Dạ Vũ Ký Bắc

 




Feb Twilight
I stood beside a hill
Smooth with new-laid snow
A single star looked out
From the cold evening glow.
There was no other creature
That saw what I could see-
I stood and watched the evening star
As long as it watched me.
Sara Teasdale
Hoàng hôn tháng Hai
Tôi đứng ở chân đồi
Phẳng phiu tuyết trắng mịn
Một ngôi sao lẻ loi
Lóng lánh cuối chiều đông
Quạnh hiu đồi hoang vắng
Dành riêng cho mắt tôi
Ngôi sao giữa hoàng hôn
Lặng lẽ ngắm nhìn tôi
Bà Tám dịch
Note:
Khúc đầu, GCC diễn ý bằng văn xuôi
Tôi đứng bên đồi
Tuyết mới xuống, trải một vùng thật mịn
Một ngôi sao độc 1 ngôi sao
Từ cái vùng ánh sáng ấm áp của buổi chiều lạnh
Nhìn ra
Cái từ "beside" không có nghĩa chân đồi. Khi dịch như thế là bó hẹp không gian lại, và làm hỏng cái rộng lớn của cả 1 miền đất tuyết mới xuống, trắng mịn một mầu, và còn làm hỏng luôn, cái thế đối đầu giữa ta và ngôi sao, hai cái đơn độc đối đầu nhau, trong 1 buổi chiều lạnh - the cold evening - mặt trời chỉ còn là 1 khối ánh sáng ấm – glow.
Bạn đọc hai câu dưới đây, của GCC, cũng tả cảnh 1 buổi như thế đó, ở cạnh biển, thay vì 1 miền tuyết mịn, bên 1 ngọn đồi.
*
Biển
Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
Nói thì biểu là tự khoe, nhưng bài thơ này quả là thần sầu, và đã từng được thi sĩ Ngu Yên để mắt tới, đọc nó lên, trong 1 chương trình do ông phụ trách trên Gió O. GCC nhớ là, khi nghe nó, thấy được quá, vì là chương trình thơ nhạc, kèm với bài nhạc phổ thơ của PD, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau”, hình như vậy.
Nhưng ghê gớm nữa, cả hai bài thơ này, của thời hiện đại, cùng chiếu về 1 bài thơ thần sầu của thời cổ điển….
Bài thơ Biển của Gấu được hơn 1 độc giả cực mê. Người đầu tiên đọc nó, là cô bạn, khi còn là bản nháp. Rồi tới 1 anh bạn cùng ở trại tị nạn, ở Úc. Nhạc sĩ Nguyễn Phước, đã mất. Anh đọc, đi 1 cái thư - hồi đó chưa có email – phán, lừng lững 1 trời cái con mẹ gì đó, hà, hà!
“Hào khí ngất trời”, chữ của Nguyễn Phước
Dạ Vũ Ký Bắc
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên, anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ nữa, cũng vẫn được, anh ạ!
Bài thơ cổ điển, mà hai bài thơ hiện đại, một của GCC, và một của Sara Teasdale, qui chiếu về, làm thành thế chân vạc, là bài thơ:
Đăng Lạc-Du Nguyên
Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Lý Thương Ẩn
Lên Lạc-Du nguyên
Chiều tối lòng buồn bã,
Rong xe lên cổ phần.
Nắng chiều đẹp vô hạn,
Chỉ tiếc sắp hoàng hôn.
Trần Trọng San dịch
Lạc-Du nguyên: Tên một khu du lãm nổi tiếng tại Trường An
Bản dịch qua tiếng Anh, của Witter Bynner, bài Đăng Lạc-Du nguyên của Lý Thương Ẩn.
The Lo-Yu Tombs
With twilight shadows in my heart
I have driven up among the Lo-Yu Tombs
To see the sun, for all his glory
Buried by the coming night
“Buried by the coming night”, dịch lại qua tiếng Việt, chẳng là:
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả?
Tuyệt cú mèo. Cứ y hệt như Hai Lúa khi làm, sáng tác... bài thơ Biển của mình, là... dịch nó từ tiếng Anh qua!
There was no other creature
That saw what I could see-
I stood and watched the evening star
As long as it watched me.
Quạnh hiu đồi hoang vắng
Dành riêng cho mắt tôi
Ngôi sao giữa hoàng hôn
Lặng lẽ ngắm nhìn tôi
GCC trực dịch:
Chẳng có sinh vật nào khác
Nhìn thấy điều tôi có thể nhìn – Tôi đứng và nhìn ngôi sao
Chừng nào nó nhìn tôi
Theo GCC, đây là 1 cuộc “duel” giữa hai sinh vật, ngôi sao và tôi, thì cứ nói đại như vậy. Thành ra “chẳng có 1 sinh vật nào khác”, ý của nó cực mạnh, so với câu tiếng Việt, “quạnh hiu đồi hoang vắng”.
Trên TV, hình như Milosz có giới thiệu 1 bài thơ, có cái ý tương tự, giữa 1 con người và 1 trái núi.
Cũng lặng lẽ ngó nhau, sau chỉ còn một, bạn có thể nghĩ, chỉ còn có… Gấu cũng được, mà chỉ còn Núi, cũng được!
Hà, hà!
Khi chọn bài thơ này, người dịch cũng đã cảm ra nó ra làm sao rồi, nhưng, như có lần "thú nhận", chỉ muốn làm nhà văn "hạng xoàng", không dám đẩy mình tới cõi cùng kiệt, chính vì thế mà bản dịch không đúng như nó phải là, theo GCC.
How?
NQT
LI PO
701-762
Perhaps in this Chinese poem there is something similar to the poem by Rumi.
Motionless sitting and meditating on a landscape leads to the disappearance of our
separate existence, so we become the mountain we contemplate.
Czeslaw Milosz
Có lẽ trong bài thơ Tẫy này có gì giống thơ Rumi.
Ngồi bất động và suy tư về phong cảnh dẫn chúng ta tới mất tiêu cái xác thân của mình và trở thành ngọn núi mà chúng ta chiêm ngưỡng.
THE BIRDS HAVE VANISHED
The birds have vanished into the sky,
and now the last cloud drains away.
We sit together, the mountain and me,
until only the mountain remains.
Đàn chim biến mất
Đàn chim biến mất vào bầu trời
Và bây giờ cụm mây chót cũng đi luôn
Chúng tôi cùng ngồi, núi và tôi
Cho tới khi chỉ hòn núi còn.
Translated from the Chinese by Sam Hamill
Hoàng Hôn Tháng Hai
February 23, 2014 by Ai Trần
Hoàng hôn tháng Hai
February Twilight
I stood beside a hill
Smooth with new-laid snow
A single star looked out
From the cold evening glow.
There was no other creature
That saw what I could see-
I stood and watched the evening star
As long as it watched me.
Sara Teasdale
Hoàng hôn tháng Hai
Tôi đứng ở chân đồi
Phẳng phiu tuyết trắng mịn
Một ngôi sao lẻ loi
Lóng lánh cuối chiều đông
Quạnh hiu đồi hoang vắng
Dành riêng cho mắt tôi
Ngôi sao giữa hoàng hôn
Lặng lẽ ngắm nhìn tôi
Bà Tám dịch
Note:
Khúc đầu, GCC diễn ý của của nó, bằng văn xuôi:
Tôi đứng bên đồi
Tuyết mới xuống, trải một vùng thật mịn
Một ngôi sao độc 1 ngôi sao
Từ cái vùng ánh sáng ấm áp của buổi chiều lạnh
Nhìn ra
Cái từ "beside" không có nghĩa chân đồi. Khi dịch như thế là bó hẹp không gian lại, và làm hỏng cái rộng lớn của cả 1 miền đất tuyết mới xuống, trắng mịn một mầu, và còn làm hỏng luôn, cái thế đối đầu giữa ta và ngôi sao, hai cái đơn độc đối đầu nhau, trong 1 buổi chiều lạnh - the cold evening - mặt trời chỉ còn là 1 khối ánh sáng ấm – glow.
Bạn đọc hai câu dưới đây, của GCC, cũng tả cảnh 1 buổi như thế đó, ở cạnh biển, thay vì 1 miền tuyết mịn, bên 1 ngọn đồi
*
Biển
Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...

Biển

 Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này

Số phận còn thua hạt cát.

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
 

Sinh nhật
Tặng TCN

Chuyện muôn năm cũ thôi bỏ
Nói chuyện mới.

Chuyện Rừng vào Thu
Thiên Nga hôm nay đi học về muộn
Chắc lại ngẩn ngơ vì lớp lá buồn
(Hồn Đông Phương thất lạc...)

Phương Nghi lúc nào cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô cùng một mầu. 

Nghe nói khi say bạn ưa giỡn cùng tụi nhỏ
Còn tôi mỗi lần ôm con vào lòng
Thấy ấm hết cả người.

Hôm nay sinh nhật bạn, ta cùng nhau say một trận
Bạn vui cùng Nam
Còn tôi sẽ cùng Huy đấu một trận cờ
Cho vơi nỗi nhớ
Mấy đứa nhỏ

 Giáng Sinh

Giáng sinh chưa nhấp môi đã thấy nhớ nhà
Dường như có một người bạn thân ở trong ta
Đi rất xa
Rất lâu
Chợt về đêm nay

Người bạn thân hay là quê hương cũ
Tiếng cười xưa rộn rã với đêm này
Nến rực rỡ soi hồn ta rất rõ
Chút ngậm ngùi bay theo hơi rượu cay.

Rượu rất cay mà lòng rất vui
Chúc tụng nhau bằng bài thơ mới
Ba mươi năm thơ vẫn đẹp như người.

Chiều ngu ngơ phố thị
Gửi T.L

 Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ trong giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm thiết.

Trong câu thơ chắc có chút hạnh phúc
Cho nên tình yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc anh tìm biển Đông.

Chiều ngu ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa đám người xa lạ
Với nụ cười thật ngày xưa
Khi em từ giã. 

Kiếp trước tôi có nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp này ông đòi kiếp khác?
Tôi đã nói ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi ông hãy quên tôi đi
Quên đi, quên đi....
 

Em ở đâu, ở đâu
Thèm một chút mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu, ở đâu
Thèm nụ hôn sầu
Lời biếng nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
 

Hát ở đâu đâu... 

Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)

Không phải tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.

Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi. 

Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết

Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng cuối
Hát ở đâu đâu... 

Cô bạn thân ơi, những ngày tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về... 

Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối (2)

(1)... that lonely halfway house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền 

Mùa Đông

Con chó đen đùa với bãi tuyết
Người đàn ông đi hết mùa Đông
Cây khắc nét khô vào nền trời xám

Nghe nói mùa Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe đuổi theo lá đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.

 Lạnh,

Hai vợ chồng ôm cặp
Đứng đợi xe
Ở đầu ngã tư
Cuối cuộc đời
Học giùm mấy đứa con còn kẹt lại

Tuổi năm mươi gấp sách lại đứng nghe

Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài-gòn buốt trên đầu ngón tay
 

Chúng ta chẳng bao giờ là của nhau

 Nhưng hãy chia nhau những khoảnh khắc-ngoài cuộc đời đó
Chút phù du giữa những lo toan
Khi em kẹt xe ở một ngã tư đường, chẳng hạn
Chợt để hồn mình chao nghiêng thay vì theo xe di động

Biết đâu em sẽ thèm mùi bùn
Bốc lên từ những hốc, hẻm, ngõ sâu
Từ dòng nước đen bên dưới cầu Thị Nghè
Khi cơn mưa đầu mùa chợt tới 

Anh ở đây, em ở đây
Vậy mà chúng ta cách xa nhau, thật cách xa nhau, quá đỗi
Còn nhận ra nhau
Nhờ chiếc lá mùa Thu
Nhân đôi niềm nhớ

Thu vàng
Rộn rã những giờ những phút giây ngày xưa

Em,
Vàng tươi mầu áo
Xanh rực mầu trời 

Đen thăm thẳm, mướt như tóc
Như chẳng bao giờ em phải lo toan

 (Sáng nay nhặt sợi tóc ngà
Nhìn con chợt thấy như là chút hương) 

Như ở đây, là bốn câu thơ
Hãy cho anh những gì mà em đã bỏ
Đã quên
Hoặc không thèm nhớ

(Dấy lên từ bụi vô thường
Ngày qua tháng lại, tà dương kiếp người)

Làm nhà
Tặng bạn, như một lời tạ lỗi 

Những người thợ khi xây một căn nhà
Thường đắn đo từng khung cây làm giàn giáo
Sao cho giàn đừng bung
Ở những nơi bộn bề công chuyện
Chắt chiu từng cây thang

 Ngại ngùng từng mối nối
Tất cả bỏ đi, khi việc xong
Tường đá lộ ra, uy nghi, sừng sững 

Bạn thân ơi, đôi khi có vẻ
Những cây cầu ngày xưa gẫy đổ giữa chúng ta

Đừng sợ. Hãy để cho khung rêu rụng xuống
Tâm đắc một điều
Ngôi nhà của chúng ta đã làm xong

(Dịch bài Scaffolding của Seamus Heaney, Poems 1965-75)

 

 Hi vọng

Tặng em, như một lời tạ tội

Người Nga, khi người thân vĩnh biệt
Thường phủ kín những tấm gương
Để người đi không đau lòng, hoảng hốt
Hồn còn đây, bóng đã không còn

Người Việt thường dặn dò
Hồn đừng quên
Con đường trở lại làm trẻ thơ
Mỗi lần qua sông, qua biển

Anh mong có em ở bên
Bởi vì chẳng bao giờ anh tìm thấy
Hình bóng anh
Ở trong em

Nhưng biết đâu, vào giờ phút chót
Tuổi thơ của anh, của em
Nhập làm một

Em chẳng hằng mong
Đừng ai đi trước 

NQT



Đêm mưa, gửi về đất Bắc

Nguyễn Quốc Trụ

 

Dạ Vũ Ký Bắc 

Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
Lý Thương Ẩn
 

Em hỏi ngày về để tính xem !
Núi Ba ao ngập nước mưa đêm.
Bao giờ mới được cùng chong nến,
Trò chuyện ngoài trời mưa suốt đêm. (1)
Châu Ngọc Bính dịch
 

Lúc mưa đêm, làm gửi về bắc 

Ngày về chưa biết bao giờ,
Ba sơn mưa tối, ao thu dâng đầy.
Bao giờ khêu nến song tây,
Cùng nhau kể chuyện mưa bay đêm nào?
Trần Trọng San dịch

Đăng Lạc-Du Nguyên

Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Lý Thương Ẩn

Lên Lạc-Du nguyên 

Chiều tối lòng buồn bã,
Rong xe lên cổ phần.
Nắng chiều đẹp vô hạn,
Chỉ tiếc sắp hoàng hôn.
Trần Trọng San dịch

Lạc-Du nguyên: Tên một khu du lãm nổi tiếng tại Trường An

*

Hai Lúa đã từng chôm tên Lý Thương Ẩn, khi dịch truyện ngắn Evelyne, của Joyce, trong Những Cư Dân Dublin, đăng trên Tập San Văn Chương, ngày nào còn Sài Gòn. Và, còn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn.

 Hai Lúa vẫn còn nhớ, một câu giới thiệu Joyce, của Lý Thương Ẩn "giả hiệu", mà Huỳnh Văn rất mê, là: Mười lăm truyện ngắn như mười lăm mảnh đời, xé ra từ thành phố Dublin nghèo khổ... Thi sĩ HV. mê nhất hình ảnh "xé ra"...

 Lạ, không hiểu có phải hậu quả của việc chôm, nhưng, ý tưởng "Chỉ tiếc sắp hoàng hôn", trong bài Đăng Lạc-Du nguyên của nhà thơ họ Lý, đã nhập vào Hai Lúa, và, bao nhiêu năm sau, đứng trên bờ biển giả, bãi cát giả Wasaga, làm bật ra hình ảnh này:
 
Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời,
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả.
NQT: Biển

*

 Trò chuyện ngoài trời mưa suốt đêm? (1) 

Câu thơ dịch này, của Châu Ngọc Bính, sợ không đúng tinh thần nguyên tác.
Bởi vì cái chuyện ngoài trời mưa suốt đêm, là chuyện đã xẩy ra rồi, ở một nơi khác. Thành thử dịch như thế, là bỏ đi một số từ, làm câu thơ trở nên lệch ra khỏi nguyên tác.
Bao giờ mới được cùng chong nến,
Trò chuyện [về cái chuyện] ngoài trời mưa suốt đêm [ở núi Ba Sơn đêm nào một mình không có bạn ở bên cạnh]. Như vậy, bản dịch của TTS giữ được tinh thần nguyên tác hơn, theo Hai Lúa.
Đây là bản tiếng Anh. Cách dùng thì [it was like] cho thấy rất rõ, tinh thần bài thơ. 

A Letter Home

You ask when I shall return: there is no knowing
Night rain on Pa-shan floods the autumn pools
Someday we shall trim the wick beneath the west windows
I'll tell you that it was like - the night rain falling
[Edited by Robert Payne] 

(1) Dịch giả Châu Ngọc Bính, đề nghị sửa lại:
Nhắc chuyện Ba Sơn mưa suốt đêm.

Thơ Lý Thương Ẩn, hay nói chung, thơ Đường, hay ở chỗ kiệm lời, thơ thật cô đọng, nhờ vậy mà ý thơ, như những ao kia, nước mưa dâng đầy.  Cách hiểu, và dịch của Châu Ngọc Bính, thực sự không sai, nhưng mà là hiểu theo cách đổi ngược dòng thời gian, lấy cái chuyện tương lai làm chuyện hiện tại, nói rõ hơn, khi viết thư cho bạn, trong đêm mưa, là kể như đã có bạn ở ngay bên mình rồi! 

Bài thơ của Lý Thương Ẩn, nó như vầy, theo tôi.
Đêm, nơi núi Ba Sơn, ngồi đọc thư bạn, tới câu bạn hỏi, khi nào về, mới trả lời, chưa biết được. Khi đó, ngoài trời mưa, nước ao dâng đầy, mơ tưởng cái ngày gặp lại, kể cho bạn về cái cảnh đẹp tuyệt vời của đêm nay.
Thành thử cái chuyện "kể chuyện ngoài trời mưa suốt đêm" đúng là giấc mơ của kẻ ngồi ngắm mưa, "kể như" có bạn mình ngồi kế bên, vậy.
*

 Lý Thương Ẩn [813-858]
Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khuê sinh. Người huyện Hà Nội, tỉnh Hà Nam. Năm 837 (đời Đường Văn-tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào việc thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở nên ông bị coi là người vong ân.
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Đỗ Mục, nên người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Đỗ.
Có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình giống thơ Đỗ Phủ.
Hai Lúa mới lục trong tủ sách, cuốn Thơ Đường, của Trần Trọng San, có phần tiếng Anh, nhà xb Đại Học Tổng Hợp Thành Phố HCM.
Lạ một điều, bản tiếng Anh, dịch bài Đăng Lạc-Du nguyên, lại giống như bài thơ Biển của... Hai Lúa!

Biển

Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả.

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới,
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này.
Số phận còn thua hạt cát.

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
NQT
*

Bản dịch qua tiếng Anh, của Witter Bynner, bài Đăng Lạc-Du nguyên của Lý Thương Ẩn. 

The Lo-Yu Tombs
With twilight shadows in my heart
I have driven up among the Lo-Yu Tombs
To see the sun, for all his glory
Buried by the coming night 

“Buried by the coming night”, dịch lại qua tiếng Việt, chẳng là:
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả?

Tuyệt cú mèo. Cứ y hệt như Hai Lúa khi làm, sáng tác...  bài thơ Biển của mình, là... dịch nó từ tiếng Anh qua!

*

Thơ là toán thuần tuý, ngược với văn, là toán áp dụng, của ngôn ngữ. Nó xác thực hơn, có nhiều khả năng tạo những hình thức lý thuyết, độc lập không dựa vào nền tảng chất liệu, so với văn.
G. Steiner: Verse in Tragedy, Thơ trong Bi Kịch.
[... that verse is the pure mathematics of language. It is more exact than prose..., and more capable of constructing theoretic forms independent of material basis. Prose, on the contrary, is applied mathematics]. 

Nhân nói chuyện dịch thơ, tờ Guardian online kể kinh nghiệm dịch Antigone của nhà thơ Nobel văn chương, Seamus Heaney. Ông bị bí, và rồi cảm hứng đã tới với ông, khi ông nhận ra rằng, đừng coi bản dịch của mình như là một cơ hội để phản đối cuộc chiến Iraq. Đây là một vở kịch thơ, nhưng bình luận và nghiên cứu đã biến nó trở thành một ẩn dụ chính trị. Tôi nhắm cái chiều hướng nhân chủng học của tác phẩm, không muốn bản dịch của mình biến thành một lời chỉ trích cuộc chiến Iraq, vì thế mà tôi đổi là The Burial at Thebes, Chôn Cất Tại Thebes, thay vì Antigone. 

Burial, chôn cất, là vì, chôn hay không chôn, đó là vấn đề; một bên, quyền của người chết, và một bên, luật của đất. Nhưng chôn là một từ luôn bám rễ vào đất, nghĩa là, chẳng bao giờ mất đi cái thực tại nguyên thuỷ của nó. Chôn bảo cho những người còn sống là người chết muốn được quyền chôn cất, rằng, hãy tỏ lòng tôn kính, với chiếc quan tài, và cái xác chết ở trong đó, cho dù cái quan tài đó phủ cờ gì.
Search for the soul of Antigone: Đi tìm linh hồn nàng Antigone
Wednesday November 2, 2005
The Guardian

*

Hai Lúa, phải đợi đến lúc sắp ngỏm củ tỏi, phải đợi cơ may độc nhất, do Ông Trời thí cho, là gặp lại cô bạn ngày xưa ở nơi tận cùng trái đất, xúc động quá, "bèn" được "Thần Thơ nhập" [chữ này chôm của thi sĩ THT], và sáng tác ra được vẻn vẹn một... cục thơ, nằm trong lòng bàn tay, trong có Biển, và "nhân đó" nhận ra, luật thơ, rõ nhất là ở trong Thơ Đường, chỉ gồm trong sáu chữ:
Cứ theo hư không mà đi.

Thơ là cõi hư, là mắt bão, ở giữa, đầu tịnh, đầu động, một chẵn một lẻ, một âm một dương, một hư một thực, một thanh một tục....
Lòng nhà thơ phải hư... nhưng đừng... hỏng!
*

Đăng Lạc-Du Nguyên

Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Lý Thương Ẩn
 

Sau đây là bản dịch, khi chưa chuyển thành thơ, của Trần Trọng San. 

Lên Lạc-Du nguyên
Lúc trời sắp tối, ý không thoả thích, nên rong xe lên khu đất cổ. Nắng chiều đẹp vô hạn, thế nhưng đã sắp hoàng hôn!

Bây giờ bạn đọc lại bài Biển. 

Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

Cái "air" của bài thơ rất giống cái "air" của bản dịch khi chưa chuyển thành thơ, của bài thơ Đường.
Nói một cách khác, mấy bài thơ của Hai Lúa, một cách nào đó, đều như được dịch từ Đường Thi qua, và còn ở dạng "nháp", chưa được gọt rũa, thành vần, thành điệu.

Và đây là một trong những cái "mánh", trong cái việc tập tành làm thơ:
Hãy thử dịch thơ Đường!
Và đó cũng là câu Alain khuyên ông học trò sau này nổi danh của mình, là André Maurois, mày mê ai, thì cứ dịch người đó (1) và rồi sẽ trở thành văn sĩ, như người đó.

*

 Nhưng thơ Đường không làm sao có những dòng như vầy:
Cát ở đây được con người chở từ đâu tới,
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này.
Số phận còn thua hạt cát. 

Nó là tâm thức bi đát về phận người, về những hoàn cảnh giới hạn của nó, tâm trạng sao xuyến, lưu đầy, và, lưu vong.

Cũng xin được cắt nghĩa một tí về "Cát ở đây..."
Bãi Wasaga không có cát, cát được chở từ nơi khác tới, làm một bãi biển giả, câu du khách từ thành phố tới.
Bài thơ trên, làm đúng vào lần đầu tiên được một người bạn chở tới đây. Ông bạn này nói cho biết về cái vụ "cát ở đây", và, bài thơ được hoàn thành ở trong đầu, khởi từ ý đó.
Cụm từ " bị quê hương ruồng bỏ" lúc ban đầu, đúng như vậy, rồi đuợc sửa là, "không hiểu tại sao", như bản được đọc trên Gió_O, nhưng một ông bạn đọc cả hai, bèn mắng cho, "bị quê hương ruồng bỏ", là đúng rồi, đúng ra phải nói, "bị VC đá văng ra khỏi đất nước", nhưng "bị ruồng bỏ" nghe có vẻ...  thơ hơn!
*

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
NQT: Biển 

Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên, anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ nữa, cũng vẫn được, anh ạ! 

Đọc lại, bỗng liên tưởng tới cái di chúc của nhà thơ Du Tử Lê:
Khi tôi chết hãy liệng mẹ cái thây tui xuống biển!

 Thì trút lên trời hay liệng xuống biển thì cũng mêm xôi, mắm xốt [từ chữ même chose, tiếng Tẩy mà ra]
(1) Hai Lúa bỗng dưng liên tưởng tới mấy dòng thơ của nữ sĩ Lê Thị Thấm Vân:

Con gái mẹ,
Yêu ai, con cứ fuck họ
Ghét ai, con cũng có thể fuck họ.
Khinh ai, mẹ để tùy ý con.
Nếu nói đến "fuck", thì hình ảnh vươn lên cao như muốn trút hết... làm liên tưởng đến cảnh bắn máy bay, và nếu như thế, nó "nam tính" [viril] hơn nhiều, so với "ném mẹ xác thằng già xuống biển"!

*

 Phương Nghi lúc nào cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô cùng một mầu
NQT: Sinh nhật 

Mấy câu trên, lấy ý từ Đằng Vương Các Tự, của Vương Bột, một trong tứ trụ, thời Sơ Đường

Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.

Trần Trọng San, [trong cuốn Hán Văn, nhà xb Bắc Đẩu, lần in thứ bẩy tại Canada], dịch là: Ráng chiều rơi xuống cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.

Trong nguyên tác, động từ "bay", "phi", chỉ dùng một lần, để tả hai vật cùng bay một lúc, tề phi, một, từ dưới bay lên, và một, từ trên rơi xuống.

Thành thử TTS, tuy đã nhận ra cảnh tuyệt vời này, dịch "ráng chiều rơi xuống", nhưng sau đó, ông lập lại động từ bay một lần nữa, trong "đều bay", hỏng!

Theo Hai Lúa, câu dịch đại khái phải như thế này:
Ráng chiều rơi xuống cùng lúc với cái cò đơn chiếc kia bay lên.
Bởi vì, phải cả hai cái bay như thế, mới nối liền một dải, như câu sau cho thấy:

Hồ Thu cùng Trường Thiên - nhờ ráng chiều rớt xuống và cái cò cô đơn bay lên cùng một lúc -  nên mới  - cộng được cả trời đất - trời đất từ nay xa cách mãi - bỗng chốc được liền lại - kéo dài thành một vạch - là nhất sắc mùa thu!

Câu thơ của Hai Lúa, từ ý thơ trên, nhưng, vì thiếu một cái cò đơn chiếc, mà thành ra dư ra...  hai hồ thu.
Bởi vì có tới ba hồ thu, ở đây.
Mùa Thu không ở đâu xa, [đâu cần phải vội vội vàng vàng đi tìm], mà ở ngay trong đôi mắt của cô.
Hồ Thu và Đôi Mắt của cô cùng một mầu. 

Cái ý "cộng thành một", nhờ hai vật cùng bay, một xuống, một lên, làm người đọc liên tưởng tới cảnh người đẹp bay lên trời trong Trăm Năm Cô Đơn, và để tả nó, Garcia Marquez đã phải sử dụng những nấc thang vải, hay một cái thang vải kiểu ốc xoắn, như ông kể lại trong bài trả lời phỏng vấn. 

Khi viết tới đoạn Người Đẹp Remedios bay lên trời, tôi loay hoay hoài, làm sao cho người đọc tin nổi đây. Bữa đó, tôi ra vườn và thấy người đàn bà vẫn thường tới lo việc lau chùi, quét dọn; lúc đó bà ta đang phơi những tấm khăn trải giường, và đang năn nỉ gió: "mày đừng thổi bay tứ tung những tấm khăn của tao nhe!", thế là tôi vớ ngay lấy, và sử dụng những tấm khăn đang phất phơ trong gió kia, như là cái thang cuốn, nhờ đó Người Đẹp cùng bay lên trời với chúng. Đó là cách tôi làm cho độc giả tin. Đối với bất cứ một nhà văn, vấn đề là, độ khả tín. Bạn có thể viết bất cứ điều gì, chừng nào còn tin được.
Garcia Marquez trả lời phỏng vấn báo Paris Review về chuyện nghề

Nói một cách khác, tất cả những toan tính trên đây, của thơ, của thi sĩ, là để giải cho được lời trù yểm của... Tản Đà.

Trời đất từ này xa cách mãi

 Đọc Thơ Đường, sững sờ trước cái đẹp của nó, Hai Lúa lẩn thẩn, cứ nghĩ tới cái đẹp của một thời La Hy, như Lukacs đã từng phán về nó. Thơ Đường, giống như Hùng Ca của Tây Phương, là một Cái Đẹp khép kín, tròn trịa, con người không sao thay đổi chi được, mà chỉ có thể chiêm ngưỡng. Trong Thơ Đường, chưa có cái gọi là tâm thức lưu vong, chỉ xuất hiện sau đó, cùng với tiểu thuyết. Nếu Đỗ Phủ có nói tới cái khổ làm người, ông cũng không hề phát giác ra nỗi cô đơn của nó, một khi những thần thi như Lý Bạch đã nhẩy xuống sông ôm vầng trăng mà... tịch!

 
Nếu tiểu thuyết là để diễn tả cõi không nhà siêu việt, thì thơ sẽ là căn nhà của một cõi không nhà siêu việt đó!
Trong Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp cổ.
Nếu thế, Thơ, sau Thơ Đường có nghĩa: Bị trục xuất ra khỏi thơ Đường?
Thơ là một cõi lưu vong khi không còn…. thơ Đường?
NQT

   

Dạ Vũ Ký Bắc

3

Dạ Vũ Ký Bắc

Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết

Bài thơ này, Hai Lúa làm những ngày đầu tới xứ lạnh, gửi cho một "đệ tử" còn kẹt trong trại cấm Sikiew, do hai câu trên, bị giữ lại, mãi mới đến tay người nhận. Còn một ông cũng cùng ở trại, được Úc nhận, đọc bài này, viết thư la to: hào khí ngất trời!
Còn một ông, ra hải ngoại từ những năm 1980, đọc, nói với Hai Lúa, tôi sợ ông hiểu lầm ý nghĩa của từ "halfway house".
Nó có nghĩa là nhà tù đấy!

Hát ở đâu đâu...

Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.

Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi. 

Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết

Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng cuối
Hát ở đâu đâu... 

Cô bạn thân ơi, những ngày tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về... 

Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối (2)


(1)... that lonely halfway house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền 

Cái cảnh xác chết biệt động thành nằm thành đống trong nhà xe Đài Phát Thanh Sài Gòn, thực sự Hai Lúa chỉ nhìn thấy, qua hình ảnh, được đám phóng viên chụp, và được Hai Lúa gửi đi, bằng máy vô tuyến viễn ảnh.
Khi trận đánh đã tàn, HL từ trên Đài hạ san, băng qua đường, ghé tiệm phở 44 ăn sáng, hình ảnh độc nhất còn đọng lại, là một chiếc dép râu, nằm trơ cu lơ ngay giữa mặt đường Phan Đình Phùng.
*

Số là "cô bạn" của tôi thì ở mãi bên Chợ Lớn. Tôi thường là chọn ca trực đêm, để dễ bề nói dối bà xã. Khi bớt việc, trao Đài cho một nhân viên phụ, thế là "chàng", trong túi thủ thẻ nhà báo quân đội, giấy chứng nhận hợp lệ tình trạng quân dịch, người và xe cứ thế phóng thẳng một mạch qua Chợ Lớn, ngồi cho tới khuya, ỷ y nếu có quá giờ giới nghiêm, đã có lá bùa hộ mạng, chứng nhận đây là phóng viên tiền tuyến của báo quân đội, đang đi công tác!

 Ôi, làm sao quên được cảm giác, khi về, vắng tanh, phóng xe như điên trên đường phố Sài Gòn, mà hồn của mình thì vẫn luẩn quẩn ở một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, nơi có căn nhà, có "giàn thiên lý, có người tôi thương"!...
Nhà tôi ở chân cầu Thị Nghè
*

Nhà cô bạn lúc này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt.
Cõi Khác 






Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’