên trong đời Gấu, nhà văn.
Hình như chính bà chị là người đầu tiên nhắc tới cô Hồng Con, không phải Gấu. Có thể, bà chị hiểu ra lý do qui cố hương của thằng em trai.
-Em còn nhớ Cô Hồng Con, con ông Cửu làng mình?
Nhớ, sao không nhớ !
-Hồi đó tụi nó gán ghép em với Cô Hồng Con, em còn nhớ ?
Nhớ, làm sao không nhớ !
Thế là bà chị nói luôn một mạch:
-Hồi đấu tố địa chỉ, cô bị nhốt trong căn nhà của bố mẹ. Chẳng ai dám lai vãng. Thế rồi cô bị bệnh thương hàn [?], khát nước quá, bò ra cái ao ở bên ngoài cổng nhà, tới bờ ao thì gục xuống chết.

*

Bà chị nói thêm:
-Hồi đó phong trào mà.

*

Tôi tin rằng, Tô Hoài cũng nói câu tương tự, khi ngồi xuống viết Ba Người Khác.
Hồi đó phong trào mà. Đâu có ai có thể làm khác.

*

Mr. To Hoai?
C'est moi!
Mr. Boi?
C'est moi!

Từng có người nói Nam Cao viết tiểu thuyết như tự truyện và Tô Hoài viết tự truyện như tiểu thuyết. Những hồi ký Cát bụi chân ai, Chiều chiều đã nói đến những cái nhếch nhác, bụi bặm của đời người, không trừ một ai. Lần này, Ba người khác là tiểu thuyết hóa hồi ức.
PXN
*
Que diriez-vous aujourd'hui de votre narrateur ? Quels sentiments éprouvez-vous face à lui ?
Il est difficile de dire du bien d'un aussi sale type...
Oui, mais vous avez vécu longtemps avec lui.
Je pourrais dire que c'est moi.
Jonathan Littell
Ông nói gì bi giờ về cái tay kể chuyện đó? Ông có tởm hắn ta không?
-Thật khó mà nâng bi một cái thằng dơ dáy đến như thế.
Nhưng ông nhập thân vào thằng chả khá lâu.
-Tôi có thể nói thằng chả là tôi.
*

Câu sau đây, của Camus, áp dụng cho ông nhà văn Tô Hoài, Vụ Án VC I, Vụ Án VC II, thì thật là xinh, thật là xứng, và thật là thần sầu, cứ như thể, Camus, khi viết ra câu này, trong khi đọc Dostoevsky, nhìn thấy “cả ba vụ án” hiển hiện ra trước mắt (1).
Những con đường đưa cá nhân tới tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là như nhau
Camus. Thèse sur Dos: Les mêmes chemins qui mènent l’individu au crime mènent la société à la révolution.
(1). Vụ Án thứ ba, là của Tô Hoài, nói riêng, và nhà văn VC, nói chung. NQT
*

Bảnh nhất, trong những đứa con của Tô Hoài, theo Gấu, là Quê Người. Nó nhập vào dòng chung, dòng lớn: lưu đầy ngay tại chính quê hương; dòng ‘Tuyệt Bi”: vào đời là vào với tra tấn và tử vong. Nhưng, bảnh hơn nữa, ở trong đó còn là chất Bắc Kỳ tàn ác, phát sinh từ cái "ao làng". Người đọc khó mà quên được cảnh một trai “làng người” yêu ao “làng mình”, và bị đòn hội chợ, đến phải bán xới, trở thành “vô xứ”.
Sau một tác phẩm như thế, chẳng cần viết nữa, cũng vẫn được!

Tại làm sao mà một nhà văn, với một tâm thức sáng chói như thế về phận người mà lại sa vào chốn đoạn trường, là hận thù?
Bởi vì, hận thù, với một nhà văn, chính là sự thất bại của trí tưởng tượng.
Cái sự thất bại của trí tưởng tượng này, với Tô Hoài, chính là do ông gặp được “Cách Mạng”.
Thay vì viết dưới ánh sáng của trí tuệ, của trí tưởng tượng, ông bèn viết dưới ánh sáng của Đảng, của hận thù giai cấp. Đoạn văn mở ra Ba Người Khác nằm trong dòng Cát Bụi Chân Ai, thí dụ như câu này:
-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết!

*

Một tác phẩm chết tiệt như thế làm sao làm được chuyện sám hối?
Lạ, là mấy ông đọc nó, cứ nhất định đổ diệt cho nó cái vinh dự như thế!

 

Tôi nghĩ, đối với xã hội ta, sự xuất hiện những cuốn sách như cuốn này là một cách giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội ta.
Lại Nguyên Ân
Có ông thì đổ dìệt cho trò đùa của số phận, tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy. [PXN].
Me-xừ LNA thì gọi cách viết của Tô Hoài là thuộc chủ nghĩa đồ vật!
Một dòng văn khốn nạn, biến con người thành đồ vật, mà có thể giải tỏa chấn thương của xã hội ta?

*

Chân lý nước Việt Nam là một, truớc khi VC vận dụng [lạm dụng] vào thực tế Việt Nam, được phát biểu khác, qua cách gọi thân thương Đàng Trong, Đàng Ngoài.
Đàng Trong mới thực sự là nhà của người Việt. Đàng Ngoài là cửa ngõ, là địa đầu, nơi phải chống ngoại xâm phương Bắc, phải chân cứng đá mềm với thiên nhiên khắc nghiệt. Dã tâm ăn cướp ngày càng tăng dần, khi "linh hồn, lương tri... " của một miền đất ngày càng quắt lại, vì đồng bằng Sông Hồng ngày càng cạn sữa, do con đê chống lũ lụt.
Vụ Án VC I, cải cách ruộng đất là giai đoạn đầu của cuộc Vạn Lý Nam Chinh. Ăn cướp, làm thịt xong xuôi đám địa chủ, tới Đàng Trong.
Nhìn như thế, cuộc chiến Việt Nam lại có vóc dáng một cuốn tiểu thuyết, của Conrad. Trái Tim Của Bóng Đen, tưởng là Sài Gòn, hóa ra... Hà Nội. Những anh hùng Miền Bắc với giấc mơ giải phóng, khai phá văn minh, đem lại cho lũ Ngụy vinh dự làm người, phục hồi nhân phẩm cho các em ca ve, cuối cùng khám phá ra, chính họ, chỉ là một lũ bọ, hóa thân sau cùng của giấc mộng thống nhất.

*

Không mặt mũi, không nơi cư trú.

Quyền lực của một nhà độc tài thì không mặt mũi, không nơi cư trú. Đây là một vấn đề liên can tới phương pháp và phong cách.

A dictator’s power has no face or domicile. It is a matter of methods and style.

Eduard Shevarnadze, cựu ngoại trưởng Nga.

Liệu có thể áp dụng câu trên cho Ba Người Khác, cho cách viết nó, của Tô Hoài, thay vì coi đây là thuộc chủ nghĩa đồ vật, như nhà phê bình Lại Nguyên Ân phán?

Thì vẫn thời không mặt, mà!

 

Đội trưởng Cự sau ngày cải cách trốn vào Nam theo địch, rồi bị một chiến sĩ giải phóng là con một bần cố nông ngày trước (“Tôi biết mặt thằng Cự, nó đã ở nhà tôi mà”) chém đứt cổ tại cơ quan chiêu hồi ngụy. Chuyện đó “không biết thực hư thế nào”. Cuốn truyện kết lại ở câu văn đó. Thật là Tô Hoài!

PXN

Về ba nhân vật: Tôi (Bối), Đình, Cự. "Tôi" thì không thể là người khác.

[Tọa đàm về Ba Người Khác, trên talawas].

Như thế Bối, tôi, là Tô Hoài ở ngoài đời, hoá thân vào tiểu thuyết.

"Tôi" thì không thể là người khác, nhưng lại là... người khác.

Đây là quyền năng của tiểu thuyết, của giả tưởng.

Nhân vật xưng tôi, trong Bếp Lửa của Thanh Tâm Tưyền, còn có tên là Tâm, trong tiểu thuyết, trùng tên Tâm, của tác giả, nhưng giữa "Tôi", Tâm trong BL, và Tâm ở ngoài đời, vẫn có những khoảng cách. Mặc dù tác giả cố tìm đủ mọi cách cho chúng nhập thành một, nhưng vô ích, vô phương.

Chính vì thế, tác giả tính để câu, Tôi là kẻ khác, lên đầu sách, khi đem in, lại xóa bỏ, vì nghĩ, không cần thiết, chắc vậy.

*

Đây là một trong những điều, coi như là đạo đức cơ bản, và còn là một trong những nguyên lý của tiểu thuyết.
Solzhenitsyn viết về Tầng Đầu Địa Ngục: Trước khi bước vô đây, hãy lột sạch mọi hy vọng, để lại bên ngoài.
Với tiểu thuyết: Hãy bỏ hết thực tại, ở bên ngoài.
Theo nghĩa đó, những nhân vật như Đình, như Cự, bắt buộc phải là những nhân vật giả tưởng, tuy dựa trên những nguyên mẫu có thực. Họ không thể nào mang tên thực, của những người có thực, vô trong tiểu thuyết.
Nhân vật Huỳnh Cự đó, theo như tôi được biết, có thực, ở ngoài đời, và là một hồi chánh viên.
Nếu đúng như vậy, thì nhà văn Tô Hoài đã phạm vào tội nặng nề nhất, liên quan tới đạo đức cơ bản của một tiểu thuyết gia.

*

Nabokov đã từng phán, tiểu thuyết là tiểu thuyết, đời thực là đời thực. Coi tiểu thuyết là đời thực là làm nhục cả hai.
Nhưng, nếu nhà văn cố tình mượn tiểu thuyết để làm nhục đời thực, thì sao?

*

Anh bần cố nông, do thằng địa bắt hút mủ bịnh tim la [hay bịnh lậu?] mà lây bịnh.
Huỳnh Cự, sau theo Nguỵ. Nhưng cũng không thoát khỏi sự trả thù của cách mạng. Của nhân dân.
Như thế cách mạng chẳng hơi bị thiệt thòi một điều gì.
Cách mạng vẫn là cách mạng.
Nhà văn Tô Hoài vẫn là nhà văn Tô Hoài.
Thật là Tô Hoài. 

PXN coi Vụ Án VC I là ‘tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy”, là cái “trớ trêu, trò đùa”, l’ironie, của số mệnh.
Một bà, trong tọa đàm về  Ba Người Khác [talawas] đưa ra nhận xét, sao cả ba người khác đều thuộc dâm quá thể, liệu cường điệu quá chăng?
Có người suýt soa, Vụ Án I xẩy ra chậm một tí, thì không xẩy ra vụ di cư 1954. 

Gấu nghĩ, Vụ Án VC I xẩy ra, bắt buộc phải xẩy ra, và không thể để chậm được. Nó là cái nhân, đẻ ra cái quả 30 Tháng Tư.
Y chang Lò Thiêu đẻ ra Nhà nước Israel.
Tolstaya, cho rằng, chính cái phần dã man của Á Châu, lưu cựu đời đời kiếp kiếp, ở dưới những tầng sâu hoang vắng của lịch sử, ở nơi đáy sâu của con người vùng đất này, đã được đưa lên làm thành phần nồng cốt để xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nếu như thế, thì không thể coi đây là tuồng ảo hóa, là sự đùa cợt của số mệnh.

*

Phan Thị Thanh Nhàn (nhà thơ): Trong Ba người khác có đến ba nhân vật đều dâm ô cả, như thế thì nặng quá, liều lượng như thế thì hơi quá.
talawas

Và nếu như thế, liệu cái cú báo động hoảng, Miền Nam sắp vào tay Yankee mũi lõ, khiến viên Y Sĩ Đồng Quê Bắc Kỳ đành phải hy sinh cô gái Rose cho con quỉ dâm dục nơi chuồng heo để đổi lấy cặp ngựa, có thể giải thích những hành động dâm ô của cả ba người khác chăng?

*

Rose, Hồng, Cô Hồng Con, tại sao lại có sự trùng hợp thê thảm như thế, ở đây, hả Ngài Kafka? NQT

*

Đọc những ý kiến xung quanh tiểu thuyết Ba người khác cũng thấy vui vui. Cái thói quen xác định "tính tư tưởng" của một tác phẩm văn học vẫn là đặc điểm nổi bật, một "phẩm chất" của nền văn học XHCN. Thế "tính tư tưởng" của Ba người khác là gì nhỉ?
Đa số đều tập trung vào cái tựa của cuốn sách hơn là nội dung thực sự của nó. Làm như nếu hiểu được nghĩa thật sự của 3 từ "Ba người khác" là có thể xác định được tính tư tưởng thật sự của tiểu thuyết này. Về ý nghĩa của cái tựa, bác Tô Hoài trả lời thật độc: "Vì Chuyện ba người không được in, tôi chán nên đổi văng mạng, còn cứ đem phân tích thì vẽ vời ra thôi."
Rõ ràng là nhà văn chỉ ghi lại sự thật, cái sự thật gần như không hư cấu. Còn cái tựa sách, theo tôi, cũng giống như một cái tên, phải có một cái tên cho nó. Đơn giản vậy thôi. Còn nếu suy diễn rộng hơn, chẳng hạn gốc rễ của CCRĐ và di hại của nó..., thì không cần phải là tiểu thuyết, nó là vấn đề lịch sử. Và theo tôi nó đã quá rõ ràng rồi.
Trà Đóa [trích talawas]
 

Bác Tô Hoài [trả lời] thật độc. Đúng như thế.
Nhưng cái tít của cuốn sách quả là có vấn đe, cả cái chuyện đổi văng mạng của ông nhà văn cũng có vấn đề. Tất cả những chuyện "phân tích là vẽ vời ra" cũng có vấn đề: Văn chương. 

Nên nhớ, cái gọi là vô thức bao giờ cũng mạnh hơn ý thức. Ông nhà văn chán, đổi văng mạng, vô tình bật ra đúng cái tít của cuốn sách.
"Khác" là cùng một dòng với Quê "Người".
Khủng khiếp nhất, là con số 3.
Gấu này sợ rằng, nó liên can đến định mệnh của cả một miền đất.

*

Còn nếu suy diễn rộng hơn, chẳng hạn gốc rễ của CCRĐ và di hại của nó..., thì không cần phải là tiểu thuyết, nó là vấn đề lịch sử. Và theo tôi nó đã quá rõ ràng rồi.
Còn vấn đề nào rõ ràng hơn là Lò Thiêu?
Vậy mà nhân loại vẫn cứ phải ôm dịt lấy nó.
Không dám quên.
Lịch sử không quên mà tiểu thuyết cũng không quên.
Chứng cớ? Les Bienveillantes đó.

 Ông/Bà Trà Đóa này chắc là chưa từng viết truyện ngắn, hay tiểu thuyết.
Cái tên truyện là căng nhất.
Theo tôi, Chuyện ba người là cái tít "biểu kiến" của cuốn tiểu thuyết. Theo cái kiểu suy nghĩ, chủ từ thực, và chủ từ biểu kiến ở trong văn phạm.
Vẫn theo tôi, thoạt đầu, khi Tô Hoài viết nó, cũng chỉ nghĩ, cuốn truyện của mình, chỉ có tính biểu kiến, một biểu hiện mang tính "bề ngoài", "hiện tượng", "ngoài da", của Cái Đại Ác, Lò Đấu Tố.
Nhưng do bị cấm cản, ông bực quá, thế là chân lý bật ra.
Số phận của cuốn truyện giống như của cái tít của nó.
Và có thể, giống như cuộc đời của Tô Hoài. 

Chắc độc giả Tin Văn còn nhớ, bài viết của Borges, về những tiền thân của Kafka, trong đó, ông kể câu chuyện về một anh chàng chuyên làm bạc giả, được giao công việc đếm bạc, tại Ngân Hàng Anh.
Ấy đấy, Tô Hoài chính là người được Thượng Đế giao cho công việc ghi lại Cái Đại Ác Lò Đấu Tố, là cũng theo dòng "tuồng ảo hoá đã bầy ra", như thế đó:
Ai là người xứng đáng hơn ông?

*

Cái Độc, Cái Ác thức ăn của Thiên Tài, là cũng theo nghĩa trên.

*

Bản văn thứ ba từ một nguồn dễ dự đoán hơn nhiều: những bài viết của Kierkegaard. Tinh anh đồng điệu giữa cả hai người viết là một điều ai cũng nhận ra. Điều chưa được nói tới, như tôi cho tới lúc này hiểu được, đó là sự kiện, Kierkegaard, như Kafka, viết nhiều ngụ ngôn tôn giáo, về những đề tài trưởng giả, đương đại. Lowrie, trong cuốn Kierkegaard của ông, (Oxford University, 1938), đã chuyển ngữ hai trong số đó. Một là câu chuyện một người làm bạc giả, dưới sự kiểm soát gắt gao, đếm giấy bạc trong Ngân hàng Anh; cùng một đường hướng như vậy, Thượng Đế sẽ không tin tưởng Kierkegaard, và đã giao cho ông một nhiệm vụ để hoàn thành, chính bởi vì, Người biết ông ta vốn thân quen với cái xấu.
Tiền Thân Kafka

Đúng ra, theo tôi, khi chọn được cái tít Ba Người Khác, thì Tô Hoài phải hiểu ra điều này.
Thành thử câu hỏi ông buông dao đồ tể hay chưa, vẫn còn là "vấn đề".
Faulkner viết xong Âm Thanh và Cuồng Nộ, và không làm sao chọn được cái tít cho nó.
Thế rồi, một bữa, bất thình lình, từ trong vô thức, bật ra cụm từ của Shakespeare. Thế là ông bèn vồ ngay lấy, chôm liền:

Đây là một câu chuyện được kể bởi một thằng khùng
Đầy âm thanh và cuồng nộ, và chẳng có ý nghĩa gì.

Bạn đọc Tin Văn nào, có thể mô phỏng câu trên, áp dụng vào trường hợp Ba Người Khác?

*

 Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng. Những cuốn khác viết về nông dân là nạn nhân, nhưng đây là lại là thủ phạm. Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội, cả mấy nghìn năm văn hoá (ý của Hoàng Xuân Hãn nói về tác hại của CCRĐ). Xã hội ta bây giờ trở nên thế này một phần là vì cái đó. Văn hoá bị phá vỡ bởi ba cái ông lăng nhăng, làm như đùa như chơi thế thôi, nhưng hoá ra là bi kịch kinh khủng. Có yếu tố đúng là tình huống Kafka, như trò cười, phi lý. Nói là đề tài CCRĐ cũng được, nhưng vượt ra ngoài đề tài. Không chỉ là sự tha hóa của nông thôn, mà là sự tha hóa của xã hội, tầm khái quát lớn. Đề tài cụ thể, nhưng khái quát giai đoạn, một thời bi thảm trong lịch sử của chúng ta.

Về bút pháp, văn học chúng ta còn lâu lắm mới thoát ra bút pháp sử thi. Tô Hoài đã thoát ra từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều, nhưng đó là tự truyện, đến Ba người khác mới là hư cấu. Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai, dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học.

Ở tuổi cao như thế mà anh đã cho ra một tiểu thuyết hàng đầu, xin chúc mừng anh.
Nguyên Ngọc.

*

Theo Nguyên Ngọc, với Ba Người Khác, lần đầu tiên Vụ Án VC I được viết từ phía Kẻ Tra Tấn.
Chính vì thế mà ngôn ngữ sử dụng trong Ba Kẻ Khác thật lạnh, thật ác - vì là ngôn ngữ của Kẻ Tra Tấn?
Nhưng liệu Kẻ Tra Tấn , khi tra tấn, có bị lây bịnh, theo nghĩa, cũng cảm thấy... đau đớn?
*

Cái ý nghĩ của Gấu - liệu Tô Hoài cũng cảm thấy đau, khi miễn cưỡng đóng vai đao phủ, chuyên đùn việc cho kẻ khác, cho tên sau này trở thành một tên chiêu hồi, cốt làm sao làm trọn vai trò nhà văn, người chép sử, hay là câu chuyện về Lò Đấu Tố ở Miền Bắc Việt Nam - sở dĩ có được, là do đọc W.G. Sebald, nhà văn Đức quá cố, trong cuốn di cảo của ông, “Về lịch sử tự nhiên về huỷ diệt”. Bài viết về Peter Weiss: “Sự Hối Hận Của Con Tim”. 

Ông Weiss này, gốc gác xa xưa của gia đình, vừa là Đức vừa là Do Thái, cho nên cứ nằng nặc, phải làm sao, vừa đóng vai kẻ tra tấn, vừa đóng vai kẻ bị tra tấn.
Chính vì lý do đó, ông quyết định tham dự phiên tòa xử án Lò Thiêu, the Auschwitz trial, tại Frankfurt.
Nhưng trên hết, ở trong ông, luôn luôn là một hy vọng, chẳng bao giờ tàn lụi, rằng, “mọi vết thương thì đều có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi hoàn, kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết thương”. (1)

Ý tưởng trên, theo W.G. Sebald, là từ Nietzsche.
Nietzsche tin rằng, đây là nền móng của cảm quan của chúng ta, về công lý, và, ông nói, “[nó] hệ tại ở sự liên hệ có tính khế ước, the contractual relationship, giữa kẻ cho vay và người vay, và nó cũng xa xưa, cổ lỗ, như là quan niệm tự thân, về luật pháp.”
(1) Có thể mơ hồ cảm nhận ra điều này, Nguyễn Mạnh Côn viết câu chuyện, một anh Tây mũi lõ, một y sĩ, hình như vậy, hăm he đòi, một thân một mình, đứng ra trả món nợ thực dân thuộc địa, mà cả lũ mũi lõ gây ra tại Việt Nam.

*

 Vào giữa thập niên 1960, khi, sau một thời gian dài bặt tiếng, Jean Améry xuất hiện trở lại với công chúng của phần thế giới nói tiếng Anh, với những tiểu luận về lưu vong, đề kháng, resistance, tra tấn,  diệt chủng, khi đó, đám nhà văn tân Cộng Hoà Liên Bang [Đức] vẫn còn phải bận tâm với chuyện, làm sao nuốt cho nổi cái gánh nặng, hay là, sự thâm thủng lớn lao về đạo đức. Cho đến năm 1960, đây là mặt nổi của văn chương thời kỳ hậu chiến.

 Thật chẳng dễ dàng, khi mường tượng ra, làm thế nào Améry vượt được những rào cản, khi ông quyết định nhập cuộc thảo luận, ngay ở buổi bắt đầu, như thế. Sự kiện, những kinh nghiệm của riêng ông, không còn bị coi như những đề tài cấm kỵ, điều này hẳn đã giúp ông xác định vị trí của chính mình; mặt khác, nhiệm vụ của ông, trở nên khó khăn hơn, trong hoàn cảnh khắc nghiệt, đó là, rất ít tiếng nói đích thực được cất lên, trong cuộc thảo luận, nhưng ít ra, có còn hơn không, nếu so với tình trạng hoàn toàn dửng dưng một cách lạ lùng, của thập niên 1950.

Tuy nhiên, trong nhiều đường hướng, cái thái độ hồ hởi của văn chương, coi “Lò Thiêu” như là mảnh đất riêng của nó, xét ra còn đỡ khốn nạn hơn là thái độ coi đây là một đề tài ghê tởm, không đáng bàn tới.

*

Ba Người Khác, khi xuất hiện, và những cuộc tọa đàm về nó, làm Gấu nhớ đến hoàn cảnh của Améry, khi ông nhập cuộc trở lại.

Nhưng, trên hết, vẫn là vấn đề ngôn ngữ.

Chính cái giọng văn của Tô Hoài, trong Ba Người Khác, và những lời ca ngợi nó, làm Gấu nhớ đến những trang viết của W.G. Sebald, về Jean Améry, nickname, "Ông Thánh Của Lò Thiêu", như Kertesz, nhà văn Nobel, đã từng xưng tụng.

Nói rõ hơn, liệu những lời ngợi khen dành cho "văn" Tô Hoài, có làm "vui lòng" những nạn nhân của vụ án CCRĐ?

*

Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng.

Về bút pháp, văn học chúng ta còn lâu lắm mới thoát ra bút pháp sử thi. Tô Hoài đã thoát ra từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều, nhưng đó là tự truyện, đến Ba người khác mới là hư cấu. Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai, dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học.

NN

Chỉ nội cái việc, coi Vụ Án CCRĐ, như là "tội ác" do ba thằng lăng nhăng gây ra, đây là "trò đùa" của số mệnh, coi Ba Người Khác là tuyệt tác văn học, là đã quá tởm rồi.

NQT

Không viết về nông dân [hay nạn nhân?] mà viết về ba anh đội [ba ông đao phủ?]. Trong ba cái anh lăng nhăng, có một anh là nhà văn, nhờ vậy mà chúng ta có được một đại tác phẩm.

Nếu như thế, Ba Người Khác là cùng dòng với Les Bienveillantes.

Littell không có được cái may như Tô Hoài. Nhưng, do nhập thân quá lâu vào tên đao phủ, ông cảm thấy, hắn ta là "tôi", tức nhân vật Bối, tay kể chuyện.

Nhưng tôi thì tôi, Bối thì Bối, Tô Hoài thì Tô Hoài, thật khó mà nâng bi một thằng cha khốn kiếp như thế.

Bởi vì, khác hẳn Littell, Bối là Tô Hoài, như Huỳnh Cự là Huỳnh Cự.

*

Oui, bien sûr. Disons que c'est un moi possible, si j'étais né allemand en 1913 plutôt qu'américain en 1967. C'est aussi de cette manière que je l'ai abordé. Les gens ne choisissent pas forcément... Il y a beaucoup de moi dans ce type, à côté de beaucoup de choses qui ne sont pas de moi. Lui fait du nazisme avec autant de sincérité que moi j'ai fait de l'humanitaire. C'est un peu le propos du livre. Mais ça ne signifie pas que je l'innocente.

Littell

Đúng như vậy. Thì cứ coi, đây là một cái tôi có thể có, nếu Littell này sinh ra là người Đức, vào năm 1913, thay vì là một anh Yankee mũi lõ, vào năm 1967. Đây cũng là cách mà tôi tiếp cận thằng chả, nhập vô vấn đề.... Thằng chả vướng vô Nazi ra sao thì cũng giống như tôi vướng vô nhân loại. Cũng chân thành, cũng "say sưa" như vậy. Có thể đây là chủ đề của cuốn sách. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi chạy tội cho thằng chả.

*

Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai, dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học.
Ở tuổi cao như thế mà anh đã cho ra một tiểu thuyết hàng đầu, xin chúc mừng anh.
Nguyên Ngọc.

 

Giả sử như BNK là một tác phẩm văn học hàng đầu, thì cũng không như, cách mà mấy ông nhà văn nhà phê bình ở trong nước, đọc nó.
Có hai phát giác thật đáng kể, về nó, do Nguyên Ngọc nhìn ra, nhưng nếu khen BNK như NN khen, thì "vô tình", chạy tội, "vô tội hoá", cho thằng chả Tô Hoài!
Như một trò đùa của '"ngôn ngữ", chỉ đến khi TH bực quá, chọn văng mạng một cái tên cho nó, thì ý nghĩa của cuốn sách mới lộ ra, cùng nguồn của nó.
Đây là một cuốn sách tiếp nối câu chuyện của Quê Người.
"Một cách nào đó", Quê Người tiên đoán, và mở ra Ba Người Khác.

*

Cảm quan "siêu hình" ở nơi nhà văn Tô Hoài mở ra tính hiện đại, mỉa mai, dửng dưng, cười cợt... chính là cảm quan không nhà, quê người, số phận khốn kiếp của con người.
Và, để làm bật lên cái cảm quan này, chính là cái ác của chốn không nhà.
Có thể mượn câu sau đây, của Andersch, áp dụng cho Tô Hoài:
"Tôi có thể bỏ chạy quê người chứ, tìm tới quê mình, nhưng tôi đã không làm. Ở lại, chịu đựng nó, là giải pháp tồi tệ nhất trong tất cả".
[I could have emigrated, but I did not. To go into internal emigration under a dictatorship is the worst alternative of all].
Với ông, quê mình là Thụy Sĩ.
Với Tô Hoài, và một số người khác nữa, như Văn Cao, như Nguyễn Huy Thiệp... họ không thể nào rời bỏ quê người.
[Họ không có cái may của Gấu, nhà văn].
Riêng Tô Hoài, cũng có khác: Ông bị lây bịnh.

 Cái cảnh đòn hội chợ thằng chả làng bên dám mò sang ao làng ta để mà tắm, tiên đoán cái dâm ô của ba người khác, cái đấu tố, chặt đầu địa chủ sau này.

Đúng như Tolstaya phán, chính cái ác khốn kiếp đó, sau này được Cách Mạng đề cao, đưa lên làm thành phần nồng cốt xây dụng XHCN, hoàn thành Vụ Án VC I., CCRĐ, và Vụ Án VC II, ăn cướp và phá huỷ Đàng Trong.

*

Dù sao, sự hồ hởi đón nhận Ba Người Khác, của đám nhà văn, trí thức ở trong nước - nhập nhằng coi đây là tác phẩm giải oan cho những nạn nhân Vụ Án CCRĐ - ít ra còn đỡ khốn nạn hơn là cứ vờ nó đi, như trước đây, không bao giờ dám nhắc tới, làm như không có.

 Tí vốn liếng đạo đức, của một miền đất, nhờ vội vàng vồ lấy BNK, mà có được: Tập thể nhà văn Miền Bắc XHCN chúng tôi không quên. Cả một miền đất không hề mắc bịnh mất trí nhớ!

*
W. G. Sebald cho rằng, hiệu quả lạ thường, với nó, vốn liếng đạo đức thâu hoạch được, khi tố cáo bịnh mất trí nhớ của nhân loại [vờ Lò Thiêu], được khuyến khích, cổ võ bởi văn chương chính nó, thật dễ dàng tạo một ánh sáng lầm lạc lên một con người như Améry, một người đã thực sự đau khổ vì Lò Thiêu. Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa ông, với thái độ hồ hởi khi ôm lấy Lò Thiêu của những người khác.

 Sebald viết, thực sự, rất ít tác giả, như Peter Weiss chẳng hạn, đã loay hoay tìm kiếm sự trầm trọng cần thiết của ngôn ngữ [the requisite gravity of language], khiến văn chương, khi đụng tới đề tài diệt chủng, sẽ khôngcoi đây như một việc làm có tính bổn phận [a dutiful exercise], bắt buộc phải làm.

Tất cả những kết toán văn học về Giải Pháp Chót [Lò Thiêu], được viết ra trong thập niên 60, có trong chúng, cái âm điệu tủi thân [a generalized dramatic and poetic tone], nó cản mũi kỳ đà, khiến không thể nào có được một sự hiểu biết thật gần gụi với những biến cố khủng khiếp.

 Tuy nhiên, gạt bỏ những tủi thân, những vãi linh hồn, những hề tuồng như thế thì cũng không được! Cho dù sự bất toàn cả về đạo hạnh lẫn thẩm mỹ, chúng tạo bước đầu, trong toan tính làm bật ra sự thực, qua cố gắng văn học. Những cố gắng này, cho tới nay, vẫn tiếp tục, nhưng ở trong đó, đã có những cái nhìn khác biệt thật chi ly, và thật đáng quan tâm.
*

Cứ giả dụ như miền đất đó có một lương tâm, nhà văn Tô Hoài cũng có một tí lương tâm được nó chia cho, liệu cái chết của cô gái con địa chủ như là Cô Hồng Con chẳng hạn, sẽ "tra tấn" lương tâm của miền đất đó... suốt đời?

Và, bởi vì, cũng là một tên Yankee mũi tẹt, liệu thằng Gấu này xung phong làm một con dê tế thần, hay nói như nhà văn Weiss, vừa muốn làm tên tra tấn, và kẻ bị tra tấn, bởi vì ông tin rằng, “mọi vết thương thì đều có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi hoàn, kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết thương”, và nếu như thế, kệ cha thằng Bối, thằng Cự, thằng củ xê nào (1), Gấu này liệu có thể làm được cái phần bồi hoàn, cho, chỉ một Cô Hồng Con của Gấu?

Một trong những ông tổ của Gấu, vì tham mấy nắm xôi, nắm oản, ngu ngốc làm đúng cái điều kể trên, khiến cả dòng họ bị mang họa.

(1) Chữ này của nhà văn Duyên Anh.

Ông hỏi: NQT là thằng củ xê nào?

*
"Cái họa của gia đình mày là do trong dòng họ đã có một người được thờ làm Thành Hoàng sống", Bà Trẻ có lần nói. "Theo như kể lại, vùng đất khi đó xẩy ra bệnh dịch, người chết như rạ. Sau cùng phải hỏi nguồn cơn ở cõi âm. Cô Đồng cho biết phải nhờ một người có đủ đức độ, có chức sắc, võng lọng của nhà vua ban cho, cầu xin người đó làm Thành Hoàng sống, chấp nhận lễ bái phẩm vật, rồi nhờ cái đức của người đó trấn áp, quỷ ma mới không làm nguỵ." "Chẳng biết trận dịch có lui không...", Bà Trẻ buồn rầu nói tiếp, "nhưng hình như bao nhiêu tai họa của cả một vùng đất, của bao nhiêu con người, đều dồn vào dòng họ mày, con trai đều bất đắc kỳ tử. Ông Giáo Dương, bố mày chết lúc hăm mấy tuổi. Ngày xưa đúng ra là... Em mày, thằng Sĩ chết năm hai lăm, hai sáu tuổi gì đó phải không, hình như trước Mậu Thân một năm. Nếu có may mắn sống sót như mày thì cũng sống một cách khốn khổ khốn nạn... Nhiều lần lẩn thẩn suy nghĩ, tao vẫn tự hỏi hay đây cũng là số phận chung cho cả... "
Tự Truyện

Đọc nhà văn nhớn, lão thành Tô Hoài, trả lời phỏng vấn,, nhân cuốn sách mới ra lò của ông, lớp đàn em như Gấu này mới hiểu ra một sự thực, là, có một anh Cu Lặc ở trong ông.

*

Resentment, writes Améry in full awareness of the illogicality of his attempt at defintion, "nails every one of us onto the cross of his ruined past. Absurdly, it demands that the irreversible be turned around, that the event be undone".

W.G. Sebald: Chống Bất phục phản: Về Jean Améry. [Against the irreversible: On Jean Améry].

"Nuối tiếc, ân hận", Améry viết, hiểu rất rõ việc làm kỳ cục của mình, khi cố tìm cách định nghĩa nó, "khiến con người cứ khăng khăng bám chặt lấy quãng đời tiêu ma, tàn lụi 'tuyệt vời' của nó, như một loài đỉa đói. Quái quỉ làm sao, hắn ta đòi, này, đừng nói chuyện nhất khứ bất phục phản, này, đừng nói chuyện, cái lần chạy theo em dưới mưa kia, nơi cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn, không thể nào lập lại."

 Giải thích 12 năm bặt tiếng trên chốn giang hồ, ông viết, trong lời tựa cho cuốn Jenseits von Schuld und Suhne [Beyond Guilt and Atonement, bản tiếng Anh dịch là At the Mind's Limits, Ở những giới hạn của cái đầu]:

Tôi không thể nói, trong thời gian đó, tôi câm lặng, là bởi vì tôi quên, hay bị "ép buộc" [repressed] quên, 12 năm số phận  Đức, hay số phận của chính tôi. Trong hai thập niên tôi tìm kiếm cái thời gian không thể nào để mất, nhưng thật khó nói về nó.

Nghịch lý, tìm thời gian không thể nào quên, không thể để mất, impossible to lose, đẻ ra cái tuyệt vời là, tìm thấy được thứ ngôn ngữ, nhờ nó, những kinh nghiệm làm tê liệt quyền năng bầy tỏ [articualtion] có thể được bầy tỏ [expressed]. Améry kiếm thấy nó, qua phương pháp mở rộng, the open method, của thể tiểu luận, ở đó, ông chuyên chở cả hai, những cảm xúc bị thương tổn, của một con người bị đẩy tới mép bờ của tử vong, và cái siêu, the supremacy, của cái đầu, cứ tiêu dao phơi phới, ngay cả ở cực điểm như thế.

*

Có thể mượn câu sau đây, của Andersch, áp dụng cho Tô Hoài:
"Tôi có thể bỏ chạy quê người chứ, tìm tới quê mình, nhưng tôi đã không làm. Ở lại, chịu đựng nó, là giải pháp tồi tệ nhất trong tất cả".
[I could have emigrated, but I did not. To go into internal emigration under a dictatorship is the worst alternative of all].
Nhưng lý do Tô Hoài không thể dinh tê, và sau đó, có thể di cư vào năm 1954, có thể vượt biển, vào năm 1975, như ông [Bối, trong Ba Người Khác], cho biết:

 Tôi chẳng biết đi đâu, cũng không dám "dinh tê", sợ Tây đã biết tôi là tự vệ, tôi lần mò lên Thái Nguyên, rồi sang Tuyên Quang, lên thị xã Bắc Cạn, quanh quẩn ở những vùng đông người tản cư dưới xuôi lên. Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. Vào cơ quan bấy giờ dễ, cứ đến xin việc cũng được nhận ngay. Hàng ngày, mấy chục quang gánh báo Cứu Quốc và sách nhà Sự Thật quảy xuống khu Ba, khu Tư - như những đoàn người dưới đồng bằng thồ muối lên miền ngược. Không ai biết tôi trước kia làm loong toong, làm cu li giữ cửa và đã trốn tự vệ. Chỉ biết tôi là người trong Hà Nội ra có đôi ba chữ nên anh em cho giữ sổ sách văn phòng và kho. Ở trong rừng, cơ quan chỉ có quyển sổ cái ghi các thứ trong kho, xà phòng, đường ta, quần áo khi nâu khi nhuộm thâm trên phát về.
 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ rồi Hà Nội được giải phóng, tôi trở lại thành phố.

*

Rõ ràng nhà văn chỉ ghi lại sự thực, cái sự thực gần như không hư cấu.
Nếu đúng như thế, như Huỳnh Cự, Bối phải có tên là Tô Hoài.
Ông khác phán, đây là hồi ký được tiểu thuyết hóa, là hư cấu.
Nếu đúng như thế, không thể có Huỳnh Cự.
Đưa một nhân vật có thực vô trong tiểu thuyết, cho dù nâng bi người đó, cũng bị đòn:
Ai cho phép mi nâng bi ta ?
Cái khốn nạn nữa ở đây là, tất cả những nhân vật có thực ở ngoài đời, khi được Tô Hoài đem vô trong, thì đều là Thằng Địa, Thằng Tề, Thằng Ngụy, Thằng Hồi Chánh...

*

 "Perhaps", writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained"
Kỹ thuật tạo dấu ấn khủng khiếp nhất, bí ẩn nhất, từ thời tiền sử để lại: Chúng ta đánh dấu trái tim của con người bằng lửa, làm sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, cái sướng bỏ đi.
... so vital to him, of whether he himself was on the side of the creditors or the debtors. He finds the answer to the question in the course of his own study, as it becomes increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact the same species, so that he, the potential victim, must also range himself with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices
Yankee mũi tẹt thì vưỡn muôn đời là Yankee mũi tẹt.
.. Weiss learned in exile to understand the fate he escaped...

Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía kẻ cướp, hay bị ăn cướp, nói cho cùng, cùng chủng loại, và thứ người nhìn biết ngay sinh ra để bị làm thịt như ông, cũng cùng phe ta với những tên đao phủ, hay ít ra, là đồng loã của chúng.
W.G. Sebald: Sự Hối Hận của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Weiss.

*

 W.G. Sebald nhận xét, ngay cả cái thứ văn chương của những mảnh vụn, the frequently cited ‘literature of the ruins’, của nước Đức sau chiến tranh, với cái vẻ “chỉ sự thực và sự thực mà thôi”, “thực sự quan tâm” của nó, nếu quan sát thật gần, thì cũng là một dụng cụ - nhắm du ngủ tập thể và cá thể, biến cả hai thành mất trí nhớ, tuned to individual and collective amnesia, và, có thể, bị ảnh hưởng bởi sự tự kiểm duyệt tiền ý thức, preconscious self-censorship [thì hồi đó, phong trào là nó như vậy mà!] - một phương tiện nhằm che phủ một thế giới không làm sao trình bầy bằng những từ ngữ hiểu được, thông cảm được, [thế là bèn đổ cho ba thằng lăng nhăng, trò đùa của số mệnh]. Tất cả đều ngầm đồng ý với nhau, cái gọi là thực chất của điêu tàn, cả về vật chất và đạo đức, mà cả một miền đất tìm thấy mình ở trong đó, thì đừng có miêu tả nó ra.

Chính vì thế mà Tô Hoài, khi phải miêu tả nó ra, thì bèn sử dụng cái điệu “bông phèng".
Và nếu như thế, những ca ngợi của Nguyên Ngọc, về văn phong của Ba Người Khác, những ca ngợi ở trong nước về cuốn truyện, đều cần phải coi lại.
Tôi sợ rằng, chúng đều đã được tự kiềm duyệt tiền ý thức nhằm du ngủ thêm một lần nữa, khi đụng phải Vụ Án CCRĐ, đúng như Lại Nguyên Ân trả lời phỏng vấn BBC:
Nhưng theo tôi, những vết thương này không quên được. Công chúng rộng rãi đừng nghĩ rằng qua thời gian, những sự kiện lớn để lại chấn thương sẽ bị quên hẳn, không còn ai tái hiện nó nữa. Nhất là những người muốn nhân dân sẽ quên nó, những người ấy nên nghĩ rằng mình ảo tưởng
BBC

Tuy nhiên, khi so sánh Tolstoy viết Chiến Tranh và Hòa Bình với Tô Hoài viết Ba Người Khác, tôi sợ LNA cũng lại tự kiểm duyệt tiền ý thức, nhằm du ngủ chính ông.
Bởi vì trường hợp Tô Hoài, có thể nói, là độc nhất vô nhị trong văn chương.
Có những tên sát nhân, khi đi tù, bèn viết hồi ký, và trở thành nhà văn. Luật pháp Anh hình như mới ra luật cấm những nhà xb in những thứ hồi ký như vậy. Gần đây nhất là trường hợp cuốn hồi ký của tay giết vợ, O.J. Simpson, ở Mẽo.
Tô Hoài là nhà văn rồi, mới đóng vai kép" nhà văn-ông đội" Bối, trong Ba Người Khác.
Nhất đội nhì giời. Như thế, ông vừa nhất [đội] vừa nhì [giời, nhà văn, đấng sáng tạo]
Theo tôi, Ba Người Khác làm liên tưởng tới Les Bienveillantes của Littell.

Chính vì thế, những băn khoăn, của độc giả, của chính tác giả, và luôn cả giới phê bình, về cuốn sách mới gây sôi nổi:
Làm thế nào nhập thân vào một tên Đại Ác?
Nhập vô rồi có thoát ra được không?

*

 Ai, bất cứ một ai cũng có thể viết về vụ án CCRĐ, như LNA nhận xét, khi nhắc tới Tolstoy, nhưng không một ai, có kinh nghiệm viết về nó, như đã từng sống nó, trong cả hai cương vị, nhà văn, anh đội, tức là sống nó, trong “hơn một” tai ương, hơn một thảm kịch.

Trong lời mở cho cuốn Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, W. G. Sebald viết:
Những bài viết/nói, lectures, của tôi về văn chương và về những cuộc oanh kích [không kích], trong Đệ Nhị Thế Chiến ở trong tập sách này, đã không được in đúng như được đọc vào mùa thu năm 1997.
Ý nghĩ ở đằng sau bài viết, là từ một bản tường trình của Carl Seelig nhân một chuyến đi, vào mùa hè năm 1943, cùng Robert Walser, khi đó là một bệnh nhân tại một nhà thương tâm thần, vào một ngày liền trước cái đêm thành phố Hamburg biến thành biển lửa. Những hồi nhớ của Seelig, chẳng hề nhắc nhở gì tới sự trùng hợp ngẫu nhiên trên, đã cho tôi một cái nhìn rõ ràng, về một viễn tượng, từ đó, tôi có thể nhìn lại những biến cố kinh khủng những năm tháng xưa.
Sinh tại một làng thuộc vùng Allgau Alps, vào tháng Năm, 1944, tôi gần như chẳng mắc mớ gì tới tai ương, khi lật lại trang sử Đệ Tam Reich. Nó chẳng để lại một dấu ấn gì trong những bài viết văn học của riêng tôi, như tôi đã cố gắng chứng tỏ điều này. Một đề tài mang tính biểu kiến như vậy, có thể có được, còn là vì tính ‘thơ’của chúng, vào dịp kể trên.
Bài ở trong cuốn này, khác hẳn.
Chính bài đọc, phản ứng về nó, và những thư từ trao đổi, sau đó, khiến tôi nhận ra là, cái cảm quan về sự tủi nhục mang tính quốc gia, của hàng triệu con người, vào những năm chót của cuộc chiến, đã chưa hề tìm được sự diễn tả [the unparallected national humiliation felt by millions in the last years of the war had never really found verbal expression], và, những con người trực tiếp dính vô, bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm trên, đã chẳng hề chia sẻ với một ai khác, hay truyền cho thế hệ tiếp theo.
Những ca cẩm, rằng, cho tới ngày này, chưa có ai viết ra nổi một thứ sử thi lớn lao của nước Đức, trong thời gian chiến tranh, và trong thời hậu chiến, nó liên quan tới thất bại kể trên.

*

Thế đấy, tôi tin rằng, sẽ có một người nào đó, tuy không sống thảm kịch CCRĐ, như Tô Hoài, nhưng, đọc Ba Người Khác, sẽ viết ra được những trang như của Sebald, trong Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt.
Hay, nói theo Sebald, thảm kịch, vụ án CCRĐ, nỗi nhục của cả một miền đất, chưa hề tìm ra được một diễn tả xứng với nó, và được những nạn nhân gật đầu, chấp nhận.
Sebald, khi viết Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, không hề ngờ rằng, nó như được viết ra, cho những “vấn nạn”, thí dụ, vụ án CCRĐ, hay “oanh kích vs pháo kích”.

*

 Cái ý tưởng có lẽ mình nên về một chuyến, thực sự là đã loé lên, khi tình cờ đọc, chỉ câu văn của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc:
‘Buổi chiều nắng hết ơi ơi mà rực lên như nắng những ngày sau bão’. (1)
(1) Về Làng. Truyện ngắn, Lê Minh Hà, đăng lần thứ nhất trên tạp chí Văn Học, Cali, số Tháng Sáu, năm 1997.
Ôi chao, xứ sở quái quỉ nào đây? Xứ sở quái quỉ nào mà lại có cái cảnh tượng tuyệt vời như thế này?
Nhưng sau nghĩ lại, chính cái chuyến về làng đó, Gấu đã từng thực hiện, trước khi bỏ đi vĩnh viễn.
Hai chuyến về làng, cũng có khác. Một, về để từ giã nó. Một để thăm thú, và nếu cần, xin xỏ.
Cái lần về cuối cùng đó, thực sự, là để xin xỏ ở lại.
Và Gấu đã ở lại, cho đến khi nghe bà chị ruột than, mấy miệng ăn như thế này. Thực sự, là bà lo, chứ không hề có ý đuổi thằng em. Nhưng thằng em, nhân câu nói, bèn tự nhủ, mình đi, chưa chắc đã chết, lại còn có dịp biết Hòn Ngọc Viễn Đông. Hai năm sau gặp lại chị, đâu có lâu la gì.
Đi, để bớt đi một miệng ăn.

*

Nhân nói về bà Cát Thanh Long, trên talawas, cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Kiên Trung, tức Nguyễn Mạnh Côn, là một tài liệu đặc biệt về bà địa chủ này, và vụ CCRĐ.
Gấu đọc từ hồi còn bé tí, chỉ nhớ mài mại. Đấu bà này không biết bao nhiêu lần, đều hỏng. Nhân dân cứ lắc đầu, bà này giầu. nhưng giầu tốt. Sau phải đưa cả đám bần cố cho đi ăn cơm tù một thời gian, bắt học tập cải tại đả thông tư tưởng, và như tài liệu trên talawas, Bác Hồ phải xuất chiêu, mới hạ gục được con mụ địa chủ này.
 "Perhaps", writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained"
Kỹ thuật tạo dấu ấn khủng khiếp nhất, bí ẩn nhất, từ thời tiền sử để lại: Chúng ta đánh dấu trái tim của con người bằng lửa, làm sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, cái sướng bỏ đi.

*

Notes
Mnemonic?: Thuộc về trí nhớ. Qui a rapport à la mémoire. Art mnémonique.
Figures mnémoniques. S. f. La mnémonique, l'art de faciliter les opérations de la mémoire. En grec, qui se souvient, dérivé du grec, mémoire (comparez MÉMOIRE).
Bây giờ có từ điển online rất tốt:
http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/index.html.
http://www.tudientiengviet.net.

*

Bên Ky Tô giáo có bà thánh St-Catherine de Sienne xin: "Xin cho con có trí nhớ"
Có trí nhớ để nhớ những chuyện tốt con nhận được.
Génie của thánh Ignace de Loyola, là đưa ra khái niệm: Consolation [An ủi] và Désolation [Thất vọng]
Khi Consolation thì nhớ là mình đã từng Désolation để đừng kiêu ngạo.
Khi Désolation thì nhớ là mình đã từng Consolation để đừng nản chí.
Mémoire của mình là mémoire sélective, và, vì con người là con người của trọng lực - gravité - nên nó hướng mémoire về gravité, không hướng thượng được. Định luật Newton mà.
Vì thế mà G. Steiner và S. Weil.. mới nhắc con người phải biết đến Thượng Đế để kéo mình lên.
Phải không bác Gấu?
Văn hoá Á Đông có câu chuyện hay nào về những khái niệm này vậy?

*

Tks. Take care. Gấu






Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

Raymond Chandler by Oates