Một trang Tin Văn Cũ
I
Why The Classics
Bei Dao
Zbigniew Herbert
Zagajewski
R. Carver
Milosz
Bolano Poems
Charles Simic
Brodsky
Borges
Cavafy_Ithaca
Octavio Paz
Thu 2013
NXH's Poems of the
Night
Lửa & Khoa Hữu
& Celan
TNH Poems
Haiku_Buson
Xmas 26 Dec 1999
Mark Strand
Mahmoud Darwish
W.S. Merwin
TTT_9_Years
Trang thơ Dã Viên
The Lunatic by Simic
Map by Szymborska
Serbian Poetry ed by
Simic
Baczinski by AZ
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ
của
thiên đường | Passage Eden | Sáng
tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch
thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả
sáng tác | Giới
thiệu | Góc
Sài gòn
| Góc Hà nội
| Góc
Thảo Trường
Lý
thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả
ngoại | Tác
giả & Tác phẩm | Text Scan
| Tin văn
vắn
| Thời sự | Thư
tín | Phỏng
vấn |
Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại
| Potin |
Linh tinh
|
Thống kê | Viết ngắn | Tiểu
thuyết | Lướt
Tin Văn Cũ | Kỷ
niệm | Thời
Sự Hình | Gọi
Người Đã Chết
Ghi
chú
trong ngày | Thơ
Mỗi Ngày | Chân
Dung |
Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết
EGOISM
IN HER
MEMOIRS, Lidia Chukovsky, who knew Solzhenitsyn well, tells how The Gulag Archipelago came to be.
Solzhenitsyn devoted every free moment to this work. He had no time for
conversation. After eating dinner he rushed from the table and returned
to
work. He stopped seeing friends. Friends bitterly accused him of egoism.
Solz dành trọn thời giờ cho nó, đếch có thì giờ ngồi uống cà phe với bạn quí ở Starbucks.
Ngưng gặp bạn quí luôn.
Thế là bạn quí cay đắng phán, thằng khốn đó ích kỷ quá.
FROM ANOTHER WORLD
POEMS COME
FROM another world. From what world? From the world the inner life
lives. Where
is that world? I can't say. Ideas, metaphors, and moods come from
another
world. Sometimes
they are full of lofty trust, at other times they exude scorn or irony.
They
appear at strange times, unasked, un- announced. Yet when they are
called, they
prefer not to show up.
On the streets of Paris, mimes often appear who
amuse
the crowds by imitating the gait of some serious passerby hurrying to
work,
carrying a hefty briefcase in his hand and hefty thoughts in his head.
They follow
someone like this, scrupulously imitating his way of moving, his face,
bearing,
seriousness, hurry, absorption. The minute the passerby notices that he
is
being accompanied by a moving ape parodying him, the fun ends, people
burst out
laughing, and the victim of the joke quickens his step and disappears
into a
side street; the mime then bows and collects his money.
The life of the spirit
apes the serious world of politics, his- tory, and economics in a
similar way.
It walks right behind it, step for step, sad or happy. It follows the
real
world like II crazy, redheaded guardian angel and cries or bursts into
laughter,
plays the violin or recites poetry. When reality finally notices it is
not
alone, the phantom shadow bows to the public and vanishes.
Poems come
from another world. From where? I don't know.
Từ thế giới khác
Thơ tới từ
thế giới khác. Từ thế giới nào? Từ thế giới mà cuộc sống nội sống. Thế
giới đó ở
đâu? Tôi không thể nói. Tư tưởng, ý nghĩ, ẩn dụ, và tâm trạng tới từ
thế giới
khác. Đôi khi chúng thì đầy một sự tin cậy cao ngất, những lúc khác,
chúng ứa
ra sự khinh miệt hay mỉa mai. Chúng xuất hiện vào những lúc kỳ cục,
không ai yêu
cầu, không báo trước. Tuy nhiên, khi được gọi, chúng vờ.
Trên đường phố Paris,
những anh hề thường xuất hiện để làm vui đám đông, bằng cách bắt chước
dáng điệu
nghiêm trọng của 1 khách bộ hành, vội vã tới sở làm, tay khư khư cái cà
táp nặng
nề, đầu khư khư những tư tưởng nặng nề, như cái cà tạp. Họ đi theo một
người như
vậy, bắt chước y chang cách người này đi, bộ mặt thì ra sao, hì hục,
khư khư ôm
lấy cuộc đời, với sự hối hả, cuốn hút, thái độ nghiêm trọng. Đúng vào
phút người
khách bộ hành nhận ra mình đang đi song đôi với 1 kẻ nhại lại đời mình,
thì cuộc
đùa chấm dứt
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném
những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc
Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ
hành cuộn.
Mặt trời rùng
mình sau những ống khói
Như một tên
lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng
Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về
cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu
với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu
thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến
Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y
chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con
mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ
Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo
choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi
nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội
quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ
thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi
sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc,
bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm
cứ thành phố.
Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi
No Childhood
And what was
your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
Adam Zagajewski
Tuổi thơ ư, No!
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.
Source
Used Clothing Store
A large stock
of past lives
To rummage
through
For the one
that fits you
Cleaned and
newly pressed,
Yet frayed
at the collar.
A dummy
dressed in black
Is at the
door to serve you
His eyes
won't let you go.
His mustache
looks drawn
With a tip
of a dead cigar.
Towers of
pants are tilting,
As you turn
to flee,
Dead men's
hats are rolling
On the
floor, hurrying
To escort
you out the door.
Charles Simic: New and Selected Poems
Tiệm quần áo cũ
Cả một lô một
lốc những đời cũ
Tha hồ mà chọn
Cuộc đời nào
vừa với mi
Được tẩy rửa
sạch sẽ
Là, ủi; như đồ
mới, đồ xịn
Tuy nhiên cổ áo, sờn.
Một hình nộm
bận đồ đen
Phải cửa này
hân hạnh hầu ông,
Thưa Ngài Gấu Cà Chớn?
Mắt hắn ta
dai như… đỉa!
Bộ ria mép mới
ủ rột làm sao
Với mẩu bịt
của điếu xì gà chết
Tháp tháp quần
dài nghiêng nghiêng
Đến lượt Gấu
bỏ chạy
Mũ, nón người
chết dài dài trên sàn nhà
Lẹ, lẹ lên
Tiễn ông Gấu
ra khỏi tiệm.
Used Book Store
Lovers hold
hands in never-opened novels.
The page
with a recipe for cucumber soup is missing.
A dead man
writes of his happy childhood on a farm,
Of riding in
a balloon over Lake Erie.
•
A sudden
draft shuts his book in my hand,
While a
philosopher asks how is it possible
To maintain
the theologically orthodox doctrine
Of eternal
punishment of the damned?
Let's see.
There may be sand among the pages
Of a travel
guide to Egypt or even a dead flea
That once
bit the ass of the mysterious Abigail
Who scribbled
her name teasingly with an eye pencil.
Tiệm sách cũ
Những đứa yêu
nhau nắm tay nhau trong những cuốn tiểu thuyết chưa từng hân hạnh được
mở ra
Cái trang có
bí quyết nấu món xúp dưa chuột không biết bị ai xé mẹ nó mất!
Một đấng đàn
ông viết về tuổi thơ hạnh phúc của hắn ta ở một cái trại
Về cưỡi bong
bóng bay qua hồ Lake Erie
Một cú giật
bất thình lình đóng cuốn sách của anh ta trong tay Gấu
Trong lúc một
triết gia hỏi, liệu có thể gìn giữ
Lý thuyết chính
thống giáo thần học
Về hình phạt
đời đời cho những kẻ trầm luân?
Để coi nào. Ở
chỗ này thấy có cát giữa những trang sách
Hướng dẫn du
lịch Ai Cập và ngay cả một con rận chết
Đã từng đợp
vào đít một em Abigail bí ẩn
Em này đã từng
viết tên của em
Bằng 1 cây
viết chì kẻ lông mi
Lên trái tim
GCC!
ETERNITIES
Small store,
is it only cobwebs
And shadows
you sell?
I saw my
pale reflection
In your dimmed-out
interior
Like a
gentleman burglar
Unable to
make up his mind
Between a
pearl necklace
And an
antique clock on the wall.
Raindrops
blurred the rest,
Trickling
down the glass
I pressed my
forehead against
As if to
cool down its fevers.
Vĩnh Cửu
Tiệm nhỏ, không lẽ mi
chỉ bán mạng nhện và những cái bóng?
Gấu nhìn thấy
cái bóng nhợt nhạt của mình
Phản chiếu từ
bên trong tiệm lù tà mù
Như 1 tên trộm
phong nhã
Không làm
sao quyết định
Giữa chuỗi hạt
Và cái đồng
hồ cổ xưa ở trên tường
Mưa xoá nhòa
cái còn lại
Lách tách trên
ô kính
Gấu bèn tì cái
trán của mình lên
Như để làm mát
đi cơn sốt của nó.
LATE-NIGHT INQUIRY
Have you
introduced yourself to yourself
The way a
visitor at your door would?
Have you
found a seat in your room
For everyone
of your wayward selves
To withdraw
into their own thoughts
Or stare
into space as if it were a mirror?
Do you have
a match you can light
To make
their shadows dance on the wall
Or float
dream-like on the ceiling
The way
leaves do on summer afternoons,
Before they
take their bow and the curtain drops
As the match
burns down to your fingertips?
Điều ch/tra ch/trễ trong đêm
Mi tự thổi
mi,
Cách mà bạn
quí tới trước cửa nhà mi?
Mi có kiếm
ra cái ghế ở trong phòng của mi
Một cái ghế
dành cho mọi người
Thì tất cả một
đám GCC ương ngạnh, bướng binh, “bad Gấu”, như mi
Để chúng, như
con rùa, co rúm vào trong những ý nghĩa của riêng chúng
Hay ngơ ngáo
nhìn vào… hư vô, như thể đó là một tấm gương?
Nếu có quẹt
thì hãy đốt lên
Để làm bóng chúng nhảy múa trên tường
Hay lững lờ
như mơ trên trần nhà
Như những lá
cây vào những buổi xế trưa mùa hạ
Mà này, liệu que diêm đã đốt bỏng ngón tay của mi chưa?
WITH ONE GLANCE
That mirror understood everything about
me
As I raised the razor to my face.
Oh, dear God!
What a pair of eyes it had!
The eyes that said to me:
Everything outside this moment is a lie.
*
As I looked out of the window today
At some trees in the yard,
A voice in my head whispered:
Aren't they something?
Not one leaf among them stirring
In the heat of the afternoon.
Not one bird daring to peep
And make the hand of the clock move again.
*
Or how about the time when the storm
Tore down the power lines on our street
And I lit a match and caught a glimpse
Of my face in the dark windowpane
With my mouth fallen open in surprise
At the sight of one tooth in front
Waiting like a butcher in his white apron
For a customer to walk through his door.
*
It made me think of the way a hand
About to fall asleep reaches out blindly
And suddenly closes over a fly,
And remains tightly closed,
Listening for a buzz in the room,
Then to the silence inside the fist
As if it held in it an undertaker
Taking a nap inside a new coffin.
Charles Simic: The Lunatic
Với Cú Nhìn
Cái gương biết mọi chuyện về Gấu Cà
Chớn
Khi GCC đưa lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa! Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với Gấu:
Mọi chuyện ở bên ngoài thời khắc này đều là dối trá
Đều thuộc Vua Bịp
Hà, hà!
Khi Gấu nhìn ra ngoài cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái cây ở ngoài vườn
Một giọng nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu chúng là “cái gì gì, cái chi chi, something”?
Không 1 chiếc lá trong bọn chúng động
đậy
Trong cái nóng của buổi xế trưa
Không một chú chim nào dám hé nhìn
Và làm cho cái kim đồng hồ lại nhích nhích
Hay là như thế nào, ấy là nói về trận
bão,
Khi nào thì nó quật sụm mấy đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng dáng thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên đường
Lần chạy theo BHD,
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn!
Với cái mõm há hốc, xệ xuống, ngạc nhiên
Khi nhìn thấy cái răng độc nhất còn lại
ở trước mặt
Đợi, như tên đồ tể với chiếc tạp dề
trắng
Một khách hàng bước vô tiệm
Làm GCC nghĩ đến cách mà bàn tay
Trong khi lim rim ngủ, bèn mù lòa phóng
ra
Và bất thình lình chộp được con ruồi
Và cứ để nguyên như thế,
Với con ruồi ở trong lòng bàn tay
Lắng nghe, tiếng rù rù của loài ruồi ở trong phòng
Rồi thì, tiếng câm lặng ở bên trong lòng bàn tay khum lại
Như thể tóm được, tên chủ nhà hòm, đúng
xừ lủy
Làm 1 giấc ngủ trưa
Trong chiếc hòm mới đóng.
Filthy Landscape
The season
of lurid wildflowers
Strewn on
the meadows
Drunk with
kissing
The red-hot
summer breezes.
A ditch
opens its legs
In the
half-undressed orchard
Teeming with
foulmouthed birds
And smutty
shadows.
Scandalous
view of a hilltop
In pink
clouds of debauchery.
The sun
peeking between them
Now and then
like a whoremaster.
Charles Simic: Jackstraws
Phong cảnh dơ dáy
Mùa hoa
wildflower tái mét
Nở vãi đồng
Say mèm hôn gió
nóng đỏ, hạ
Rãnh nước dạng
háng
Trong căn vườn
nửa kín nửa hở
Ăn nằm với lũ
chim sàm sỡ
Và những bóng
dâm tục tĩu
Kìa, ngọn đồi
mới dâm ô làm sao
Với những đám
mây hồng trác táng
Lúc này, lúc nọ
Như tên chủ nhà thổ.
Khắc thơ vào dòng sông
Thay vì nhớ chúng!
[Dịch nhảm!]
The Lunatic
OUR PLAYHOUSE
We played in
the shadow
Of
murderers' at work,
Kneading
soldiers out of mud,
Stepping on
them
When we were
done playing.
Girls
walking the streets
Gave us
bread to eat.
An old dog
with a limp
Kept us warm
at night
As we
huddled in doorways.
My friends,
my playmates,
We never saw
the dead,
Only the
birds scatter
After we
heard the gunshots
And ducked
our heads.
Rạp hát của chúng ta
Chúng ta chơi
trong cái bóng
Của những tên
sát nhân đang làm việc
Nhào bùn thành
bộ đội
Và dẫm lên
chúng
Khi chơi
xong
Con gái đi
ngoài phố
Cho chúng ta
bánh mì ăn
Một con chó
già đi khập khễnh
Giữ ấm chúng
ta vào ban đêm
Khi chúng ta
tất tưởi ở những lối cửa
Bạn ơi, những
bạn cùng chơi với GCC ơi
Chúng ta chưa
hề nhìn thấy những người chết,
Chỉ những chú
chim bay tán loạn
Khi chúng ta
nghe tiếng súng
Và bèn chúi đầu
xuống đất!
THE WINE
Whatever
solace you have for me,
Glass of old
red wine,
Whisper it
into my ear
With each
little sip I take,
And only in
my ear,
In this hour
made solemn
By the news
on the radio,
The dying
fires of the sunset,
And the
trees in my yard
Putting on
their black coats.
Bồ Đào Mĩ Tửu
Bất cứ khuây
khỏa nào em cho anh
Một ly bồ đào
mĩ tửu, thứ lâu năm nhất
Thì thào nó
vào trong tai anh
Với từng ngụm
từng ngụm anh nhấp nhấp
Và chỉ trong
tai anh,
Trong căn nhà
trở nên trang trọng này
Nhờ bản tin
từ chiếc la dô
Và lửa chiều
tà đang chết
Và những cây
ngoài vườn
Bèn khoác lên
những chiếc áo khoác màu đen của chúng.
That mirror
understood everything about me
As I raised
the razor to my face.
Oh, dear
God!
What a pair
of eyes it had!
The eyes
that said to me:
Everything
outside this moment is a lie.
*
As I looked
out of the window today
At some
trees in the yard,
A voice in
my head whispered:
Aren't they something?
Not one leaf
among them stirring
In the heat
of the afternoon.
Not one bird
daring to peep
And make the
hand of the clock move again.
Or how about
the time when the storm
Tore down
the power lines on our street
And I lit a
match and caught a glimpse
Of my face
in the dark windowpane
Cái gương biết
mọi chuyện về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa
lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa!
Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt
lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với
Gấu:
Mọi chuyện ở
bên ngoài thời khắc này đều là dối trá
Đều thuộc
Vua Bịp
Hà, hà!
Khi Gấu nhìn
ra ngoài cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái
cây ở ngoài vườn
Một giọng
nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu
chúng là “cái gì gì cái chi chi, something”?
Không 1 chiếc
lá trong bọn chúng động đậy
Trong cái
nóng của buổi xế trưa
Không một
chú chim nào dám hé nhìn
Và làm cho
cái kim đồng hồ lại nhích nhích
Khi nào thì nó quật sụm mấy đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng dáng thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên đường
Lần chạy theo BHD
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn!
Note: Bài thơ này, dịch sao quên khúc chót, ở trang sau
With my
mouth fallen open in surprise
At the sight
of one tooth in front
Waiting like
a butcher in his white apron
For a
customer to walk through his door.
*
It made me
think of the way a hand
About to
fall asleep reaches out blindly
And suddenly
closes over a fly,
And remains
tightly closed,
Listening
for a buzz in the room,
Then to the
silence inside the fist
As if it
held in it an undertaker
Taking a nap
inside a new coffin.
The Lunatic
STORIES
Because all
things write their own stories
No matter
how humble
The world is
a great big book
Open to a
different page,
Depending on
the hour of the day,
Where you
may read, if you so desire,
The story of
a ray of sunlight
In the
silence of the afternoon,
How it found
a long-lost button
Under some
chair in the corner,
A teeny
black one that belonged
On the back
of her black dress
She once
asked you to button,
While you
kept kissing her neck
And groped
for her breasts.
Những câu chuyện
Bởi là vì mọi
vật thì đều kể/viết những câu chuyện của riêng chúng
Dù dấu bèo,
dù hèn mọn, dù nhún nhường cỡ nào
Thế giới là
một cuốn sách lớn
Mở ra ở một
trang khác nhau
Tuỳ thuộc giờ
đọc nó trong ngày
Em có thể,
thí dụ, thích trang này
Câu chuyện về
1 tia nắng
Trong im ắng của một buổi xế trưa
Bằng cách nào
nó tìm thấy một cái nút áo bị mất từ hồi nảo hồi nào
Ở dưới một cái
ghế ở góc nhà
Một cái khuy
áo màu đen nho nhỏ, xinh xắn
Của em, đúng
là của em, của 1 cái áo dài đen
Một thứ khuy
áo để cài ở sau lưng
Mà có lần em
ra lệnh, nè, cài cho ta đi, tên ngố
Trong lúc tên
ngố hăm hở, ham hố, hôn đến rách mặt em
Và vò vò, đến
nát cả hai cái vú! (a)
Hai dòng chót, chôm thơ
Nguyễn Tất Nhiên:
1.
hôn rách mặt
mà sao còn nghi ngại?
nhớ điên đầu
sao cứ sợ chia tan?
mỗi lòng người,
một lý lẽ bất an
mỗi cuộc chết,
có một hình thức, khác
mỗi đắm đuối,
có một mầm, gian ác
mỗi đời-tình,
có một thú, chia ly!
2.
chiều, nắng
âm thầm chào biệt lũ lá me
lá me nhỏ,
như nụ cười hai đứa, nhỏ
tình cũng
khó theo thời cơm áo, khó
ta dìu nhau
đi dưới bóng nợ nần!
em bắt đầu
thấy ân hận, chưa em?
vì lỡ nói
thương anh – cái thằng quanh năm túng thiếu!
ân hận, có,
thì hãy nên, rán chịu!
hãy xem như
cảnh ngộ đã an bày
như địa cầu
không thể ngược vòng quay
như Chúa, Phật
phải gay go trước giờ lên ngôi Phật, Chúa!
tình cũng
khó theo thời cơm áo, khó
nên mới yêu,
mà, cư xử rất vợ chồng!
rất thiệt
tình khi lựa quán bình dân
khi nói thẳng:
“Anh gọi cà phê đen bởi hụt tiền uống cà phê đá!” .
3.
mỗi cuộc sống,
phải mua bằng nhục nhã
mỗi mặt trời,
phải trả giá một hoàng hôn
đêm, chẳng
còn cách khác tối tăm hơn
nên mặt mũi
ta đây, bùn cứ tạt!
môi thâm tím
bận nào tươi tắn, hát
em nhớ vờ
hoan hỉ vỗ tay khen
để anh còn
cao hứng, cười duyên
còn tin tưởng
nụ hôn mình, vẫn ngọt!
khăn-tăm-tối
hãy ngang đầu quấn nốt
quấn cho
nhau, quấn bạo, quấn cuồng điên
vòng sau
cùng sẽ gặp quỷ Sa tăng
bởi hạnh
phúc mơ hồ như, Thượng Đế!
4.
đời, vốn
không nương người thất thế
thì thôi, ô
nhục cũng là danh!
5.
mình nếu chọn
đời nhau làm dấu chấm
mỗi câu văn
đâu được chấm hai lần!
THE STRAY
One day,
chasing my tail here and there,
I stopped to
catch my breath
On some
corner in New York,
While people
hurried past me,
All
determined to get somewhere,
Save a few
adrift like lost children.
What ever
became of my youth?
I wanted to
stop a stranger and ask.
"It
went into hiding," said an old woman
who'd read
my mind.
"Swimming
with sharks," a drunk concurred,
Fixing me
with one bloody eye.
It was
summer, and then as quietly as a bird lands,
The
sidewalks were dusted with snow
And I was
shivering without a coat.
I had hopes
we'd meet again, I told myself,
Have a drink
and recall the nights
When we used
to paint this town red.
I thought
you'd be in a straitjacket by now,
You'd say to
me,
Making funny
faces at doctors and nurses.
Instead,
here you are full of fleas,
Dodging cars
and buses
To follow a
pair of good-looking legs home.
"And
you, Judas," I summoned the strength to shout,
"Will
you be coming to my funeral?"
But he was
gone already. It had gotten late in the day,
Very
late-and since there was nothing
That could
be done about it-
I thought
I'd better toddle along myself.
Thất lạc
Một bữa, săn
đuổi cái đuôi của tớ, thất/thật lạc/lạt đâu đó
Tớ bèn ngưng 1 phát để thở
Ở một góc phố
New York
Trong lúc mọi
người hối hả vượt qua tớ
Ai thì cũng
biết thật rõ, mình đi đâu
Trừ vài đấng
lêu bêu, như những đứa trẻ thất lạc
Tuổi trẻ của
Gấu Cà Chớn ơi,
Mi trở thành
cái chó gì rồi?
Gấu muốn chặn
một khách qua đường để hỏi.
“Nó trốn mi
rồi”, một bà già trả lời
Bà đọc ra cái đầu
của Gấu.
“Bơi lội với
lũ cá mập,” một bợm nhậu gật gù
Và nhìn Gấu
bằng con mắt toé máu
Mùa hè, và rồi
thì là im ắng như một con chim hạ cánh
Hè đường bửn
ơi là bửn với bùn tuyết
Gấu thì run
như con thằn lằn đứt đuôi, đếch áo khoác
Tớ hy vọng
mình sẽ gặp lại, GNV nói với GCC.
Nhậu chơi, nhớ lại những đêm hai đứa mình sơn thành phố một màu đỏ, như
cờ máu
VC!
Tớ lại nghĩ
cậu đang mặc chiếc áo straitjacket vào lúc này
GCC nói với
GNV
Làm mặt hề với
bác sĩ và y tá
Thay vì thế,
thì lại là 1 tên Gấu đầy chấy rận
Né, tránh xe
và xe buýt
Đi theo một
cặp giò ngon ơi là ngon về nhà
Nè, mi, tên
Judas, Gấu hét to bằng tất cả sức mạnh còn lại của mình
Mi có tính dự
đám tang ta không?
Nhưng hắn đã
đi mẹ mất rồi
Ngày thì
cũng muộn
Quá muộn
Và, kể từ
khi mà chẳng làm sao thay đổi được gì cái tình thế như thế
Tớ bèn quyết
định
Mình lại
lang thang, thất lạc, thật lạt một mình (1)
Hoặc ba hoa trò chuyện chán chê với đám bạn bè cho tới khi không còn kiếm ra một câu nói thật độc địa, thật cay đắng về nhau, về một cuốn sách vừa được xuất bản, một bài thơ, một truyện ngắn vừa được đăng báo, tựu chung cũng chỉ để quên đi một chốc một lát, hoặc may lắm một nửa buổi không nhớ tới cô bạn. Rồi cũng tàn câu chuyện, đám bè bạn từng đứa bỏ ra về. Huỳnh Phan Anh có thể đã đến giờ lên lớp, có thể bực mình vì thằng bạn Bắc Kỳ đổi tên cuốn truyện, Thất Lạc thành Thật Lạt, nhại cách nói của dân miền Nam. Còn Nguyễn Xuân Hoàng có lần bỏ quán Cái Chùa đến cả tuần lễ, chỉ vì cũng vẫn thằng bạn khốn nạn bầy đặt viết bài phê bình, giới thiệu cuốn sách mới ra lò của anh, Sinh Nhật, bị đổi thành Sinh Nhạt, và bài phê bình mang tên Đi Tìm Một Chiếc Mũ Đã Mất, nhại theo Proust. Bao nhiêu năm trời nhớ lại mới thấy càng thù ghét cái phần thâm căn cố đế, cái bản chất thâm độc nơi đáy sâu thân thể, bao nhiêu năm tháng, mưa gió, khí hậu, con người, vùng đất hiền hòa không sao gột rửa nổi. Ba mươi năm sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn bè, đứa còn đứa mất, chẳng đứa nào được may mắn với cõi sống, cõi viết. Nguyễn Đình Toàn ở Việt Nam, nghe nói mắt cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không được may mắn. Còn Nguyễn Xuân Hoàng bây giờ lại ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo gì hay không...
V/v Sinh Nhạt
Chào Mừng
Sinh Nhạt Bác!
Đi tìm một
cái nón cối đã mất
Hình: Uncle
Ho, stand discarded.
Ông Hồ... liệng cống [discarded], thay
vì... lộng kiếng!
Note: GCC trốn
thoát quê hương, tới Bangkok đúng Thứ Bảy, 19/5/1990. Khi làm hồ sơ
UNHCR, GCC
bèn tăng lên, thay vì lui lại, thành 21, tức mấy ngày được ông cha
người Pháp
cho tá túc trong nhà thờ St Francis, tới Thứ Hai, đưa tới office ODP,
xin coi hồ
sơ xin đi Mẽo của gia đình GCC. Thấy đúng, ông bèn nghe theo lời vị
luật sư
UNHCR đưa vợ chồng Gấu tới đồn CS Bangkok, và sau đó, ở tù hai, hay ba
tháng, vì
tội xâm nhập Thái Lan bất hợp pháp. Ra tù, có xe Cao Uỷ đưa vô Trại Tị
Nạn. Người
dân Sài Gòn nào mà chẳng nhớ những đợt hoả tiễn chào mừng SN Bác! GCC
đổi ngày
tới Thái Lan, là cũng nhắm tránh làm bực mình những người đã chết vì
VC, vào những
dịp như thế.
Khốn nạn hơn nữa, mấy anh Tây dùng từ "nique" đầy xỏ lá.
Từ "nique" ra "niquer": Posséder sexuellement [Petit Robert]: Dịch nôm na, là, làm thịt!
*
Gấu đã tính
khui ra những vụ xỏ lá của mấy anh Tây này, nhưng lu bu quên béng đi,
nay, nhân
vụ CAND lôi ra, bèn mượn gió bẻ măng.
Như một đóng
góp của khúc ruột ngàn dặm!
Of memory,
the unhappy man's home.
How to guess
time of night by listening to one's own heartbeat
Why we can't
see the end of our nose.
On the
obscurity of words and clarity of things.
Why
songbirds shit while they sing.
The truth
about sneezing in church.
A few tips
on how to make bad wine taste good.
What tunes
to whistle while walking past a graveyard at night.
What to say
to a mirror at four in the morning.
Plus a few
thoughts regarding the little dolls she made that all looked like me.
How she
stuck them with pins and hung them in a tree.
Charles
Simic
Về hồi nhớ,
cái nhà của 1 thằng đàn ông bất hạnh.
Làm sao biết
mấy giờ đêm, khi nghe tiếng đập của tim mình.
Tại làm sao
chúng ta không thể nhìn thấy cái chỏm mũi của mình.
Về sự tối
tăm của từ ngữ và sự sáng sủa của sự vật.
Tại làm sao
mấy con chim lại hót khi ị.
Sự thực về
những cú hắt hơi trong nhà thờ.
Vài cái mánh
về làm thế nào cho rượu vang dở thành thứ xịn.
Những điệu
nhạc nào bạn huýt sáo khi đi ngang nghĩa địa vào ban đêm.
Bạn nói với
cái gương điều gì khi ngó cái bộ mặt của bạn ở trong đó, vào lúc 4 giờ
sáng.
Thêm vài ý
nghĩ nho nhỏ về những con búp bế mà em làm ra, tất cả đều giống tớ.
Bằng cách
nào em đính chúng, và treo lên 1 cái cây.
I enter the
waiting room in a station.
Not a breath
of air.
I have a
book in my pocket,
someone's
poems, traces of inspiration.
At the
entrance, on benches, two tramps and a drunkard
(or two
drunkards and a tramp).
At the other
end, an elderly couple, very elegant, sit
staring
somewhere above them, toward Italy and the sky.
We have
always been divided. Mankind, nations,
waiting
rooms.
I stop for a
moment,
uncertain
which suffering I should
join.
Finally, I
take a seat in between
and start
reading. I am alone but not lonely.
A wanderer
who doesn't wander.
The
revelation
flickers and
dies. Mountains of breath, close
valleys. The
dividing goes on.
Kẻ Đi Dạo
Không tí không khí
Tôi có cuốn sách bỏ trong túi
Những bài thơ của ai đó, những dấu vết của yên sĩ phi lý thuần
Ở lối vô, trên những ghế dài, hai đấng vất vưởng và một ông say rượu
(hay hai đấng say rượu và 1 ông vất vưởng)
Ở đầu kia, một ông bà già, rất thanh lịch, ngồi
Nhìn đâu đó trên đầu họ, về phía Ý Đại Lợi, và bầu trời.
Chúng ta luôn bị chia cắt. Nhân loại, quốc gia,
Phòng đợi.
Tôi dừng lại một lúc
Không biết thứ đau khổ nào tôi sẽ gia nhập
Sau cùng, tôi kiếm 1 chỗ ở giữa
Và bắt đầu đọc. Tôi một mình, nhưng không cô đơn
Một kẻ đi dạo không đi dạo.
Mặc khải loé lên 1 phát, rồi tắt ngấm
Núi núi, non non hơi thở,
Những thung lũng gần
Phân chia, lìa, ngăn, cách
Tiếp tục.
JUST CHILDREN
For Ewunia
It was just
children playing in the sand
(accompanied
by the narcotic scent
of blooming
lindens, don't forget),
just
children, but after all
the devil,
and the minor gods,
and even
forgotten politicians
who'd broken
all their promises,
were also
there and watched them
with
unending rapture.
Who wouldn't
want to be a child
-for the
last time!
Chỉ là những đứa trẻ
Gửi Ewunia
Chỉ là những
đứa trẻ chơi đùa trong cát
(kèm với mùi
hoa đoan, đừng quên),
chỉ những đứa
trẻ, nhưng nói cho cùng,
Quỉ sứ, những
vị thần nhỏ,
Và ngay cả những
chính trị gia chẳng ai còn nhớ
Những kẻ đã
phản bội những hứa hẹn của họ
Thì cũng có ở
đó
Và theo dõi
con nít chơi đùa
Với sự sung
sướng vô ngần
Ai mà chẳng
mê
Làm 1 đứa
con nít
Lần cuối cùng
trong đời?
Adam Zagajewski: Without End
ALEKSANDAR RISTOVIC
[1933-1994]
Born in Cacak, Ristovic studied Serbian language and literature and taught school for many years at the elementary and high-school level in his hometown. His first book of poems was published in 1959. Since then there have been over twenty, as well as a novel, a dream book, and numerous essays. In 1989 Charioteer Press brought out a book of his poems, Some Other Wine and Light, and in 1999 a large selection of his poetry, Devil's Lunch, was published by Faber in England.
Out in the
Open
While
crossing a field,
someone who
in that instant
is
preoccupied with thoughts of suicide,
is forced by
nature's call
to delay the
act,
and so,
finds himself enjoying
some blades
of grass
from a
squatting position,
as if seeing
them for the first time
from that
close,
while his
cheeks redden,
and he
struggles to pull a sheet of paper
out of his
pocket
with its
already composed
farewell
note.
Thênh thang trời rộng
Khi đi qua một
cánh đồng
Một người nào
đó, vào lúc đó
Đang thèm tự
tử
Như nghe tiếng
gọi của thiên nhiên
Và bèn ngưng
1 phát
Để vui với đời
Thưởng thức những
ngọn cỏ
Như thể lần đầu
tiên nhìn thấy chúng
Gần gụi đến
như thế
Má anh ta bỗng
đỏ ửng
Và anh bèn cố
lôi tờ giấy ở trong túi ra
Trong tờ giấy
Có lời từ giã
đời
Dead Leaves
Danton is
waiting to die
but the day
won't break.
His vest is
full of lice
and he has
rain in his boots.
On his face
there are already signs
of his
exceptional destiny.
He watches
me from a great distance
walk under
the trees
and gather
dead leaves
with a long
stick ending in a spike.
Lá chết
Danton đợi
chết
Nhưng ngày đéo
chịu dứt
Áo khoác của
anh thì đầy rận
Giầy thì đầy
nước mưa
Trên mặt đã
hiện ra những dấu hiệu của số phận đặc biệt của anh ta rồi
Từ 1 khoảng
thật xa anh theo dõi tôi
Đi dạo dưới tàng
cây
Lượm lá chết
Bằng cái gậy
dài, đầu gậy là 1 mũi đinh nhọn
Death
sentences ( Ivan V. Lalíc)
Death Sentences
I was born
too late and I am much too old,
My dear Hamlet,
To be your
pimply Ophelia,
To let my
hair like flattened wheat
Spread over the dark waters
And upset
the floating water lilies
With my floating eyes,
To glide
fishlike between fishes,
Sink to the
bottom like a dead seashell,
Burrow in sand next to shipwrecks oflove,
I, the
amphora, entangled in seaweeds.
1'd rather
you take off my dress,
Let it fall
at my feet like aspen leaves
The wind shakes without permission
As if there's
nothing to it.
1'd rather
have that death sentence:
Eternity of
your arms around my neck.
Án Tử
Ta sinh ra quá trễ, và ta lại
quá già
Ðể làm nàng Ophelia đầy mụn
trứng cá của mi,
Tên hoàng tử thân thương vừa
Hâm lại vừa Liệt của ta ơi!
Ðể tóc
ta như lúa mì
Trải dài trên mặt nước tối
Và làm bực mình những bông hoa kèn
Với cặp mắt trôi lềnh bềnh của ta
Ðể lướt như cá giữa đám cá
Chìm xuống đáy biển như cái vỏ
Của một con sò chết
Lặn lội trong cát kế bên những
mảnh vỡ của chiếc thuyền tình
Ta, chiếc bình hai quai, bị
quấn quýt giữa mớ rong biển
Ta thà để cho mi lột quần áo
của ta ra
Và chúng rớt xuống chân ta như những chiếc lá dương
Và gió, vô lễ, chẳng thèm xin phép ta
Nghịch ngợm với chúng
Như thể chẳng có chi là quan trọng
Thiên thu, vĩnh viễn
Vòng tay của mi vòng quanh cổ ta.
Nhưng, nếu không vì dung
nhan tàn tạ, chắc gì Thầy nhận ra em?
Chiều ngu ngơ phố thị
Gửi T.L
Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ
trong giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm
thiết.
Trong câu
thơ chắc có chút hạnh phúc
Cho nên tình
yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như
thể tìm chim
Chim bay biển
Bắc anh tìm biển Đông.
Chiều ngu
ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa
đám người xa lạ
Với nụ cười
thật ngày xưa
Khi em từ
giã.
Kiếp trước
tôi có nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp
này ông đòi kiếp khác?
Tôi đã nói
ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi
ông hãy quên tôi đi
Quên đi,
quên đi....
Em ở đâu, ở
đâu
Thèm một
chút mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu, ở
đâu
Thèm nụ hôn
sầu
Lời biếng
nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
CONON IN EXILE
Author's Note
Conon is an
imaginary Greek philosopher who visited me twice in my dreams, and with
whom I
occasionally identify myself; he is one of my masks,
Melissa is another; I want
my total poetic work to add up as a kind of tapestry of people, some
real, some
imaginary. Conon is real.
I
Three women
have slept with my books,
Penelope
among admirers of the ballads,
Let down her
hair over my exercises
But was
hardly aware of me; an author
of tunes
which made men like performing dogs;
She did not
die but left me for a singer in a wig.
II
Later
Ariadne read of The Universe,
Made a
journey under the islands from her own
Green home,
husband, house with olive trees.
She lay with
my words and let me breathe
Upon her
face; later fell like a gull from the
Great ledge
in Scio. Relations touched her body
Warm and
rosy from the oil like a scented loaf,
Not human
any more-but not divine as they had hoped.
III
You who pass
the islands will perhaps remember
The lovely
Ion, harmless, patient and in love.
Our quarrels
disturbed the swallows in the eaves,
The wild
bees could not work in the vine;
Shaken and
ill, one of true love's experiments,
It was she
who lay in the stone bath dry-eyed,
Having the
impression that her body had become
A huge tear
about to drop from the eye of the world.
We never
learned that marriage is a kind of architecture,
The nursery
virtues were missing, all of them,
So nobody
could tell us why we suffered.
IV
It would be
untrue to say that The Art of Marriage
And the
others: Of Peace in the Self and Of Love
Brought me
no women; I remember bodies, arms, faces,
But I have
forgotten their names.
V
Finally I am
here. Conon in exile on Andros
Like a
spider in a bottle writing the immortal
Of Love and Death, through the bodies of
those
Who slept
with my words but did not know me.
An old man
with a skinful of wine
Living from
pillow to poke under a vine.
At night the
sea roars under the cliffs.
The past
harms no one who lies close to the Gods.
Even in
these notes upon myself I see
I have put
down women's names like some
Philosophical
proposition. At last I understand
They were
only forms for my own ideas,
With names
and mouths and different voices.
In them I
lay with myself, my style of life,
Knowing only
coitus with the shadows,
By our blue
Aegean which forever
Washes and
pardons and brings us home.
1943/1942
BITTER LEMONS
In an island
of bitter lemons
Where the
moon's cool fevers burn
From the
dark globes of the fruit,
And the dry
grass underfoot
Tortures
memory and revises
Habits half
a lifetime dead
Better leave
the rest unsaid,
Beauty,
darkness, vehemence
Let the old
sea-nurses keep
Their
memorials of sleep
And the
Greek sea's curly head
Keep its
calms like tears unshed
Keep its calms like tears unshed.
LAWRENCE DURRELL
Note: Cuốn
sách & bài thơ trong đó, mua & dịch, những ngày mới tới Xứ Lạnh
[đừng hỏi
tại sao Durrell, thuổng “xì tai” bạn Cà, đừng hỏi tại sao chân anh run]
mới vô
nghề bán bảo hiểm nhân thọ, có tí tiền còm, không phải tiền trợ cấp xã
hội.
Nhờ 1 năm đi làm, sau đó, khi khám phá bịnh đầy mình, nhà nước Canada
bèn cho
ăn chế độ bịnh, bảnh hơn trợ cấp xã hội. Thế là bèn bye bye tờ VH/NMG
ra ở
riêng, làm trang TV, hoành dương Cái Ác Bắc Kít.
Cái bà nhân viên nhà nước còn gật gù, ta biết, mi qua xứ ta không phải
để ăn vạ
nhà nước ta.
Vào cỡ tuổi của mi, ăn vạ cũng chẳng ai nói gì!
Ui chao lại nhớ cái tay Cà Na Điên già, trưởng phái đoàn Canada, ở Trại
Tị Nạn,
khi nhận Gấu. Chương trình nhận người tị nạn của Canada có tên là Nhân
Lực, Man
Power. Nước Canada cần cu li, đếch cần nhà văn. Nhưng nghe mày nói đi
tì VC vì
viết văn, ta bèn phá thông lệ!
Hà, hà!
Bản dịch bài thơ trên, nhớ là có mấy câu thần sầu, kiếm không ra, cái gì gì "giữ những giọt lệ đá xanh, trong tim, trong hồn, đếch cho chẩy ra ngoài, cho lũ ngu nhìn thấy".
Chắc là thuổng ý TTT, lệ không rơi ngoài tim mình, lệ là những viên đá xanh, tim rũ rượi…Bài thơ trên, cũng có trong Collected Poems, mua 20, April 95!
Bi giờ mới đọc được/được đọc!
Coi lại, cuốn Bitter Lemons mua xon.
Note: Câu
thơ thứ nhì làm nhớ thơ của Cô Bạn của GCC.
Chỉ 1 câu, đủ
là thi sĩ, đúng ý của Borges:
Hồn Đông Phương thất lạc, buồn Tây Phương
Quách Thoại có mấy câu, GCC đọc từ hồi còn trẻ, nhớ hoài, và hình như, với GCC, ông như thế, đủ là 1 thi sĩ:
Thơ tình đem đọc lại
Ôi ngày xưa ngày xưa
Phút ban đầu cuồng dại
Đâu biết gì gió mưa
The Lunatic
SOME LATE-SUMMER EVENINC
When the
wind off the lake
Stirs the
trees' memories
And their
dark leaves swell
Against the
fading daylight
With an
outpouring of tenderness-
Or could it
be anguish?
Making us
all fall silent
Around the
picnic table,
Unsure now
whether to linger
Over our
drinks or head home.
Một Buổi Chiều Cuối Hè
Khi gió hồ
Thổi hồi ức của
cây
Và những cái
lá âm u của chúng
Bay phấp phới,
Căng phồng lên
Như muốn chống
lại
Ánh sáng ban
ngày nhạt nhòa dần
Bằng một nỗi
dịu dàng tràn trề -
Hay, đau nhức khắc khoải?
Bọn mình
bèn trở nên câm nín
Chung quanh bàn dã ngoại
Không làm sao
quyết định
Chơi thêm
vài lon bia
Hay chuồn về
nhà?
Số dzách. Phải
order. Sách mới về: Nhà văn Ba Lan lầu bầu về chuyện dziết dzăng. Nhân
tiện cầm luôn Người Nữu Ước, số 11.5.2015, trong có bài
Trận đánh bảo vệ Cột Chống Trời,
The Battle
to save Africa's Elephants
Elephant
Watch
As
poachers
grow bolder, Andrea Turkalo records the behavior of a vanishing species.
By
Peter
Canby
After Midnight
Hugo Williams
It was an
old book about crime detection,
with
pictures of murders
and the
places where they were committed,
including
street plans
showing you
how to get there.
You were
supposed to solve the murders
then fill in
the answers
in boxes. It
was like looking for
the partner
to a rhyme
and not
being able to find one.
As I
struggled with my deductions
I kept
losing my place
in the
narrative, or being tricked
into
following up false clues
and obvious red
herrings.
Here was
someone charged
with
breaking the news of a murder
to the
victim's family,
who turned
out to be the murderer himself.
I suppose I
should have guessed.
I wondered
where I was
in the story
of my own death
and whether
I should hold myself
responsible.
Could such a thing be prevented?
Or had it
already happened?
It was after
midnight
when I flung
the book away from me
and went to
open the front door
for my
ritual look at the nighthawks
standing
outside the Old Queen's Head.
Rain was
lighting the street for violence
and I was
that shadowy figure
lurking in a
doorway
being looked
back at suspiciously
from the
other side of the street.
Đài Liên Lạc VTD/thoại Quốc Tế, 5 Phan Đình Phùng Saigon. GCC đứng chống nạnh
Sau Nửa Đêm
Đó là 1 cuốn
sách trinh thám cũ
Với hình ảnh
những cú giết người
Nơi chốn xẩy
ra
Có cả bản đồ
phố xá
Để bạn mò tới
“Job” của bạn
là phá án
Rồi điền vô
những ô trống
Những câu trả
lời
Giống như tìm
“pạc tơ ne”
Cùng khiêu vũ
Nhưng không
thể kiếm ra được một đấng.
Trong khi Gấu
loay hoay điều cha điều bố
Thì thường là
quên béng chỗ của mình trong dòng kể,
Hoặc bị lừa/lùa
vô những dấu vết dởm,
Những cú rõ ràng
là hỏa mù
Đây là một kẻ
mà được giao trách nhiệm
Loan tin sốt
rẻo đã phá được vụ án
Tới cho gia đình
nạn nhân
Tên khốn hóa
ra là tên sát nhân, đích thị hắn.
Thông minh,
uyên bác… đúng ra là
GCC phải đoán ra được cái trò con nít như thế chứ, nhỉ?
GCC tự hỏi mình
thì ở đâu
Trong câu
chuyện về cái chết của chính GCC
Hay là Gấu phải
coi như có trách nhiệm về cái chết của Gấu?
Liệu 1 cú làm
thịt chính thằng cha Gấu Cà Chớn, như thế, có thể ngăn ngừa?
Hay là nó đã
xẩy ra rồi?
Đã quá nửa đêm
Khi Gấu quăng
cha cuốn sách
Và đi ra mở
cửa chính
Ném cái nhìn
nghi lễ
Tới những tên
đi chơi đêm
Đứng bên ngoài
“Cái Đầu Cựu Nữ Hoàng”
Mưa, hung bạo, chiếu sáng
con phố
Và Gấu là cái
hình tượng lù tà mù
Rình mò lối ra
Cửa bị khóa
Từ phía bên
ngoài đường.
SINBAD THE SAILOR
On dark
winter nights in the country,
The poor and
the old keep
A single
light lit in their homes,
Weak and not
easy to see,
Like someone
who had rowed his boat
Beyond the
sight ofland,
And had
lowered his oars
To rest and
light a cigarette
With the sea
quiet around him-
Or would
they be dark fields
Made quiet
by the falling snow?
Sinbad tên thuỷ thủ
Vào những đêm
mùa đông lạnh và tối, ở nhà quê
Người nghèo,
người già thường chỉ đốt
Một ngọn đèn
trong nhà
Ánh lửa mới
yếu ớt làm sao
Không dễ nhìn
thấy
Đâu có khác
gì một người nào đó
Một mình với
con thuyền
Cố chèo, quá
cả cái nhìn mảnh đất liền phía trước
Và, bèn hạ mái
chèo
Để nghỉ và
châm 1 điếu thuốc
Với biển cả
quanh mình –
Hay là, không
phải biển
Mà chỉ là những
cánh đồng tối thui
Được tuyết
phủ, làm trở thành im ắng?
THE MISSING HOURS
Even time
took a rest
On such
summer afternoons
Sunning
itself on a lawn
Like an
unknown woman
Lying
half-naked
Wearing dark
glasses,
Long into
the evening,
Which never
seemed to come.
Only a
shadow snuck
A peek now
and then
From a
church or a tree
And drew
back in misery.
Những giờ hụt hẫng
Ngay cả thời
gian thì cũng làm 1 cú ngả lưng
Vào những xế
trưa mùa hạ như thế này
Tự tắm nắng,
chính xừ lủy
Trên một bãi
cỏ
Như một nường
không quen
Nằm khoả thân,
ui chao, chỉ có một nửa
Đeo cặp kính
tối thui
Dài mãi tận
chiều
Hình như chẳng bao giờ
thèm tới.
Chỉ cái bóng
dâm, len lén
Đâm, chỗ này
chỗ kia,
Mỗi chỗ 1 phát
Lúc này, lúc
nọ
Từ ngôi nhà
thờ
Hay một cái
cây
Rồi thối
lui, dáng điệu ôi chao,
Thê thảm, tệ.
TODAY'S MENU
All we got,
mister,
Is an empty
bowl and a spoon
For you to
slurp
Great
mouthfuls of nothing,
And make it
sound like
A thick,
dark soup you're eating,
Steaming hot
Out of the
empty bowl.
Thực Đơn Bữa Nay
Tất cả những
gì chúng ta có,
Là một cái bát
rỗng và một cái thìa
Dành cho Ngài,
Để có được những
cú đợp lớn lao
Của… giả đỏ,
Hư vô,
Chẳng có gì
[Bắc Kít gọi
là ăn bánh vẽ]
Và cứ làm như
là đang ăn thực
Một tô cháo
gà Ngã Sáu Nguyễn Tri Phương
Cháo cá, cháo
bầu dục… Chợ Cũ
Hơi nóng của
cháo tỏa ra làm mù mắt
Từ một cái bát
rỗng không
Mang từ Hà Lội
vô
Trong ba lô
anh Sài.
DEAD TELEPHONE
Something or
someone I can't name
Made me sit
down to this game
I'm still
playing many years later
Without ever
learning its rules or finding out
Who's
winning or losing,
Even as I
strain my wits studying
The shadow I
cast on the wall
Like a man
waiting for a phone call
All night by
a dead telephone
Telling
himself it might still ring.
The silence
around me so deep
I hear a
pack of cards being shuffled,
But when I
look back startled,
There's only
a moth on a window screen,
Its mind
like mine too wired to sleep.
Điện thoại chết
Một điều gì,
hay một người nào
Tôi không thể
nêu tên
Bắt tôi ngồi
vô trò chơi này
Tôi vưỡn chơi
nhiều năm sau đó
Không học luật
chơi
Không hiểu
ra được ai thắng ai bại
Ngay cả khi
tôi rèn luyện trí thông minh
Nghiên cứu cái
bóng của mình
Ở trên tường
Như 1 người đợi
chờ cú phôn
Suốt đêm
Bên cái điện
thoại chết
Tự nhủ mình,
thể nào nó cũng reo!
Sự im lặng
quanh tôi quá đặc
Tôi nghe tiếng
quân bài xào
Và khi tôi
kinh ngạc ngoái cổ nhìn
Thì chỉ thấy
1 con bướm đêm trên kính cửa sổ
Cái đầu của
nó thì cũng như của tôi
Rối tơi bời,
Đếch làm sao
ngủ được.
THREE COWS
These must
be the cows who prayed
to be born
again
and graze
side by side
on this
pretty meadow.
And did so
all summer long,
lifting
their heads only
to look with
their sad eyes
at some poor
devil like you,
who has
stopped by their fence,
wearied by
some thought or other,
and has now
roused himself
discovering
he has company.
Ba con bò
Hẳn là những
con bò này đã từng cầu khẩn
Được tái
sinh
Và đứng bên
nhau gặm cỏ
Trên cánh đồng
xinh đẹp này
Và lui cui,
cặm cụi gặm cỏ, hoài
Suốt mùa hè
dài
Chỉ nhấc cái
đầu lên
Để nhìn bằng
những con mắt buồn ơi là buồn
Một tên cà
chớn, quỉ tha ma bắt, là mi, Gấu Cà Chớn
Đứng kế bên
hàng giậu
Ưu tư cái
này cái nọ cái chó gì đó
Và chợt giựt
mình
Ngộ ra mình
có bạn!
IN THIS PRISON OF OURS
Where the
turnkey is so discreet,
No one ever
sees him
Making the
rounds,
It takes a
brave soul
To tap on
the wall of his cell
When the
lights are out,
Hoping to be
overheard,
If not among
the angels in heaven,
Then among
the damned in hell.
Trong nhà tù này của chúng ta
Một khi mà
tên giữ chìa khoá quá thận trọng
Chẳng ai
nhìn thấy hắn ta
Làm những
tua tuần tra,
Phải là 1
linh hồn can đảm
Mới dám gõ
tường xà lim của hắn ta
Khi đèn tắt
Hy vọng nghe
lén
Nếu không,
giữa những thiên thần ở thiên đàng
Thì là, giữa
những kẻ trầm luân nơi địa ngục
AUTUMN EVENING
Poor
goldfish
Some kid
threw in
A rain
puddle.
No, worse than that!
Swimming
In a dead
man's
Pickle jar.
Yeah, poor fish.
Chiều Thu
Tội con cá
vàng
Một tên nhóc
Ném vũng bùn vô
Tệ hại hơn thế nhiều!
Tung tăng
trong bình nước giầm
Của người chết
Ui dà dà
Tội nghiệp
chú cá vàng
Dine in
style tonight
With your
misery, Adele.
Put on your
silver wig
And that
black dress
With plenty
of cleavage,
And
haughtily offer it a seat
At the head
of the table,
Leaving the
intimacies
That are
sure to follow
This feast
of empty plates
To your
neighbor's imagination.
Charles Simic: The Paris Review, Summer 2014
Bữa tiệc
Ăn tối, đúng
điệu, tối nay
Với sự khốn
cùng của em, Adele.
Hãy đội mớ
tóc giả bạc
Mặc cái áo
dài đen
Thiếu vải,
khoe hàng
Và thật kiêu
căng,
Ban cho nó
chỗ ngồi
Ở đầu bàn.
Bỏ mặc những
riêng tư
Thật dễ dàng
theo dõi
Bữa tiệc với
những cái dĩa không
Cho sự tưởng
tượng của lối xóm.
Note: Bản trong The Lunatic, câu chót:
To your friend's imagination
Softly
Lay the
knife and fork by your plate.
Here, where
it's always wartime,
It's prudent
to break bread unobserved,
Take small
sips of wine or beer
Sneaking
glances at your companions.
June
evening, how your birds worry me.
I can hear
them rejoicing in the trees
Oblivious of
the troubles that lie ahead.
The fly on
the table is more cautious
And so are
my bare feet under the table.
Hundreds of
bloody flags fleeing at sunset
Across the
darkening plains.
Some general
leading another army into defeat,
While you
pour honey over the walnuts,
And I wait
my turn to lick the spoon.
Charles Simic: New and selected Poems
Nhè nhẹ
Để con dao
và cái nĩa kế bên cái dĩa của bạn
Ở đây, nơi
luôn luôn là thời chiến
Nên thận trọng
bẻ mẩu bánh mì, đừng để ai nhìn thấy
Uống những
ngụm nho nhỏ, rượu chát, hay là bia
Lén đưa mắt
nhìn bạn quí cùng ngồi
Buổi chiều
30 Tháng Tư,
Như thế nào
mấy con chim của Cao Bồi làm Gấu tôi bừng bực
Chúng vui mừng
ở trên cây
Rõ ràng là đếch
thèm để ý đến những troubles của lũ Ngụy ở phía bên dưới
Con ruồi
trên mặt bàn cũng thật là thận trọng
Và cũng thế,
là đôi bàn chân của Gấu ở dưới mặt bàn
Qua những cánh đồng thẫm tối
Vài ông tướng dẫn một binh đội khác vào thất trận
Trong lúc bạn quí tưới mật ong lên cái bánh bông lan
Và Gấu thì đợi đến lượt mình liếm cái muỗng!
The Paris Review Spring 2015
Hilary Mantel on the art of fiction: “I suppose if I have a maxim, it is that there isn’t any necessary conflict between good history and good drama.” Lydia Davis on the art of fiction: “ I find what happens in reality very interesting and I don’t find a great need to make up things, but I do like retelling stories that are told to me.” Elena Ferrante on the art of fiction: “ The media simply can't discuss an artwork unless it can point to some protagonist behind it. And yet there is no work of literature that is not the fruit of tradition, of many skills, of a sort of collective intelligence.”
Three Poems
Charles Simic
January
Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.
[Note: Bài thơ này, trên báo giấy, có hai
khúc, như trên.
Trên báo net, ba:
January
Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.]
Tháng Giêng
Vân tay con
nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi
trường nhỏ
Một đế quốc,
Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ,
chính nó
Bằng sự độc ác
của những nhà tù của nó
[Ui chao, đọc bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới]
A LIFE OF VICE BEGINS IN THE CRADLE
Grandpa
loved crawling
Under the
skirts of his mother's friends
As they sat
on the porch
On warm
summer afternoons
Sipping
sweet tea and chatting
About
neighbors and relatives,
Ignoring the
toddler running
His small
hands up their legs.
Ông nội mê xục xạo
Bên dưới váy mấy bà bạn của mẹ
Khi họ ngồi buôn chuyện
Ở bên dưới vòm cổng
Vào những chiều hè
Về lối xóm và bà con họ hàng
Lim dim chiêu ngụm chè tươi
Vờ ngón tay thằng bé lăn tăn, lăn tăn
Giữa những sợi lông chân
Tới tận háng!
MYSTERY THEATER
Bald man
smoking in bed,
Naked
lightbulb over his head,
The shadow
of his cigar
Next to him
on the wall,
Its long ash
about to fall
Into a
pitch-dark fishbowl.
Đầu trọc nằm
hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn
trộc lốc trên đầu hắn ta
Cái bóng điếu
xì gà
Kế hắn ta,
trên tường
Hăm he rớt
Xuống cái chậu cá, đen ơi là đen.
It will be
when the trumpet sounds, as Saint John the
theologian
writes.
It was in
1757, according to Swedenborg.
It was in
Israel (when the she-wolf nailed the flesh of Christ
to the
cross) but not only then.
It happens
with every heartbeat.
There is no
moment that can't be the pit of Hell.
There is no
moment that can't be the water of Paradise.
There is no
moment that isn't a loaded gun.
At any
second you could be Cain or the Buddha, the mask or
the face.
At any
second Helen of Troy could reveal her love for you.
At any
second the rooster could have crowed three times.
At every
second the water clock lets fall the final drop.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
Tận Thế
Đó là vào năm 1757
[xém thì viết lộn thành 1975, hà hà!],
theo như Swedenborg.
Đó là ở Israel, (khi nữ sói đóng đinh Chúa Ky Tô lên cây thập tự), nhưng không chỉ khi đó.
Nó xẩy ra với mọi cú tim đập
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không có thể gọi là “hố Địa Ngục”
Chẳng có khoảnh khắc mà không thể gọi là “nước Thiên Đàng”
Chẳng có khoảnh khắc nào mà không thể là “súng đã nạp đạn”
Bất cứ giây khắc nào bạn cũng có thể là Cain hay Đức Phật, cái mặt nạ hay là bộ mặt.
Bất cứ giây khắc nào Người Đẹp thành Troy cũng có thể bật mí Nàng yêu bạn.
Bất cứ giây khắc nào thì con gà trống cũng có thể gáy ba phát.
Bất cứ giây khắc nào thì cũng có thể, giọt nước cuối cùng của cái đồng hồ nước, rớt xuống.
Do you still remember what
the house was like?
The house-a pocket in a snowstorm's overcoat,
houses, low and bulging like Egyptian vowels.
Sheltered by green tongues of trees-
the most faithful was the linden, it shed
dry tears each fall.
Outmoded dresses dangled in the attic
like hanged men. Old letters flamed.
The old piano dozing in the parlor,
a hippo with black and yellow teeth.
On the wall a cross from a failed uprising
hung crookedly, and a photo
of a sad girl-a failed life.
The air smelled like vermouth,
bitter and sweet at once.
Houses, houses, where are you,
under what ocean, in what memory,
beneath the roof of what existence?
While the wind was opening windows, a deep blue
past sneaked into the rooms
and stifled the muslin curtains' breathing.
The fire was death's intended
and brought her bouquets of pale sparks.
Adam Zagajewski
Bạn vưỡn nhớ nhà như thế
nào chứ?
Nhà - một cái túi trong cái áo choàng là trận bão tuyết,
Những nhà, thấp, lồi ra, như những nguyên âm trong tiếng Ai Cập
Ðược che chở bởi những tàng lá xanh - trung thủy nhất là linden,
Mỗi thu thả xuống những giọt lệ khô.
Những chiếc áo dài cổ lỗ đong đưa trong căn gác xép
Như những tên treo cổ.
Những lá thư cũ cháy bừng bừng thành ngọn lửa.
Cây dương cầm ngủ gà gật nơi phòng khách,
Con hà mã với những chiếc răng trắng và vàng.
Trên trường vặn vẹo một cây thập tự, từ cuộc nổi dậy thất bại,
Một bức hình của 1 cô gái buồn - một cuộc đời thất bại.
Không khí có mùi vermouth,
Vừa đắng lại vừa ngọt.
Nhà, nhà, lũ mi ở đâu?
Dưới biển trời nào, trong hồi ức nào?
Dưới mái đời nào?
Trong khi gió
mở toang những cửa sổ,
Một màu xanh sẫm tràn qua, chui vô những căn phòng
Bóp nghẹt hơi thở của những bức màn mỏng.
Lửa là hậu ý của thần chết
Với bó hoa lửa của nó.
The Lunatic by Simic
Charles Simic
More could be said
of a dead fly
in the window
of a small shed,
and of an iron typewriter
that hasn't
lifted a key in years
both in delight
and dark despair.
Hãy để chúng ta cẩn thận
Nhiều điều có thể được nói,
về một con ruồi chết
ở cửa sổ
của một cái chuồng,
Và về một cái máy đánh chữ bằng sắt,
đã bao năm không nhắc 1 cái phím,
hoặc sướng điên lên,
hoặc âm u chán chường.
ONCE DECEMBER COMES
There's
another kind of sky,
Another kind
of light
Over the
wintry fields,
Some other
kind of darkness
Following in
its footsteps,
Eager to
seek our company
In these
frostbitten little homes,
Standing
bravely
With no dog
in sight.
Có lần Tháng Chạp tới
Có một bầu
trời khác
Một thứ ánh
sáng khác
Trên những đồng
gió
Một thứ bóng
tối khác nào đó
Theo bước
chân của nó
Hăm hở kiếm
đồng bạn, là lũ chúng ta
Trong những
căn nhà nhỏ sương giá gặm
Can đảm đứng
Không thấy một con chó .
THE LIGHT
Our thoughts
like it quiet
In this
no-bird dawn,
Like the way
the early light
Takes the
world as it finds it
And makes no
comment
About the
apples the wind
Has blown
off a tree,
Or the horse
broken loose
From a
fenced field grazing
Quietly
among the tombstones
In a small
family graveyard.
Ánh sáng
Ý nghĩ của
chúng ta thích nó yên tịnh
Trong buổi rạng
đông không chim chóc này
Thích cách ánh
sáng sớm
Tóm lấy thế
giới khi nó kiếm thấy nó
Và đếch thèm
đi 1 đường còm nào
Và những
trái táo trận gió
Quạt khỏi
cây
Hay con ngựa
xổng chuồng
Từ cánh giậu
đồng cỏ
Lặng lẽ giữa
bia mộ
Một nghĩa địa
gia đình
WITH ONE GLANCE
That mirror
understood everything about me
As I raised
the razor to my face.
Oh, dear
God!
What a pair
of eyes it had!
The eyes
that said to me:
Everything
outside this moment is a lie.
*
As I looked
out of the window today
At some
trees in the yard,
A voice in
my head whispered:
Aren't they something?
Not one leaf
among them stirring
In the heat
of the afternoon.
Not one bird
daring to peep
And make the
hand of the clock move again.
Or how about
the time when the storm
Tore down
the power lines on our street
And I lit a
match and caught a glimpse
Of my face
in the dark windowpane
Cái gương biết
mọi chuyện về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa
lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa!
Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt
lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với
Gấu:
Mọi chuyện ở
bên ngoài thời khắc này đều là dối trá
Đều thuộc
Vua Bịp
Hà, hà!
Khi Gấu nhìn
ra ngoài cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái
cây ở ngoài vườn
Một giọng
nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu
chúng là “cái gì gì cái chi chi, something”?
Không 1 chiếc
lá trong bọn chúng động đậy
Trong cái
nóng của buổi xế trưa
Không một
chú chim nào dám hé nhìn
Và làm cho
cái kim đồng hồ lại nhích nhích
Hay là như
thế nào, ấy là nói về trận bão,
Khi nào thì
nó quật sụm mấy đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt
1 que quẹt
Và chộp được
cái nhìn khuôn mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái
lần nhìn bóng dáng thiểu não của Gấu
Trên cái
kính xe hơi bên đường
Lần chạy
theo BHD
Ở bên ngoài
Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng
Hòa, Xề Gòn!
Little candy in death's
candy shop,
I gave your sugar a lick
When no one was looking,
Took you for a ride on my tongue
To all the secret places,
Trying to appear above
suspicion
As I went about inspecting the confectionary,
Greeting the owner with a nod
With you safely tucked away
And melting to nothing in my mouth.
Charles Simic
Ngọt ngào nào hơn Em?
Cục kẹo nhỏ trong tiệm kẹo
của Thần Chết
Lừa lúc không ai nhìn
Gấu liếm Em 1 phát
Đưa Em đi 1 đường dong chơi,
Tới mọi nơi bí mật
Trên cái lưỡi của Gấu
Cố tỉnh bơ, trên mọi sự
nghi ngờ
Gấu làm cú kiểm tra cửa hàng mứt kẹo
Chào chủ tiệm bằng cú gật đầu
Trong khi Em đi 1 đường vờ
Tan thành hư vô
Trong miệng Gấu Cà Chớn.
The Tragic Sense of Life
Because few here recall
the old wars,
The burning of Atlanta and Dresden,
The great-uncle who lies in Arlington,
Or that Vietnam vet on crutches
Who tries to bum a dime or a cigarette.
The lake is still in the
early-morning light.
The road winds; I slow down to let
A small, furry animal cross in a hurry.
The few remaining wisps of fog
Are like smoke rising out of cannons.
In one little town flags
fly over dark houses.
Outside a church made of gray stone,
The statue of the Virgin blesses the day.
Her son is inside afraid to light a candle,
Saying, Forgive one another, clothe
the naked.
Niobe and her children may
live here.
As for me, I don't know where I am-
And here I'm already leaving in a hurry
Down a stretch of road with little to see,
Dark woods everywhere dosing in on me.
Charles Simic
Ý nghĩa bi thương về cuộc đời
Bởi là vì chỉ còn 1 dúm người ở
đây
còn nhớ những cuộc chiến cũ
Atlanta trong lửa, Trại Cây Xồi thành tro tàn
Hay trận lửa tiêu hủy Dresden
Ông cố nội nằm ở nghĩa trang Arlington
Hay tay cựu chiến binh cuộc chiến Mít, chống nạng,
Cố hỏi xin 1 đồng bạc hay một điếu thuốc lá
Con hồ, trong ánh sáng mới tinh
của
buổi sáng sớm
Con lộ quanh co; Gấu đi chậm lại
Tránh 1 con vật nhỏ, xù xì vội băng qua đường
Dúm sương mù còn sót lại,
Như khói dâng lên từ những hẻm núi
Trong thành phố nhỏ, cờ bay trên
những
căn nhà tối.
Bên ngoài một nhà thờ đá xám
Tượng thánh Virgin ban phúc cho ngày.
Đứa con trai của bà ở bên trong, sợ không dám đốt ngọn đèn cầy
Phán, Hãy tha thứ cho nhau, hãy mặc quần áo cho những kẻ trần
truồng.
Niobe
và
những đứa trẻ của bà chắc là sống ở đây
Còn Gấu ư, Gấu đếch biết mình ở đâu –
Và bây giờ, Gấu đây nè, vội vã rời bỏ nơi chốn này
Xuống con lộ nối dài, chẳng có gì để mà ngó ngó
Rừng, đen thui, đâu đâu cũng là rừng đen thui
Vây quanh, bó chặt thằng cha Gấu Cà Chớn!
The Lunatic by Simic
PEEP SHOW
Behold! A
snowball in hell
Next to a
burning lake.
One of the
devil's little imps
Is about to
throw hard
At the back
of some naked,
Newly damned
woman
Still
wearing her bridal veil.
Coi kìa!
Trái banh tuyết ở địa ngục
Kế bên con hồ
cháy
Một tên quỉ
nhỏ
Tính ném
trái banh thật mạnh
Vào lưng trần
Một cô nàng vừa
trầm luân
Vưỡn choàng khăn
cô dâu.
Passing Through
An
unidentified,
inconspicuous
someone,
smaller than
a flea
snuck over
my pillow last night,
unbothered
by me,
in a big
rush, I bet,
to get to
his church
and thank
his saints.
London Review of Books 9 May 2013
Quá Giang
Một tên nào
đó
Làm sao biết
là ai
Lịch sự, kín
đáo
Nhỏ hơn con
bọ chét
Tối qua ghé
ngang cái gối của tôi
Không làm tôi
bực mình.
Phận dấu bèo,
Và hình như đang
rất vội, hẳn thế,
Tới nhà thờ
Cám ơn những
vì thánh của hắn
Ui chao đọc
bài thơ này, thì lại nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày Mậu
Thân, cực
kỳ thê thảm, và hình như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi
bên giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta dậy lấy sữa cho nó, mà không
làm sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân mi, đừng làm phiền ta
quá như thế.
Giấc mơ thì
có thật, mơ đúng cái cảnh trên đây.
Thảm thế!
DARK NIGHT
Because life
eternal is boring,
Angels play
pinochle in heaven,
Devils play
poker in hell.
You can hear
the cards smack the table
In the dead
of the night.
God playing
a game of solitaire,
Satan
playing one as well,
Except he
cusses and cheats.
ĐÊM ĐEN
Bởi là vì đời
thì lúc nào cũng, thiên thu cũng, chán ngấy người lên được
Thế là thiên
thần bèn chơi bài pinochle ở thiên đàng
Quỉ sứ chơi
poker ở địa ngục
Bạn có thể
nghe tiếng mấy con bài rớt lách nhách lên mặt bàn
Trong đêm đen
tận cùng đêm đen,
Chúa chơi solitaire,
mình Chúa
VC cũng chơi,
ở BBP, như bất cứ một ai
Nhưng vừa chơi, vừa chửi tục, vừa bịp.
[Chúng nghĩ ra cú đầu độc
tù VC ở Phú Lợi,
Học tập cải tạo 10 ngày...
Vào những lúc này]
Hà, hà!
Đọc lại, mấy
dòng chót, thì Gấu bỗng nhớ tới bài viết của Charles Simic, vừa loáng
thoáng đọc,
trong Cuộc sống của những Hình Ảnh,
The Life of Images, song song với tập thơ “Tên Khùng”, The Lunatic,
của ông.
Cái tít bài viết thật hợp với mấy dòng phịa ra ở
trên:
Ngợi Ca Sỉ Vả, In Praise of Invective.
Bài viết mở ra bằng 1 câu,
cũng
quá thú vị:
Ở cuối thế kỷ
sát nhân, hãy trù ẻo…. lũ VC!
[At the end
of murderous century, let’s curse the enemies of the individual]
…. How are
we to defend ourselves against these monsters dividing the members of
society
into useful and useless? For them, the ideal citizen is a voluntary
slave! America,
or any other place on earth, must be a school of virtue where even the
political meaning of a sunset in a poem will be carefully examined for
unauthorized views!
I knew a
thirteen-year-old who wrote a letter telling off President Johnson
about the conduct
of the Vietnam War. It was some letter. Our president was an idiot and
a
murderer who deserved to be napalmed himself, and worse. One evening as
the boy
and his mother and sister, who told me the story, were sitting around
the
kitchen table slurping their soup, the doors and the windows leading to
the
fire escape opened at the same time and men with drawn guns surrounded
the
table. We are the FBI, they announced, and they wanted to know who was
Anthony
Palermo? The two women pointed at the boy with thick glasses and
crossed eyes.
Well, it took a while to convince them that he was the one who wrote
the
letter. They were expecting a full-grown Commie assassin with long hair
and an
arsenal of weapons and bombs by his side.
"What
do you want from me, blood?" I heard an old woman shout once in a
welfare
office. She kept cussing them for another five minutes, not because she
had any
expectation that the wrongs done to her would be righted, but simply in
order
to make herself feel good and clean for one brief moment.
Charles Simic: In Praise of Invective
Tôi biết 1
thằng bé 13 tuổi viết thư sỉ vả tổng thống Mẽo Johnson về cách hành xử
trong Cuộc
Chiến Mít. Mi thật đáng đem nướng bằng bom napan, hay tệ hơn thế nữa,
bởi là vì
mi vừa ngu ngốc vừa sát nhân.
Một buổi chiều, đứa bé đang ngồi với mẹ và chị thì FBI đạp cửa xông vô
nhà, hỏi, đứa nào là Anthony Palermo. Họ chỉ thằng
bé mắt lé,
kính cận dày cộm…
“Tụi mi muốn chi, lũ khốn!”
Tôi đã từng
nghe một bà già sỉ vả như thế, tại 1 văn phòng trợ cấp xã hội. Bà già
tiếp tục
sỉ vả thêm vài phút nữa, không hẳn là để đòi hỏi họ phải điều chỉnh gì
đó, ở
trong hồ sơ trợ cấp của bà, nhưng chắc là để cảm thấy mình dễ chịu hơn,
trong 1
thoáng chốc nào đó.
BIRDS IN WINTER
These wars
of ours with their daily horrors
Of which few
ever think or care about,
While others
go off quietly to fight them,
Returning to
their loved ones in coffins.
The early
darkness making it difficult
To chase
away such thoughts
Or distract
oneself with a book,
Find again
that passage of Thoreau
Where he
speaks of the grand old poem
Called
winter coming around each year
Without any
connivance of ours, or perhaps
The one
where he pleads to heaven
To let us
have birds on days like these
With rich,
colorful plumage to recall
The ease and
splendor of summer days
Among the
frozen trees and bushes in the yard.
Chim Mùa Đông
Những cuộc
chiến của chúng ta với máu me, những điều ghê rợn của nó
Ít người
thèm nghĩ, hay để ý đến chúng
Trong khi những
người khác lặng lẽ lên đường
Và trở về với
những người thân yêu trong những cỗ quan tài
Cái bóng tối
đến sớm sủa, làm thật khó xua đuổi
Những ý nghĩ
như thế
Hay giải trí
mình bằng 1 cuốn sách
Lại tìm thấy
đoạn về Thoreau
Khi ông ta
nói về một bài thơ lớn cổ
Gọi mùa
đông, cứ mỗi năm, đến hẹn lại lên
Đếch cần bất
cứ 1 sự đồng lõa nào của chúng ta
Hay có lẽ,
Sự đồng lõa
khi ông ta cầu xin thiên đàng.
Với mớ lông mầu sắc xum xuê làm nhớ
Những ngày hè dễ dãi, huy hoàng, thần sầu, tuyệt cú mèo
Giữa cây bụi chết cóng ở ngoài vườn.
JULIA HARTWIG 1921-
Expectation of an
imminent calamity. Many people have lived through such a moment, but
they
haven't left poems about it. Yet those moments are an integral part of
history,
of many cities and countries.
Ngửi thấy mùi thảm họa.
Nhiều người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên để
lại
1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của
nhiều
thành phố và xứ sở.
Boys
kicking a ball on a vast square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger to its lips
Translated from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things
Ở bên trên chúng ta
Trẻ con
chơi đá banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời tận thế thì đỏ
mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi
đêm xuống trùm lên tất
cả’
Tại sao cái sự hăm dọa bất thần
như thế
Như thể có 1 người nào đó ao
ước biến tất cả thành
bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn,
thì cũng đốt]
Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong ngày
vui như thế này”,
bỗng ré lên như 1 tiếng cười
man rợ
từ chiếc loa của Ban Thông Tin
Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi sao ở thật cao
trên đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng trong suy
tư,
với ngón tay đặt lên đôi môi (1)
ANECDOTE OF RAIN
I was
strolling under the tents of trees
and
raindrops occasionally reached me
as though
asking:
Is your
desire to suffer,
to sob?
Soft air,
wet leaves;
-the scent
was spring, the scent sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang
thang dưới tàng cây
và những hạt
mưa thỉnh thoảng lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước
gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá
ướt;
-Mùi xuân,
mùi buồn
NEW YEAR’S EVE, 2004
You're at
home listening
to
recordings of Billie Holiday,
who sings
on, melancholy, drowsy.
You count
the hours still
keeping you
from midnight.
Why do the
dead sing peacefully?
while the
living can't free themselves from fear?
Adam Zagajewski
Đêm Giao Thừa
Bạn ở nhà nghe Duy Khánh caXuân này con không về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật hiền hòa?
Trong khi người sống không thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi? (1)
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles Simic
Cameo Apperance:
Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị lãnh
đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối Vòng Tay Lớn?]
Và một bà già
miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái đám
đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng 30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng có 1 cái băng đỏ
ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú [cameo appearance]
Họ đâu có thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng
tớ,
Như muốn giật chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn máy
bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
If only I
had a dog, these crows congregating
In my yard
would not hear the end of it.
If only the
mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in
the road reading a letter
So all you
who went by could envy me.
If only I
had a car that ran well,
I'd drive
out to the beach one winter day
And sit
watching the waves
Trying to
hurt the big rocks
Then scatter
like mice after each try.
If only I
had a woman to cook for me
Some hot
soup on cold nights
And maybe
bake a chocolate cake
A slice of
which we'd take to our bed
And share
after we've done loving.
If only
these eyes of mine would see better,
I could read
about birds migrating,
The vast
oceans and deserts they cross
And their
need to return to this shithole
After
visiting many warm and exotic countries.
Bầy Chim Bỏ Xứ
Chỉ cần một
chú chó
là đám quạ ở
sân nhà tớ
sẽ hiểu liền
tù tì,
tận thế là đây
có nghĩa là gì!
Chỉ một ông đưa
thư ngưng lại ở cái hộp thư của tớ
Là tớ sẽ đứng
ngay giữa đường đọc thư
Và các bồ đi
ngang thì sẽ khóc thét lên
vì ghen tức và thèm được như là Gấu.
Tớ sẽ chạy ra bờ biển vào một ngày đông
Ngồi nhìn sóng
Cố đụng mấy cục đá lớn
Và sau đó, chạy tứ lung tung như lũ chuột, sau mỗi cú thử.
Giả như tớ có một bà đầu bếp,
Nấu cho tớ tô cháo nóng vào những đêm lạnh lẽo
Hay nướng bánh xô cô la
Và một miếng bánh như thế, bà mang vô giường
Chia với Gấu, sau khi iêu Gấu.
Giả như cặp mắt già của Gấu sáng ra lại một chút
Gấu sẽ đọc về những con chim di cư
Những biển rộng những sa mạc mà chúng vượt qua
Và cái sự chúng cần trở về cái hố kít này
Sau khi viếng thăm cả đống những xứ sở ấm áp, ướt át.
At the close
of a sweltering night,
I found him
at the entrance
Of a bank
building made of blue glass,
Crumpled on
his side, naked,
Shielding
his crotch with both hands,
The missing
one, missed by no one,
As all the
truly destitute are,
His rags
rolled up into a pillow,
His mouth
open as if he were dead,
Or recalling
some debauchery.
Insomnia and
the heat drove me out early,
Made me turn
down one street
Instead of
another and saw him
Stretched
there, crusted with dirt,
His feet
bruised and swollen.
The lone
yellow cab idled at the light
With windows
down, the sleepy driver
Threw him a
glance, shook his head
And drove
down the deserted avenue
The rising
sun had made beautiful.
Charles Simic [from Night Pinic]
Cho linh hồn rất linh hồn của GCC
Vào một đêm
ngột ngạt, cận sáng
Gấu kiếm thấy
nó ở lối vô
Một tòa nhà
ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần
truồng
Hai tay che
cái chạc
Kẻ thiếu nhớ
chẳng ai thèm thiếu nhớ
Như mọi điều
đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách
quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác
hoác như chết rồi
Hay nhớ lại
một sa đọa, trụy lạc nào đó
Mất ngủ và cái
nóng khiến Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn
con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu
nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi
đường nghẹt họng
Chân thâm tím,
sưng phồng
Cái tắc xi màu
vàng, đơn độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo
xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn,
lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống
con phố hoang
Mặt trời lên,
con phố mới đẹp làm sao.
AT THE JEWELER'S
A small
scale accustomed to
Weighing
precious stones
Sat still
while he tucked
A magnifying
lens in his eye.
Outside, an
icy drizzle had commenced
Pelting the
gray pavement.
Flocks of
black umbrellas
Darkened the
view of the street
As she
leaned on the counter,
Muttering
something about how much
That little
ring means to her,
While he
hastened to give it back.
Cái dĩa nhỏ
thường dùng cân hột soàn
Vưỡn ngồi,
trong khi gắn cái kính soi lên mắt
Bên ngoài,
trận mưa phùn giá băng bắt đầu
Trút xuống vỉa
hè
Lũ dù đen
Làm đen thêm
cái nhìn con phố
Khi vị nữ khách
tì tay lên mặt kính
Lẩm bẩm 1 điều
gi đó chắc là về giá cả
Và hắn vội vã đưa lại cái nhẫn.
OH, I SAID
My subject
is the soul
Difficult to
talk about,
Since it is
invisible,
Silent and
often absent.
Even when it
shows itself
In the eyes
of a child
Or a dog
without a home,
I'm at a
loss for words.
Ui, Gấu phán
Đề tài của Gấu
là về “ninh hồn” Mít
Cực khó lèm bèm
Kể từ khi nó
vô hình
Câm, và thường
xuyên vắng mặt.
Ngay cả khi, chính nó,
chường mặt ra
Trước mắt 1 đứa
trẻ
Hay 1 con chó
đếch có nhà
Thì Gấu cũng
chịu thua, đếch kiếm ra lời!
Maybe there
is a word in it somewhere
to describe
the world this morning,
a word for
the way the early light
takes
delight in chasing the darkness
out of store
windows and doorways
Another word
for the way it lingers
over a pair
of wire-rimmed glasses
someone let
drop on the sidewalk
last night
and staggered off blindly
talking to
himself or breaking into song.
Từ điển
Có thể có một
từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng.
Một từ khác,
qua đó, nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng dây,
mà một người nào đó, bỏ
rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm bèm với chính mình, hay bật
thành bài ca.
Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st, 2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy trên Blog NL nên bê về đây.
Nay, có trong The Lunatic
Epitaph on a Tyrant
Perfection,
of a kind, was what he was after,
And the
poetry he invented was easy to understand;
He knew
human folly like the back of his hand,
And was
greatly interested in armies and fleets;
When he
laughed, respectable senators burst with laughter,
And when he
cried the little children died in the streets.
January 1939
Bia mộ Bác Hát
Và thơ Hắn phịa ra - hoặc chôm của Tẫu – thì thật dễ hiểu
Hắn rành sự khùng điên của con người như lưng bàn tay
Hắn rất quan tâm tới những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến
Khi Hắn cười, cả bộ sậu Bắc Bộ Phủ bò ra cười
Và khi Hắn khóc, những đứa trẻ chết như rạ ở đường phố Xề Gòn
Refugee Blues
Say this city has ten million souls,
Some are living in mansions, some are living in holes:
Yet there's no place for us, my dear, yet there's no place for us.
Once we had a country and we thought it
fair,
Look in the atlas and you'll find it there:
We cannot go there now, my dear, we cannot go there now.
In the village churchyard there grows
an old yew,
Every spring it blossoms anew:
Old passports can't do that, my dear, old passports can't do that.
The consul banged the table and said,
"If you've got no passport you're officially dead":
But we are still alive, my dear, but we are still alive.
Went to a committee; they offered me a
chair;
Asked me politely to return next year:
But where shall we go to-day, my dear, but where shall we go
to-day?
Came to a public meeting; the speaker
got up and said;
"If we let them in, they will steal our daily bread":
He was talking of you and me, my dear, he was talking of you
and me.
Thought I heard the thunder rumbling in
the sky;
It was Hitler over Europe, saying, "They must die":
O we were in his mind, my dear, O we were in his mind.
Saw a poodle in a jacket fastened with
a pin,
Saw a door opened and a cat let in:
But they weren't German Jews, my dear, but they weren't
German Jews.
Went down the harbour and stood upon
the quay.
Saw the fish swimming as if they were free:
Only ten feet away, my dear, only ten feet away.
Walked through a wood, saw the birds in
the trees;
They had no politicians and sang at their ease:
They weren't the human race, my dear, they weren't the
human race.
Dreamed I saw a building with a
thousand floors,
A thousand windows and a thousand doors:
Not one of them was ours, my dear, not one of them was ours.
Stood on a great plain in the falling
snow;
Ten thousand soldiers marched to and fro:
Looking for you and me, my dear, looking for you and me.
March 1939
W.H. Auden
Thành phố có 10 triệu linh
hồn
Có số ở nhà lầu
Có số ở ổ chuột:
Tuy nhiên, chẳng có chỗ cho chúng ta, bạn ơi, tuy nhiên chẳng có chỗ
cho chúng
ta.
Đã có 1 thời chúng ta có 1
xứ sở, và chúng ta nghĩ, như vậy là OK
Hãy nhìn lên trái địa cầu, và bạn sẽ tìm thấy nó ở đó
Chúng ta không thể đi tới đó bây giờ, bạn ơi, chúng ta không thể đi tới
đó bây
giờ.
Ở trong sân chùa làng, có
cây thuỷ tùng già
Cứ mỗi độ Xuân về là nó nở hoa mới tinh:
Thông hành già không thể làm như vậy, bạn ơi, thông hành già không thể
Tay lãnh sự VC đập bàn
quát:
“Nếu mi không có visa, là ta đá đít mi ra khỏi cửa khẩu!”
[Gấu dịch nhảm. Nguyên là: Nếu mi không có thông hành,
thì kể như mi đã chết, theo nhà nước VC]:
Nhưng chúng ta vẫn còn sống, bạn ơi, chúng ta vưỡn còn sống.
Đi đến cuộc họp, họ đưa ghế
ra mời tôi ngồi, và lịch sự nói, hãy trở lại năm tới
Nhưng hôm nay, chúng ta sẽ đi đâu, bạn ơi, chúng ta sẽ đi đâu,
bữa nay?
Tới cuộc họp công cộng,
người phát ngôn đứng dậy, phán,
“Nếu chúng tôi cho bạn vô, thì tụi nó sẽ ăn cắp bánh mì hàng ngày của
chúng
ta”:
Hắn ta đang nói về bạn và tôi, bạn ơi, hắn ta đang nói về bạn
và tôi
Tôi nghe sấm động trời
Đó là Hitler lầu bầu trên đầu Âu Châu, “Chúng phải chết”
Ui chao, Tên Quỉ Nazi đang nghĩ đến chúng ta, bạn ơi, Tên Quỉ Nazi đang
nghĩ
đến chúng ta.
Nhìn thấy 1 con chó trong cái áo jacket
đóng khuy bằng những cây kim
Nhìn thấy 1 cái cửa mở, và 1 con mèo chun vô:
Nhưng chúng đâu phải là Đức gốc Do Thái, bạn ơi, chúng đâu phải Đức Do
Thái
Đi xuống cảng và đứng ở cầu tầu.
Nhìn thấy cá bay nhảy như thể chúng tự do
Chỉ cách đây vài bước, bạn ơi, chỉ cách đây vài bước.
Đi vô rừng, nhìn thấy chim trên cây;
Chúng đếch cần chính trị gia, và hót lia chia
Chúng đâu phải loài người,
bạn ơi, chúng đâu phải loài người
Mơ, nhìn thấy 1 tòa nhà 1 ngàn
tầng lầu
Một ngàn cửa sổ, và 1 ngàn cửa ra vô
Chẳng người nào trong họ là chúng ta, bạn ơi, chẳng người nào trong họ
là chúng
ta
Ngồi trên cánh đồng lớn tuyết đang rơi
Một ngàn binh sĩ đi đi lại lại
Kiếm bạn và tôi, bạn ơi,
lũ bộ đội VC kiếm bạn và tôi
By Ocean Vuong
Ocean Vuong is a Vietnamese-born poet. His first collection, “Night Sky with Exit Wounds,” is due out next year.
Note: Trên Tin Văn đã giới
thiệu Ocean Vuong, qua bài thơ xử VC
Ocean Vuong
The Photo
After the infamous 1968 photograph of a Viet Cong officer executed by South Vietnam's national police chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the
pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one
fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
a white man
was lighting a cigarette.
ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010
NIGHT MUSIC
Little
brook, running past my house,
I like the
tune you hum to yourself
When night
comes,
And only the
two of us are awake.
You keep me
company
So I don't
fear
The darkness
round my bed
And the
thoughts in my head
Flying
crookedly like bats
Between the
old church and the graveyard.
Nhạc đêm
Con suối nhỏ
chạy qua nhà tớ
Tớ mê cái điệu
ầm ừ của mi, cho mi nghe
Khi đêm tới
Và chỉ có
hai đứa mình là thức
Mi có tớ là
bạn
Như vậy tớ đếch sợ
Bóng tối
vây quanh giường
Và những ý
nghĩ trong đầu tớ
Bay ngoằn ngoèo
như lũ dơi
Giữa ngôi nhà
thờ cổ và nghĩa địa.
WET MATCHES
Once again
the short, gray days,
The low sky,
the steady rain
Over these
derelict neighborhoods
One catches
sight of a train.
Old people
hold their heads
In windows
of unlit rooms.
Or withdraw
quietly
To lie with
their faces to the wall.
Sweet summer
beyond recall,
The children
are in school
Doing their
wretched lessons
While their
fathers play pool.
Girl in
trouble and the boy to blame,
Soaked
through and shivering,
Holding a
wet match to her cigarette,
Here comes
your bus!
Quẹt ướt
Lại nó, những
ngày cụt, xám, lùn tịt
Mưa hăm he, này, tao đái lên đầu tụi mi liền giờ nè!
Lối xóm không ai thèm dòm ngó
Một kẻ kêu lên, ơ kìa, con tầu!
Lũ già ôm đầu
Bên trong cửa
sổ những căn phòng tối thui
Hay lừ khừ lặng
lẽ thối lui
Leo lên giường
nằm, quay mặt vô tường
Mùa hè ngọt
ngào quá xa vời, làm sao nhớ!
Trẻ con ở trường
với những bài học tệ hại
Trong lúc mấy
ông bố chơi bi da
Gái “in
trouble”, trai, “to blame”
Ướt mèm, run
lẩy bẩy
Cầm cây quẹt
ướt châm điếu thuốc em
May quá, xe
buýt tới rồi kìa!
DON'T NAME THE CHICKENS
Let them peck
in the yard
As they
please,
Or walk over
to stand
At the edge
of the road.
The rooster
strutting about
will keep an
eye on them,
Till it's
time
To withdraw
under a tree,
And wait for
the heat
To pass and
the children
To return to
the toys
They left
lying in the dust.
For, come
Sunday,
One of the
chickens may lose its head
And hang by
its feet
From a peg
in the barn.
Đừng gọi tên những chú gà
Cứ để mặc mẹ
chúng mổ mổ những hạt thóc ở trong sân
Như chúng đang
sướng điên người lên được
Hay lang
thang tới bìa con lộ
Chàng gà trống
khệnh khạng
Bèn đi 1 đường
để mắt trông chừng lũ hậu duệ của nó
Cho đến cái
lúc mà
Cả đám rút về 1 cái cây
Đợi cho cái
nóng dịu đi 1 tí
Và lũ trẻ bèn
trở về với mấy món đồ chơi
Chúng bỏ lăn
lóc giữa lớp bụi.
Bởi là vì, vào
ngày Chúa Nhật
Một trong những
chú gà con
Có thể điên
cái đầu
Và bèn treo
cổ tự vẫn
Bằng cách móc
chân
Vào cái chốt
cửa kho thóc.
Gấu nói giọng
Bắc Kít với cái gương
Công viên có
riêng mùa đông của nó
Gấu vặn nhạc
Mùa đông thì
làm gì có ruồi
Chậm rãi
làm ly cà phê
Ruồi, Bọ, VC... thì làm sao
hiểu quê hương là [cái đéo] gì,
Hà, hà!
Thêm tí
đường
Quê hương là
1 giọng Bắc Kít,
Nghe nhói 1
phát
Ở bên kia đầu
phôn.
Ui chao,
đúng là nhói 1 phát thật, khi lần đầu gọi phôn, nghe cái giọng Bắc Kít,
đúng giọng
Cô Hồng Con của 1 làng Bắc Kít, ở ven đê sông Hồng.
Đúng giọng BHD….
Ta bận chồng, bận con, làm gì có thì giờ cho
mi…. hà, hà!
THE EXECUTION
It was the
earliest of sunrises
And the
quietest.
The birds,
for reasons of their own,
Kept mum in
the trees
Whose leaves
remained
Calm
throughout
With only a
small number
In the upper
branches
Sprinkled
with fresh blood.
Tháng Tư Đen, Hành Quyết
Đó là 1 bữa
buổi sáng, mặt trời lên sớm nhất
Và yên tĩnh
nhất
Ba muơi năm
mới có ngày nay làm sao không thức dậy sớm?
Lũ chim, vì
lý do nào đó, của riêng chúng
Bèn câm như
thóc, giữa đám lá,
Lá,
Cũng trở giọng,
trầm tư, như bị kết án tử hình
Chỉ có 1 dúm
Ở mãi tít trên
ngọn
Hơi bị rùng mình,
Lấm tấm những
giọt máu tươi.
Mother Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles Simic
Tôi êu tiếng nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen
nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu
Miu”
Comments
Post a Comment