Võ Tướng Quân Về Trời


Tháng Tư năm nay, Vẹm lôi trận ĐB, đánh bóng lại, thay vì ca ngợi đổi tên Sài Gòn thành Thành Hồ. Cùng lúc fb nhắc bài viết này.

Đâu phải chỉ có tay TNS Mẽo nói về tài nướng quân của Giáp, mà tướng Mẽo, Westmoreland cũng cúi chào địch thủ:

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius..."

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Hà, hà!

Trong “Về những nhà thơ và những người khác”, “On poets and Others”, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài “Gulag”, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.

Note: Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?

GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.

Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!

Cũng chính Solzhenitsyn, ngày từ những ngày 1975, khi Miền Nam còn “thoi thóp”, ông đã tiên đoán, Miền Bắc sẽ thôn tính nó, và coi nó như là chiến lợi phẩm, theo nghĩa, tao là ông chủ, mày là nô lệ. Trên TV có post đoạn đó, khi ông lên TV Tẩy, phán, ta sẽ về nước, khi nhà nước Liên Xô sụp đổ, đếch phải chết nơi xứ người!


Tao đếch cho phép

BÙI MINH QUỐC



*

Ảnh Nguyễn Đình Toán

Trong tất cả những cư xử của VC, có một, Gấu Cà Chớn coi được, là chúng coi đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít chúng, tởm hơn.... Ngụy!
Chúng cấm lũ này không cho về lại Xứ Mít.

-Hồi nhận viết Tiến Quân Ca tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng vào một thành phố để giết một người.

The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered,
'Why?'

Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius..."

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Mặt trời chân lý chiếu qua tim.
Đường ra trận mùa này đẹp lắm.

Tính chất trữ tình không thể thiếu, trong thế giới toàn trị
Tự thân, thế giới đó không là ngục tù, gulag.
Nó là ngục tù, khi trên tường nhà giam dán đầy thơ và mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó.
Kundera.

Một cách nào đó, "tinh thần" Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối với "Mùa Thu", khi nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ.
Kundera đã nhìn thấy điều đó ở thiên tài Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga như trùm cảnh sát, mật vụ Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội).


PHÁT BIỂU TẠI LỄ KỶ NIỆM 40 NĂM NGÀY DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ HY SINH
(8.3.1969 – 8.3.2009)

   Kính gửi Ban tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày hy sinh của nhà văn – liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý.

      Nhận được giấy mời (gửi qua bưu điện) và đề nghị chuẩn bị phát biểu trong buổi lễ do nhà thơ Nguyễn Thế Khoa thay mặt Ban tổ chức cho biết (qua điện thoại), tôi đã cố gắng sắp xếp để có thể ra Hà Nội kịp thời, nhưng rất tiếc, vào phút cuối, một hoàn cảnh riêng đột xuất đã không cho phép thực hiện được như dự định.

      Xin gửi tới buổi lễ bài phát biểu của tôi, kính nhờ ban tổ chức cử người đọc giùm, tôi hy vọng người đó là nhà thơ Nguyễn Thế Khoa, và mong muốn bài sẽ được đọc trọn vẹn.

      Chân thành cám ơn. 

BMQ

Nguồn

Thú thực, khi đọc những bài viết tưởng niệm như thế này, Gấu cứ thấy gai gai hết cả người.
Có bao giờ nhà thơ nghĩ, một khi nhà nước làm lễ công khai tưởng niệm như vậy, và có sự tham dự của ông, cho dù theo kiểu vắng mặt, [hay là ông cũng cảm thấy gai gai hết cả người nên... chuồn?], là để biểu dương chế độ hiện tại?
Cái cỗ máy toàn trị mà ông công khai tố cáo, và 'thú nhận', có phần đóng góp của ông ở trong đó, vẫn tiếp tục có sự đóng góp của ông, và bằng hữu?
Gấu cũng có một thằng em trai tử trận, và thật sự chẳng muốn phiền đến bất cứ ai về chuyện tưởng niệm, và thực sự tin rằng, chỉ có gia đình Gấu được quyền tưởng niệm.
Không ai có quyền đó hết, ngoài Gấu ra!
Đây là cái nghịch lý to tổ bố của cuộc chiến giải phóng Miền Nam. Chính những sự hy sinh của bao nhiêu con người, "kể cả Mỹ Ngụy", cho con quỉ chiến tranh, lại là nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của một chế độ khốn kiếp!
Và vẫn thường xuyên được vinh danh qua tưởng niệm!
*
Charles Simic, Poet Laureate, nhà thơ với vòng nguyệt quế, ["nhà thơ nhà nước", với thế giới CS], đã gọi cảm giác ‘gai gai’ như thế, là "sành điệu"!

Hy sinh đã đau đớn rồi, hy sinh để góp phần dựng nên cái nhà Mít đàng hoàng, đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy cỗ máy toàn trị, lại càng đau đớn, và hàng năm tưởng niệm thì lại vừa đau lại vừa nhục! Chúng ta là những kẻ sành điệu về cái sự độc ác!

Connoisseurs of Cruelty, Những kẻ sành điệu về sự độc ác là tên bài viết của nhà thơ Simic, khi điểm một số sách mới ra lò viết về Bosnia trên tờ NYRB, số đề ngày 12 Tháng Ba, 2009. Trong số đó, có cuốn của Wojciech Tochman, và cái tên của cuốn sách của ông miêu tả đúng cái tình trạng gai gai của chúng ta, nhưng ông gọi là, "Như ăn sỏi, ăn đá: Sống sót Quá khứ Bosnia" [Like Eating a Stone: Surviving the Past in Bosniaby Wojciech Tochman, Antonia Lloy-Jones dịch từ tiếng Ba Lan, nhà xb Atlas, 141p, $20.00]
Chúng ta cũng đang sống sót Quá Khứ Cuộc Chiến Thần Kỳ. Chúng ta cũng cảm thấy gai gai, như ăn sỏi ăn đá, mỗi lần tưởng niệm một liệt sĩ nằm xuống vì nghĩa cả, như Dương Thị Xuân Quý, như Đặng Thùy Trâm, thí dụ.

Nhưng chắc chắn đếch có tên sĩ quan Ngụy, là thằng em trai của Gấu, trong số những kẻ được vinh danh, tưởng niệm, ở cả hai bên Quốc Cộng!

Gấu đếch cho phép!

Trong mấy tên đế quốc, thực dân, cũ mới, Gấu vờ 1 tên, khốn kiếp hơn nhiều, so với mấy tên trên.
Khốn kiếp ngang với Nazi. Đức Nazi không coi Do Thái là người.
Tên đế quốc VC này cũng không coi Ngụy là người. Cả cuộc chiến của chúng, là để khai hóa giống Ngụy. Thắng 1 phát, là chúng tống Ngụy vô Trại Cải Tạo, cho học tập, thông qua lao động, để có cơ hội phục hồi nhân phẩm.
Chiến tranh chấm dứt bao nhiêu năm, vậy mà 1 tên sĩ quan Ngụy 
[dù đã được tha, sau khi đi tù, tức là kể như có nhân phẩm trở lại, dù chết rồi] còn bị 1 tên VC xỉ vả:

… Thơ ông cũng như con người ông (vốn là một sĩ quan quân đội Sài Gòn, làm báo Tiền Tuyến, báo quân đội) là chống lại cuộc chiến đấu của dân tộc ta chống ngoại xâm, rất sâu độc trắng trợn, có gì đáng đề cao?

Trong tất cả những cư xử của VC, có một, Gấu Cà Chớn coi được, là chúng coi đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít chúng, tởm hơn.... Ngụy!
Chúng cấm lũ này không cho về lại Xứ Mít.

Cuộc tấn công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.

Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng chảo DBP.

Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người....  Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.

Con ma nham hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm,
'Tại sao?'

Graham Greene: Ways of Escape

Greene không phải mê Việt Nam, mà…  Miền Nam.
Khi Miền Nam mất, ông phán, đó là lúc cả hai miền, cả thế giới chạy lại ôm lấy Miền Nam.

Tay Bass này làm sao rành GG bằng GCC.
Bass làm sao “chửi” Giáp, và cả Miền Bắc, nặng nề, như hai câu trên?

Phải thế thôi!
Tại sao?

As news of Giap’s death spread, hundreds of thousands of Vietnamese poured into the streets holding yellow flowers and photos of the man. People wept for all they had suffered during 30 years of warring against the French and Americans and for the broken promises of the lesser men who had sidelined the great general. (1)

Trong khi tin tức về việc ông qua đời lan truyền trên mạng internet – không có một thông báo chính thức nào được công bố cho tới ngày hôm sau – hàng trăm nghìn người Việt Nam đã đổ ra các đường phố mang theo những bó hoa vàng và ảnh của con người đã từng tham gia tạo nên nước Việt Nam hiện đại và cũng là người đại diện tiêu biểu nhất cho những hy vọng và giá trị của đất nước. Mọi người đã khóc vì tất cả những gì họ đã phải chịu đựng trong suốt ba mươi năm chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Họ khóc vì những lời hứa cuội của những con người tầm vóc nhỏ hơn ông, nhưng đã gạt ra rìa một viên tướng vĩ đại. 

Note: Câu tiếng Anh không có những đoạn TV gạch đít. Vả chăng, những giấc mộng “hoang đường”, những hứa cuội, về 1 cái nhà Mít to lớn đàng hoàng hơn trước, do Bác Hồ vẽ ra, đâu phải đám "tầm vóc nhỏ hơn Giáp"?

Quái đản nhất, là đất nước thê thảm như hiện nay, mà vẫn có kẻ kể công?
Công của Giáp sao bằng của mấy tên VC nằm vùng?
Không có chúng, Giáp làm sao giết nhiều người đến như thế?

Đâu phải chỉ có tay TNS Mẽo nói về tài nướng quân của Giáp, mà tướng Mẽo, Westmoreland cũng cúi chào địch thủ:

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius..."

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Hà, hà!

*

Source

Vietcong Terror

Closeup of Nguyen Van Sam, master terrorist for the Viet Cong, enprisoned by the Saigon police after numerous terrorist bombings around the city.

Location:

Saigon, Vietnam

Date taken:

1968

Photographer:

Co Rentmeester

Size:

885 x 1280 pixels (12.3 x 17.8 inches)

Trên thế giới, cá nhân độc nhất nhìn ra dã tâm của VC, hẳn là Kafka, khi ông viết “Y Sĩ Đồng Quê”!
Nhưng, không chỉ ông, mà còn Solzhenitsyn, khi phán, cuộc chiến Mít là tranh chấp quyền lực, đếch có giải phóng con mẹ gì, và ông bị Octavio Paz chê là “thiển cận”! (1)

(1)

Trong “Về những nhà thơ và những người khác”, “On poets and Others”, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài “Gulag”, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.

Note: Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?

GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.

Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!

Cũng chính Solzhenitsyn, ngày từ những ngày 1975, khi Miền Nam còn “thoi thóp”, ông đã tiên đoán, Miền Bắc sẽ thôn tính nó, và coi nó như là chiến lợi phẩm, theo nghĩa, tao là ông chủ, mày là nô lệ. Trên TV có post đoạn đó, khi ông lên TV Tẩy, phán, ta sẽ về nước, khi nhà nước Liên Xô sụp đổ, đếch phải chết nơi xứ người!


Tao đếch cho phép

BÙI MINH QUỐC
PHÁT BIỂU TẠI LỄ KỶ NIỆM 40 NĂM NGÀY DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ HY SINH
(8.3.1969 – 8.3.2009)

   Kính gửi Ban tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm ngày hy sinh của nhà văn – liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý.

      Nhận được giấy mời (gửi qua bưu điện) và đề nghị chuẩn bị phát biểu trong buổi lễ do nhà thơ Nguyễn Thế Khoa thay mặt Ban tổ chức cho biết (qua điện thoại), tôi đã cố gắng sắp xếp để có thể ra Hà Nội kịp thời, nhưng rất tiếc, vào phút cuối, một hoàn cảnh riêng đột xuất đã không cho phép thực hiện được như dự định.

      Xin gửi tới buổi lễ bài phát biểu của tôi, kính nhờ ban tổ chức cử người đọc giùm, tôi hy vọng người đó là nhà thơ Nguyễn Thế Khoa, và mong muốn bài sẽ được đọc trọn vẹn.

      Chân thành cám ơn. 

BMQ

Nguồn

Thú thực, khi đọc những bài viết tưởng niệm như thế này, Gấu cứ thấy gai gai hết cả người.
Có bao giờ nhà thơ nghĩ, một khi nhà nước làm lễ công khai tưởng niệm như vậy, và có sự tham dự của ông, cho dù theo kiểu vắng mặt, [hay là ông cũng cảm thấy gai gai hết cả người nên... chuồn?], là để biểu dương chế độ hiện tại?
Cái cỗ máy toàn trị mà ông công khai tố cáo, và 'thú nhận', có phần đóng góp của ông ở trong đó, vẫn tiếp tục có sự đóng góp của ông, và bằng hữu?
Gấu cũng có một thằng em trai tử trận, và thật sự chẳng muốn phiền đến bất cứ ai về chuyện tưởng niệm, và thực sự tin rằng, chỉ có gia đình Gấu được quyền tưởng niệm.
Không ai có quyền đó hết, ngoài Gấu ra!
Đây là cái nghịch lý to tổ bố của cuộc chiến giải phóng Miền Nam. Chính những sự hy sinh của bao nhiêu con người, "kể cả Mỹ Ngụy", cho con quỉ chiến tranh, lại là nguyên nhân cho sự ra đời và tồn tại của một chế độ khốn kiếp!
Và vẫn thường xuyên được vinh danh qua tưởng niệm!
*
Charles Simic, Poet Laureate, nhà thơ với vòng nguyệt quế, ["nhà thơ nhà nước", với thế giới CS], đã gọi cảm giác ‘gai gai’ như thế, là "sành điệu"!

Hy sinh đã đau đớn rồi, hy sinh để góp phần dựng nên cái nhà Mít đàng hoàng, đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy cỗ máy toàn trị, lại càng đau đớn, và hàng năm tưởng niệm thì lại vừa đau lại vừa nhục! Chúng ta là những kẻ sành điệu về cái sự độc ác!

Connoisseurs of Cruelty, Những kẻ sành điệu về sự độc ác là tên bài viết của nhà thơ Simic, khi điểm một số sách mới ra lò viết về Bosnia trên tờ NYRB, số đề ngày 12 Tháng Ba, 2009. Trong số đó, có cuốn của Wojciech Tochman, và cái tên của cuốn sách của ông miêu tả đúng cái tình trạng gai gai của chúng ta, nhưng ông gọi là, "Như ăn sỏi, ăn đá: Sống sót Quá khứ Bosnia" [Like Eating a Stone: Surviving the Past in Bosniaby Wojciech Tochman, Antonia Lloy-Jones dịch từ tiếng Ba Lan, nhà xb Atlas, 141p, $20.00]
Chúng ta cũng đang sống sót Quá Khứ Cuộc Chiến Thần Kỳ. Chúng ta cũng cảm thấy gai gai, như ăn sỏi ăn đá, mỗi lần tưởng niệm một liệt sĩ nằm xuống vì nghĩa cả, như Dương Thị Xuân Quý, như Đặng Thùy Trâm, thí dụ.

Nhưng chắc chắn đếch có tên sĩ quan Ngụy, là thằng em trai của Gấu, trong số những kẻ được vinh danh, tưởng niệm, ở cả hai bên Quốc Cộng!

Gấu đếch cho phép!

Sau chiến thắng ngất trời DBP, tháng Năm 1954, đẩy Tẩy vô bàn hội nghị Geneva, Giáp đi 1 đường thị sát chiến trường. Đất đỏ Điện Biên trở thành đen thui vì máu kẻ thù. Đạn dược, giây kẽm gai, mảnh pháo bày khắp. Tại 1 trong những hầm pháo, Người khui được bức thư của bại tướng địch gửi cho vợ. Vốn là giáo sư sử học, Người bèn chớp luôn, thứ này hiếm quí lắm, sau này đem bán đấu giá bộn tiền!

Ui chao, để cái thư đó, kế bên cái thư PXA viết, xin tiền kẻ thù, bạn quí, đồng nghiệp Time, thì tuyệt hảo, tuyệt xứng đôi!
Tụi Hồng Mao cực thâm hiểm. Chất “u mặc” của chúng cực cao. Đọc truyện tiếu lâm của chúng, là phải về nhà, hoặc hôm sau, hôm sau nữa, nhớ lại, thì mới bật cười.

Chiến thắng này cũng cực là mang nặng đẻ đau. Tụi Tẩy biến thung lũng thành pháo đài. Giáp bèn đưa quân xuyên rừng để bao vây. Với lũ Tẩy, chúng tin là, vô phương đưa quân vượt hẻm núi, vách đá, rừng sâu, sương mù, mê cung trùng trùng hang động. Giáp bèn nhớ đến sư phụ của ông, là Nã Phá Luân, mà những trận đánh được ông bày hàng trên bảng đen phấn trắng, khi ông còn ở Trung Học Huế: Nếu 1 con nai qua được, thì con người qua được, và 1 con người qua được, thì 1 binh đoàn qua được”. Và chầm chậm, hàng một, như những bóng ma, 55 ngàn con người vô vị trí của mình, được cung cấp thức ăn đạn dược… bởi 260 ngàn cu li với những chiếc giỏ, 20 ngàn xe đạp, và 11, 800 bè tre. Pháo thì tháo ra thành từng mảnh. Đường hầm đào tới ngay lỗ đít Tây mà chúng chẳng hay!

The Economist

Có lẽ là bài viết hay nhất trên báo chí Anh ngữ về tướng Giáp. Người viết là tác giả hai cuốn sách giá trị : “The Spy Who Loved Us” (về Phạm Xuân Ẩn) and “Vietnamerica.” Ông đã vặn cổ được con vịt cồ "tướng Giáp nướng quân" của thượng nghị sĩ John McCain. Về thời kỳ 68-75, ông không rơi vào sai lầm của nhiều nhà báo anh Mỹ, nhưng vẫn không biết vai trò thực ("chữa cháy" sau cơn cuồng chiến của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ năm 68 và 72, và vai trò tổng tư lệnh trong "đại thắng mùa xuân 75" mà Le Duẩn, Văn Tiến Dũng đã cướp công) của Võ Nguyên Giáp.

Diễn Đàn Forum

Chỉ một mẩu trên thôi, là đã có tới hai lỗi chính tả [hai từ in nghiêng] và đều do cẩu thả.
Đọc câu Giáp trả lời Karnow là đủ biết Võ Tướng Quân cuồng chiến tới mức nào.
Không lẽ Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cuồng chiến hơn Giáp?
Vẫn không biết vai trò thực
?
Vậy là chỉ tụi mi biết?

Đám này tởm quá! NQT

Ở đây, lại là những “chiến ngôn” của Nã Phá Luân: táo bạo, ngạc nhiên. Cũng còn mùi của Lawrence of Arabia mà cuốn "Bảy Túi Khôn", “Seven Pillars of Wisdom”, Giáp lúc nào cũng ôm theo. Rồi còn vô số của Mao Xếng Xáng, mà chiến thuật ba giai đoạn (du kích, dồn đối phương vào thế bí, tổng tấn công), Giáp nuốt trọn, thời gian lưu vong ngắn tại TQ, vào đầu thập niên 1940, do hoạt động CS.

Chìa khoá của những chiến thắng của ông, như Mao dạy, là quân đội nhân dân. Tụi Tẩy có thể là dân pro, xuất thân thẳng từ trường võ bị Saint-Cyr, nhưng chúng không biết chúng chiến đấu cho cái gì. Tụi Mẽo đến sau – khi Việt Nam bị chia đôi, và một chính quyền chống cộng được thành lập tại Miền Nam – chúng có thể dùng B52, trải thảm, bom, chất độc màu da cam, nhưng đám GI đếch muốn ở đó. Ngược lại, những người của Giáp, chiến đấu cho mảnh đất của chính họ. Ngay từ khởi đầu, từ 1944, Giáp đã thành lập một thứ quân đội kháng chiến, đánh giặc theo kiểu Mít, nhưng cũng phải mất 30 năm thì ông mới biến viễn ảnh của mình thành thực tại.

The Economist

Nói thì lại biểu là tự thổi, nhưng chẳng ai có thể nhìn, cắt nghĩa cuộc chiến Mít như GCC.
Không ai nhìn ra, cái đẹp nhất của nó, trước đó, và chính vì thế, không làm sao hiểu được, khi nó biến thành thê thảm tệ hại, nhất!
Càng thổi Giáp bao nhiêu, là càng nhìn ra cái khốn nạn thê thảm của cuộc chiến bấy nhiêu!

Bọn bợ đít VC bèn đổ hết lên đầu Lê Duẩn, Lê Đức Thọ!
Tụi nó mới cuồng chiến. Không phải Giáp!

The man who was Vietnam’s master of war

Trên Blog SNC có bản dịch, post lại trên TV để lèm lèm tiếp. V/v dân Mít khóc VNG, Gấu đã có ý kiến, họ khóc họ, nhất là đám Bắc Kít,  như họ - đám Nam Kít - đã xuống đường tiễn TCS.

Now that the general has died, perhaps the man can come to life.
“Giờ đây viên tướng đã qua đời, nhưng có lẽ con người này còn có thể hồi sinh”.
Bùi Xuân Bách trên pro & contra dịch.

Theo Gấu, dịch như thế không hết ý. Sợ sai nữa. Ở đây anh Mẽo Bass dùng "the general", mạo từ "the" của tiếng Anh ghê lắm. “Tướng của mọi tướng”. Phải làm sao nói cho ra điều này.
Nhớ là sau đó, Bass lấy câu của Graham Greene vinh danh Giáp và trận DBP.
Đẩy lên đỉnh như thế, rồi mới nói đến con người thường, “the man”.
Giờ này viên tướng đã ngỏm, con người xuất hiện. Làm gì có chuyện "con người có thể hồi sinh" ở đây. Giờ này, viên tướng đã chết, và chắc chắn đang ở trong Lò Luyện Ngục, theo như tinh thần của tụi mũi lõ, đối với những nhân vật quá nổi cộm, khi còn sống [Sartre, Céline…. thí dụ]. Chúng ta bèn bàn về con người thực, the man.

Như GCC đã từng viết, trong bài này:

Cái sự tiếc thương Võ Tướng Quân của dân Mít, theo GGC, cũng giống như dân Xề Gòn xuống đường đi 1 đường thương tiếc TCS.
Có 1 sự đồng cảm, của những kẻ bị làm nhục, bị phản bội của dân Mít.
Đảng VC đừng tưởng bở.
Mày có dám bắt chúng ông không, như khi chúng ông xuống đường chống Tẫu? 

Graham Greene vinh danh Giáp bảnh nhất:

Còn 1 hồi nhớ khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.

Mười lăm trận quyết định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954.

Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.

Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao?

The assault began on 13 March 1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates turned at last from the question of Korea to the question of Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu while they were discussing at such length the problem of Korea, would have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien Phu by artillery alone.
So the battle had to be fought with the maximum of human suffering and loss. M. Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers to commit Britain and America to a division of the country.

The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered,
'Why?'

Cuộc tấn công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.

Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng chảo DBP.

Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người....  Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.

Con ma nham hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm,
'Tại sao?'

Graham Greene: Ways of Escape

Greene không phải mê Việt Nam, mà…  Miền Nam.
Khi Miền Nam mất, ông phán, đó là lúc cả hai miền, cả thế giới chạy lại ôm lấy Miền Nam.

Tay Bass này làm sao rành GG bằng GCC.
Bass làm sao “chửi” Giáp, và cả Miền Bắc, nặng nề, như hai câu trên?

Phải thế thôi!
Tại sao?


Sau chiến thắng ngất trời DBP, tháng Năm 1954, đẩy Tẩy vô bàn hội nghị Geneva, Giáp đi 1 đường thị sát chiến trường. Đất đỏ Điện Biên trở thành đen thui vì máu kẻ thù. Đạn dược, giây kẽm gai, mảnh pháo bày khắp. Tại 1 trong những hầm pháo, Người khui được bức thư của bại tướng địch gửi cho vợ. Vốn là giáo sư sử học, Người bèn chớp luôn, thứ này hiếm quí lắm, sau này đem bán đấu giá bộn tiền!

Ui chao, để cái thư đó, kế bên cái thư PXA viết, xin tiền kẻ thù, bạn quí, đồng nghiệp Time, thì tuyệt hảo, tuyệt xứng đôi!
Tụi Hồng Mao cực thâm hiểm. Chất “u mặc” của chúng cực cao. Đọc truyện tiếu lâm của chúng, là phải về nhà, hoặc hôm sau, hôm sau nữa, nhớ lại, thì mới bật cười.

Chiến thắng này cũng cực là mang nặng đẻ đau. Tụi Tẩy biến thung lũng thành pháo đài. Giáp bèn đưa quân xuyên rừng để bao vây. Với lũ Tẩy, chúng tin, vô phương đưa quân vượt hẻm núi, vách đá, rừng sâu, sương mù, mê cung trùng trùng hang động. Giáp bèn nhớ đến sư phụ của ông, là Nã Phá Luân, mà những trận đánh được ông bày hàng trên bảng đen phấn trắng, khi ông còn ở Trung Học Huế: Nếu 1 con nai qua được, thì con người qua được, và 1 con người qua được, thì 1 binh đoàn qua được”. Và chầm chậm, hàng một, như những bóng ma, 55 ngàn con người vô vị trí của mình, được cung cấp thức ăn đạn dược… bởi 260 ngàn cu li với những chiếc giỏ, 20 ngàn xe đạp, và 11, 800 bè tre. Pháo thì tháo ra thành từng mảnh. Đường hầm đào tới ngay lỗ đít Tây mà chúng chẳng hay!

Võ tướng quân về Trời

The man who was Vietnam’s master of war

Có lẽ là bài viết hay nhất trên báo chí Anh ngữ về tướng Giáp. Người viết là tác giả hai cuốn sách giá trị : “The Spy Who Loved Us” (về Phạm Xuân Ẩn) and “Vietnamerica.” Ông đã vặn cổ được con vịt cồ "tướng Giáp nướng quân" của thượng nghị sĩ John McCain. Về thời kỳ 68-75, ông không rơi vào sai lầm của nhiều nhà báo anh Mỹ, nhưng vẫn không biết vai trò thực ("chữa cháy" sau cơn cuồng chiến của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ năm 68 và 72, và vai trò tổng tư lệnh trong "đại thắng mùa xuân 75" mà Le Duẩn, Văn Tiến Dũng đã cướp công) của Võ Nguyên Giáp.

Diễn Đàn Forum

Đám khốn kiếp làm trang này, đều là lũ tinh anh Miền Nam, thoát chết cuộc chiến nhờ chính sách du học của Ngụy.
"Người của chúng ta ở Paris", là đệ tử của "bạn của Gấu", là Cao Bồi PXA.

Cái vụ Giáp nướng quân, là chính do ông thú nhận, khi trả lời Karnow, đâu có phải là vịt cồ của TNS Mẽo? (1)

Sự tàn nhẫn của Giáp thì có chứng cớ rõ ràng, là cuộc chuyển pháo vô Điện Biên, như trong bài ai điếu của The Economist cho thấy.
Và cũng chẳng cần tới họ. Gia đình Gấu là 1 bằng chứng thê thảm rồi.
Bà chị ruột của Gấu, được phong là chiến sĩ thồ hàng trong chiến dịch này. 1954, bà cụ về làng đón đi Nam, nói với con gái, chết 1 đống còn hơn sống 1 người, thà cả nhà vô Nam, bà chị Gấu nói, bà mê  "phong trào", không đi.
Nửa thế kỷ sau gặp lại, bà nói với Gấu, đúng ra chị nên đi. Chính là chị bỏ mẹ chứ không phải mẹ bỏ chị.

TV dịch đoạn The Economist ai điếu tướng Giáp để cho thấy lũ khốn này cực kỳ khốn kiếp.

The man who was Vietnam’s master of war

Now that the general has died, perhaps the man can come to life. Gen. Vo Nguyen Giap died Oct.4 at the age of 102. His obituaries, many written years ago, report official versions of a life that only recently has been explored by historians and still has yet to be examined in detail. 

Giap’s obituaries give the man both too much and too little credit. He was indeed the architect of Vietnam’s remarkable 1954 victory at Dien Bien Phu, which ended the first Indochinese war, against the French. This was the first time in the history of Western colonialism that Asian troops defeated a European army in fixed battle. The message went out to Algeria and other colonies, as they began emulating Vietnam’s success. “That young Americans were still to die in Vietnam only shows that it takes time for the echoes even of total defeat to circle the globe,” said writer Graham Greene.

Most of Giap’s obituaries also credit him with winning the second Indochinese war, against the United States. They claim he masterminded the Tet Offensive of 1968 and the final campaign that ended the war with the fall of Saigon in 1975. These statements ignore the archival material and biographical traces only now coming to light. As early as 1963, after opposing a Communist Party resolution to begin warring directly against the United States, President Ho Chi Minh and Giap were sidelined in a power grab by Le Duan and other party ideologues. Later, Ho would exile himself to China, Giap to Hungary. This is where Giap lived for five months when the Tet Offensive was planned. Flown back to Vietnam on a Chinese airplane two days before the campaign began, Giap — who was still nominally commander in chief of the armed forces and minister of defense — was dismayed to learn the details of this human-wave assault on South Vietnamese cities and other military targets. He knew the southern forces were outgunned and that no popular uprising would save them from being slaughtered. What he got for being right was a new kind of internal exile. Thirty of Giap’s closest associates had already been arrested and imprisoned for not being enthusiastic enough in their support of the Communist Party.

For 50 years, the good soldier Giap kept his mouth shut about Vietnam’s internal power struggles. His Communist colleagues shoved him down the ranks, from deputy premier to director of family planning, but the longer Giap lived, the more he came to embody the intelligence, decency, courage and foresight of his people. He spoke out against Vietnam’s draconian police state and corruption. He fought against the government allowing China to strip mine bauxite in the Central Highlands.

As news of Giap’s death spread, hundreds of thousands of Vietnamese poured into the streets holding yellow flowers and photos of the man. People wept for all they had suffered during 30 years of warring against the French and Americans and for the broken promises of the lesser men who had sidelined the great general.

I was visiting the Saigon journalist and spy Pham Xuan An shortly before his death in 2006 when he showed me a sheaf of papers. “This is a 17-page letter from General Giap,” he said. The letter was one of several that Giap sent late in his life to the Politburo, attacking Chinese influence in Vietnamese affairs, bribery, corruption, police surveillance, environmental depredation and other social ills. An told me that 30 generals had signed a petition supporting Giap. “It is dangerous to take sides,” he said. “The reason we have no history of Vietnam written by Vietnamese is that you can’t tell the truth. That’s why all the books on my shelves are written by foreigners.”

Sen. John McCain and others have criticized Giap for being profligate with the lives of his soldiers. He was nowhere near as ruthless as British commanders in World War I, and he rejected the counsel of Chinese advisers who wanted to use human-wave attacks against French forces at Dien Bien Phu. Giap opted instead for siege techniques and the patient use of artillery. More bad advice from China crafted the Tet Offensive. Giap is not to blame for this military blunder, which cost the Communists half their soldiers in the south and destroyed the Vietcong as a fighting force. McCain’s criticism that Giap risked “the near total destruction” of his country “to defeat any adversary, no matter how powerful” might be applied to other successful revolutionaries — George Washington, for example.

Giap, the one classically trained member of Vietnam’s revolutionary cadre, with degrees in philosophy, history, law and politics, stood out in his country’s faceless collective leadership. He was a lover of orchids and French literature — even after the French tortured his wife to death. He braved Vietnam’s censors to speak the truth. No wonder hundreds of thousands of Vietnamese attended his funeral. He ushered in the modern, post-colonial world. He stood for independence and self-determination. What he said was meant to be a force for good in the world, and what he left unsaid is ours to discover.

… ("chữa cháy" sau cơn cuồng chiến của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ năm 68 và 72, và vai trò tổng tư lệnh trong "đại thắng mùa xuân 75" mà Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng đã cướp công) của Võ Nguyên Giáp.

Đúng là 1 lũ khốn kiếp: Ai cướp giấc mơ đẹp nhất của giống Mít?
Một đất nước như hiện nay, là do ai mà ra?
Không lẽ cũng là do lũ Ngụy?

(1)

Karnow, trong bài viết về Bác Hồ, trong số báo đặc biệt của Time, có nhắc đến câu trả lời của Võ Tướng Quân, về cuộc chiến Mít. Đánh, kéo dài trăm năm, ngàn năm, vưỡn đánh, chết hàng trăm triệu, cũng bỏ. Và ông ta cho rằng Võ Tướng Quân, có thể là tướng giỏi, nhưng đếch tiếc mạng người!

Gấu cũng nghĩ như vậy, nhưng sau đó, nhận ra là, VNG, khi trả lời Karnow, không phải với tư cách 1 vị tướng, mà chỉ như 1 tên Bắc Kít, với giấc mộng tuyệt vời của giống dân này, được ông Trời sinh ra để hoàn thành nó. Đây là cái "thème" Savior biến thành Devil mà Tin Văn lèm bèm hoài, thuổng từ D.M. Thomas, khi viết tiểu sử Solzhenitsyn.

Tương tự, khi Bùi Tín trả lời Dương Văn Minh, chúng ông lấy sạch rồi, mi còn gì mà bàn giao: từ trái tim “đen thui” của ông bật ra câu này, như ao ước của Võ Tướng Quân, chẳng khác! 

Về “chẳng khác”, D.M. Thomas giải thích, Quỉ và Chúa đổi chỗ cho nhau. Giấc mơ đẹp giải phóng thống nhất đất nước biến thành cơn điên khùng ăn cướp Miền Nam, rồi cứ thế, cứ thế, ăn cướp cả nước, biến đất Mít cái hậu môn của thế giới, anus mundi, biến thế giới thành bãi đánh hàng!

Đâu chỉ một Võ Tướng Quân, mà bất kỳ 1 tên Bắc Kít đều mong xả thân vì chiến thắng Miền Nam. Vì giấc mơ tuyệt vời nhờ nó mà có giống Mít.

Cái kết quả sau cùng làm 1 tên Mít nào, có lương tâm, là đều nhận ra. Giấc mộng đẹp chính là Quả Lừa Lớn, Sự Trả Thù của… địa lý: Vết thương hình chữ S!
Bao nhiêu giống dân bị Mít làm cỏ, mới có giấc mộng lớn/quả lừa lớn đó!

Võ tướng quân về Trời

Đầu tháng vô server, lòi ra bài này.

Hóa ra là cả thế giới cùng tưởng niệm Võ Tướng Quân với dân Mít

Hội Nhà Văn vs Hội Nhà Thổ

Kadare là tay đề nghị, dùng tên đại tướng Võ cho một thứ áo mưa do nhà nước VC Albanie sản xuất, vì làm gì có cái gì dẻo dai, kiên trì, kẻ thù nào cũng đánh thắng, không bao giờ bị thủng... như là… Võ tướng quân.
Ngay cả khi đại tướng hết còn cầm quân, mà được Đảng cho cầm quần ‘chị em chúng ta’?

trad. de l'albanais par Tedi Papavrami Fayard, 200 p., 17,90 €

Kadaré considère qu'il a écrit une des œuvres « les plus sombres du siècle », face à un système qui avait « un arrière-goût d'enfer ». Cet aspect tragique et funèbre qui se dégage de la plupart de ses ouvrages n'exclut pas une veine comique qui affleure parfois comme dans Le Dossier H ou L’Année noire. Cette fois, le burlesque touche à un sujet d'importance: l’Histoire de l'Albanie

Tuần này, cả hai tờ La Quinzaine Littéraire và Lire của Tây, đều nhắc tới cuốn mới ra lò của "NHT người Albanie": Ismail Kadaré. Với Lire, là một cuộc phỏng vấn.

Tin Văn đã có vài bài về tay này, đã từng đánh bại toàn những ông khổng lồ để đoạt Man Booker 2005, danh sách có cả tên NHT, nhưng bị delete, vì không có ai biết tiếng Mít trong ban giám khảo, và vì chưa được dịch qua tiếng Anh.

Bài 'đại phỏng vấn' tay nhà văn Albania thật tuyệt. Có thể làm bài văn mẫu cho đám nhà văn Yankee mũi tẹt được!

Thí dụ những câu sau đây mà chẳng bảnh sao:

Theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, phải viết thứ văn chương "mùa xuân vĩnh viễn của nhân loại", chữ của Nguyễn Khải trong Gặp Gỡ Cuối Năm [nguyên văn, une littérature 'printanière']. Kết quả, trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, mưa rơi ngay từ trang đầu tới trang chót.

Được hỏi, khi được Tây in sách, như DTH Mít "nhà mình" ‘phó phướng phông’?, Kadaré trả lời:
Với một nhà văn từ một xứ sở chư hầu của ông Xì, Stalinien, được in sách ở Tây là sống kiếp sống thứ nhì [réincarnation: tái nhập thế].

Trả lời câu hỏi, người ta nhắc hoài đến tên ông ở hành lang Nobel, ‘ông đã làm hồ sơ, và nạp đơn chưa’? [cái này thuổng trang Ngộ độc văn chương của thi sĩ NTT], ông trả lời:
Người ta nhắc nhiều đến tôi, và người ta tiếp tục. Ngày này qua tháng nọ, tôi cũng phải quen thôi. Có vài tay hay được nhắc như vậy, thành thử cũng có bạn.
Nhật Ký Tin Văn

Tờ Le Magazine Littéraire 2/2009 phỏng vấn Kadaré
Với “Bữa ăn thừa”, Le diner de trop, Kadaré coi như mình đã viết một trong những tác phẩm ‘u tối  nhất của thế kỷ’, đối diện với một chế độ có cái ‘dư vị của địa ngục’.
Tuyệt!

Võ tướng quân uýnh một trận uýnh khác. Đời Người, cầm quân ba trận. Trận Điện Biên. Trận Cầm Quần. Và trận Bô Xịt.
Bài viết giọng thật đểu cáng, theo cái kiểu thuốc đắng rã tật. Câu chót mới bảnh:
Hoang Trung Hai, a deputy prime minister, recently told a conference of scientists concerned about environmental damage that Vietnam will not pursue the bauxite mining plan “at any cost”. But the reality is that in straitened economic times, beggars cannot be choosers.
Quan VC nói, sẽ đếch bán Bô Xịt với bất cứ giá nào, nhưng, đói rã họng ra như lúc này, ăn mày ăn xin làm sao có quyền chọn lựa?
Note: BBC có dịch bài này, nhưng đổi cái caption hình Võ tướng quân, thành:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên!
Cả bài viết, có hai câu ăn tiền nhất, bị mấy anh thợ dịch diệt mất một câu!
Gấu lại nhớ những ngày làm bồi Mẽo, và cái giá cả giữa bức hình, và cái légende, caption, chú thích của nó: Phải một tay nhà nghề, thường là trưởng phòng mới có quyền đánh caption gửi hình đi.
Một cái caption thần sầu, "Tướng Giáp uýnh một trận uýnh khác" [và lần này thua!], vậy mà nỡ  thiến đi, thì có ngu không cơ chứ!

Nàm sao không chửi?

Như vậy là đề tài Người Mỹ Trầm Lặng đến với tôi, trong cuộc “chat”, về “lực lượng thứ ba” trên con đường đồng bằng [Nam Bộ] và những nhân vật của tôi bèn lẵng nhẵng đi theo, tất cả, trừ 1 trong số họ, là từ tiềm thức. Ngoại lệ, là Granger, tay ký giả Mẽo. Cuộc họp báo ở Hà Nội, có anh ta, được ghi lại, gần như từng lời, từ nhật ký của tôi, vào thời kỳ đó.
Có lẽ cái chất phóng sự của Người Mỹ Trầm Lặng nặng “đô” hơn, so với bất cứ cuốn tiểu thuyết nào mà tôi đã viết. Tôi chơi lại cách đã dùng, trong Kết Thúc một Chuyện Tình, khi sử dụng ngôi thứ nhất, và cách chuyển thời [time-shift], để bảo đảm chất phóng sự. Cuộc họp báo ở Hà Nội không phải là thí dụ độc nhất của cái gọi là phóng sự trực tiếp. Tôi ở trong 1 chiến đấu cơ (tay phi công đếch thèm để ý đến lệnh của Tướng de Lattre, khi cho tôi tháp tùng), khi nó tấn công những điểm có Vẹm, ở trong toán tuần tra của lực lượng Lê Dương, bên ngoài Phát Diệm. Tôi vẫn còn giữ nguyên hình ảnh, 1 đứa bé chết, bên cạnh bà mẹ, dưới 1 con mương. Những vết đạn cực nét làm cho cái chết của hai mẹ con nhức nhối hơn nhiều, so với cuộc tàn sát làm nghẹt những con kinh bên ngoài nhà thờ Phát Diệm.
Tôi trở lại Đông Dương lần thứ tư và là lần cuối cùng vào năm 1955, sau cú thất trận của Tẩy ở Bắc Việt, và với tí khó khăn, tôi tới được Hà Nội, 
một thành phố buồn, bị tụi Tẩy bỏ rơi, tôi ngồi chơi chai bia cuối cùng [may quá, cũng bị tụi Tẩy] bỏ lại, trong 1 quán cà phê, nơi tôi thường tới với me-xừ Dupont. Tôi cảm thấy rất bịnh, mệt mỏi, tinh thần sa sút. Tôi có cảm tình với tụi thắng trận nhưng cũng có cảm tình với tụi Tẩy [làm sao không!] Những cuốn sách của những tác giả cổ điển Tẩy, thì vưỡn thấy được bày ở trong 1 tiệm sách nhỏ, chuyên bán sách cũ, nơi tôi và ông bạn nói trên cùng lục lọi, mấy năm về trước, nhưng 100 năm văn hóa thằng Tây mũi lõ thì đã theo tín hữu Ky Tô, nhà quê, Bắc Kít, bỏ chạy vô Miền Nam. Khách sạn Metropole, nơi tôi thường ở, thì nằm trong tay Phái Đoàn Quốc Tế [lo vụ Đình Chiến. NQT]. Mấy anh VC đứng gác bên ngoài tòa nhà, nơi Tướng De Lattre đã từng huênh hoang hứa nhảm, ‘tớ để bà xã ở lại, như là 1 bằng chứng nước Tẩy sẽ không bao giờ, không bao giờ….’

Ngày lại qua ngày, trong khi tôi cố tìm cách gặp Bác Hát….

Graham Greene: Ways of Escape
Võ tướng quân về Trời

*

                                                                     Greene đi tuần tra cùng lính Pháp tại Phát Diệm                                                                      

So the subject of The Quiet American came to me, during that talk of a 'third force' on the road through the delta, and my characters quickly followed, all but one of them from the unconscious. The exception was Granger, the American newspaper correspondent. The press conference in Hanoi where he figures was recorded almost word for word in my journal at the time. Perhaps there is more direct reportage in The Quiet American than in any other novel I have written. I had determined to employ again the experience I had gained with The End of the Affair in the use of the first person and the time-shift, and my choice of a journalist as the 'I' seemed to me to justify the use of reportage. The press conference is not the only example of direct reporting. I was in the dive-bomber (the pilot had broken an order of General de Lattre by taking me) which attacked the Viet Minh post and I was on the patrol of the Foreign Legion paras outside Phat Diem. I still retain the sharp image of the dead child couched in the ditch beside his dead mother. The very neatness of their bullet wounds made their death more disturbing than the indiscriminate massacre in the canals around.
    I went back to Indo-China for the fourth and last time in 1955 after the defeat of the French in the north, and with some difficulty I reached Hanoi - a sad city, abandoned by the French, where I drank the last bottle of beer left in the cafe which I used to frequent with Monsieur Dupont. I was feeling very ill and tired and depressed. I sympathized with the victors, but I sympathized with the French too. The French classics were yet on view in a small secondhand bookshop which Monsieur Dupont had rifled a few years back, but a hundred years of French civilization had fled with the Catholic peasants to the south. The Metropole Hotel where I used to stay was in the hands of the International Commission. Viet Minh sentries stood outside the building where de Lattre had made his promise, 'I leave you my wife as a symbol that France will never, never ... ' Day after day passed while I tried to bully my way into the presence of Ho Chi Minh. It was the period of the crachin and my spirits sank with the thin day-long drizzle of warm rain. I told my contacts I could wait no longer - tomorrow I - would return to what was left of French territory in the north.
    I don't know why my blackmail succeeded, but I was summoned suddenly to take tea with Ho Chi Minh, and now I felt too ill for the meeting. There was only one thing to be done. I went back to an old Chinese chemist's shop in the rue des Voiles which I had visited the year before. The owner, it was said, was 'the Happiest Man in the World’. There I was able to smoke a few pipes of opium while the mah-jong pieces rattled like gravel on a beach. I had a passionate desire for the impossible - a bottle of Eno's. A messenger was dispatched and before the pipes were finished I received the impossible. I had drunk the last bottle of beer in Hanoi. Was this the last bottle of Eno's? Anyway the Eno's and the pipes took away the sickness and the inertia and gave me the energy to meet Ho Chi Minh at tea.
    Of those four winters which I passed in Indo-China opium has left the happiest memory, and as it played an important part in the life of Fowler, my character in The Quiet American, I add a few memories from my journal concerning it, for I am reluctant to leave Indo-China for ever with only a novel to remember it by.

Graham Greene: Ways of Escape

             phat_deim            phat_diem

Như vậy là đề tài Người Mỹ Trầm Lặng đến với tôi, trong cuộc “chat”, về “lực lượng thứ ba” trên con đường đồng bằng [Nam Bộ] và những nhân vật của tôi bèn lẵng nhẵng đi theo, tất cả, trừ 1 trong số họ, là từ tiềm thức. Ngoại lệ, là Granger, tay ký giả Mẽo. Cuộc họp báo ở Hà Nội, có anh ta, được ghi lại, gần như từng lời, từ nhật ký của tôi, vào thời kỳ đó.
Có lẽ cái chất phóng sự của Người Mỹ Trầm Lặng nặng “đô” hơn, so với bất cứ cuốn tiểu thuyết nào mà tôi đã viết. Tôi chơi lại cách đã dùng, trong Kết Thúc một Chuyện Tình, khi sử dụng ngôi thứ nhất, và cách chuyển thời [time-shift], để bảo đảm chất phóng sự. Cuộc họp báo ở Hà Nội không phải là thí dụ độc nhất của cái gọi là phóng sự trực tiếp. Tôi ở trong 1 chiến đấu cơ (tay phi công đếch thèm để ý đến lệnh của Tướng de Lattre, khi cho tôi tháp tùng), khi nó tấn công những điểm có Vẹm, ở trong toán tuần tra của lực lượng Lê Dương, bên ngoài Phát Diệm. Tôi vẫn còn giữ nguyên hình ảnh, 1 đứa bé chết, bên cạnh bà mẹ, dưới 1 con mương. Những vết đạn cực nét làm cho cái chết của hai mẹ con nhức nhối hơn nhiều, so với cuộc tàn sát làm nghẹt những con kinh bên ngoài nhà thờ Phát Diệm.
Tôi trở lại Đông Dương lần thứ tư và là lần cuối cùng vào năm 1955, sau cú thất trận của Tẩy ở Bắc Việt, và với tí khó khăn, tôi tới được Hà Nội...


Võ tướng quân về Trời

Cái sự tiếc thương Võ Tướng Quân của dân Mít, theo GGC, cũng giống như dân Xề Gòn xuống đường đi 1 đường thương tiếc TCS.
Có 1 sự đồng cảm, của những kẻ bị làm nhục, bị phản bội của dân Mít.
Đảng VC đừng tưởng bở.
Mày có dám bắt chúng ông không, như khi chúng ông xuống đường chống Tẫu?

Karnow, trong bài viết về Bác Hồ, trong số báo đặc biệt của Time, (a) có nhắc đến câu trả lời của Võ Tướng Quân, về cuộc chiến Mít. Đánh, kéo dài trăm năm,  ngàn năm vưỡn đánh, Chết hàng trăm triệu, cũng bỏ. Và ông ta cho rằng Võ Tướng Quân, có thể là tướng giỏi, nhưng đếch tiếc mạng người!

Gấu cũng nghĩ như vậy, nhưng sau đó, nhận ra là, VNG, khi trả lời Karnow, không phải với tư cách 1 vị tướng, mà chỉ như 1 tên Bắc Kít, với giấc mộng tuyệt vời của giống dân này, được ông Trời sinh ra để hoàn thành nó. Đây là cái thème Savior biến thành Devil mà Tin Văn lèm bèm hoài, thuổng từ D.M. Thomas, khi viết tiểu sử Solzhenitsyn.

Tương tự, khi Bùi Tín trả lời Dương Văn Minh, chúng ông lấy sạch rồi, mi còn gì mà bàn giao: từ trái tim “đen thui” của ông bật ra câu này, như ao ước của Võ Tướng Quân, chẳng khác!

Về “chẳng khác”, D.M. Thomas giải thích, Quỉ và Chúa đổi chỗ cho nhau. Giấc mơ đẹp giải phóng thống nhất đất nước biến thành cơn điên khùng ăn cướp Miền Nam, rồi cứ thế, cứ thế, ăn cướp cả nước, biến đất Mít cái hậu môn của thế giới, anus mundi, biến thế giới thành bãi đánh hàng!

The Revolution was "designed" by supremely rational men, Marx and Engels among them, yet when it came it was no more rational than the symbolic blizzard raging through Pushkin's "Demons," Blok's "The Twelve," and Akhmatova's Poem Without a Hero.
A French diplomat saw two soldiers shoot dead an old woman street vendor, close to the American embassy, rather than pay for two tiny green apples. In "The Twelve," a villainous gang of Red Guards stumble through black night and driving snow, ready to destroy everything in their path. (It may be among them is someone from the Vasilevsky soup kitchen.) They lust to drink, have pleasure, and uphold the Revolution. Nothing is sacred. "Now with my knife / I will slash, I will slash!" Behind them limps a starving dog - the old world. They think of sticking a bayonet in it, but turn their attention back to what goes always before them, barely visible in the thick snow, a red flag. Bearing that flag, leading the cutthroats, walking lightly above the storm - is Jesus Christ.
Christ and the Devil have changed places. (b)
 

Trong những bài ai điếu, tưởng niệm....  theo Gấu, bài của Susan Sontag, viết về Canetti, thần sầu, quá thần sầu.
Tin Văn sẽ post, và sẽ dịch, vì nó liên quan đến đề tài mà Gấu muốn trình ra ở đây.
Giả như chúng ta chấp nhận thiên tài VNG, chúng ta đành chấp nhận cái nước Mít "cứt đái", tởm, [thê lương] như bây giờ?
Bởi là vì nó cứt đái như vậy, chính là do thiên tài quân sự VNG gây nên!
Hà, hà! 

Bài của Susan Sontag, nhắc tới 1 câu của Canetti, viết về Kafka, một người mà Canetti hằng ngưỡng mộ: "Người đọc trở nên tốt, khi đọc ông [Kafka], nhưng đếch làm sao tự hào về điều này" [“One turns good when reading him but without being proud of it”].

Cái vụ mấy anh nhà văn Mít hải ngoại, như NMG, như Thầy Phúc, thí dụ, bò về, xin VC kiểm duyệt sách, rồi mướn đầu nậu in, rồi tự hào là nhà văn, nhà phê bình ‘hai dấu’ [một tự do, một đã được kiểm duyệt], cũng tởm tương tự như thế.
Khi chúng bỏ nước ra đi, vượt biển tìm tự do, chúng tự hào về chúng bao nhiêu, thì khi chúng bò về, nhục nhã chừng đó [đất nước bây giờ còn khốn kiếp hơn nhiều, so với lúc chúng bỏ đi].

Brodsky chẳng đã phán, là 1 người tự do rồi, nếu thất bại thì đừng đổ lỗi cho ai.

Tụi khốn kiếp này tính đổ lỗi cho ai?
Cái tên văn chương chỉ là đồ chơi chẳng đã đổ tội cho bố mẹ, khi xưa ta còn bé, bắt ta di cư vô Nam, ư?

Võ tướng quân bị cho ra rìa từ lâu.
Khi nhân dân Mít tưởng nhớ ông, “đến như thế”, cái gì gì, "trời cũng khóc mà người cũng khóc", như báo VC thổi, là cũng để nói lên 1 sự thực, dân Mít đếch hài lòng về cuộc thắng lớn này.
Nó chỉ đẩy đất nước đến thảm họa.

Trả lời phỏng vấn, khi được Nobel văn chương, Grass đề nghị một nước Đức đếch có Bắc Bộ Phủ, không tập trung quyền lực vào 1 thủ đô, như 1 Paris của Tẩy. Khi thằng Tây lấy được xứ Mít, nó chia làm ba xứ, là đúng theo cái “thiên thời địa lợi nhân hòa” đó, nhưng Mít, nhất là Bắc Kít, không chịu, mày chia xứ của tao ra để trị.
Hơn nữa, mảnh đất nhỏ xíu, bờ nhiều hơn ruộng, ngày càng cằn cỗi, vì con đê, vì con người cứ đẻ mãi ra, đất không nuôi nổi, thế là cứ nhìn về mảnh đất Nam Kít với con mắt thèm thuồng!

[“Look bach in hunger” là tên bài điểm 1 cuốn sách mới ra lò, Irina Prokhorova, editor: “1990, Russians remember a turning point”, TLS Sept 27, 2013, y chang Gấu, lấy 30 Tháng Tư 1975 nhìn lại Bắc Kít, “in hunger”]

Chính là giấc mơ thống nhất đã huỷ diệt nước Mít!
Hay nói 1 cách "thực tế" hơn: Cái Đói Bắc Kít + Cái Ác Bắt Kít huỷ diệt nước Mít.

Trên tờ Books, Sept 2013, Liao Yiwu, cũng phát biểu y chang Grass.

Giấc mơ Tẫu của ông ra làm sao?
Quel serait votre rêve pour la Chine, si vous pouviez l’exprimer?

Tôi mơ nước Tẫu được chia thành 20 xứ khác nhau, và mỗi xứ như thế chọn chế độ chính trị của nó. Nếu đám Bắc Bộ Phủ [Bắc Kinh] thích VC Tẫu [Đảng CS, hệ thống, chế độ CS] kệ cha chúng. Những người Sichuanais, chính họ, sẽ trở thành vô chính phủ, anarchistes, OK. Yunnanais, dân chủ. Thượng Hải sẽ trở thành cảng thương mại, lo tính thuế xuất nhập khẩu đối với những xứ sở khác.

Ui chao, Miền Nam, Xề Gòn, đúng ra phải được như thế!

AFTER his great victory at Dien Bien Phu in May 1954, which pushed the French colonial power to the peace table in Geneva, Vo Nguyen Giap (above, top left) took a tour of the battlefield. The red earth was dark with enemy blood. Cartridges, barbed wire and fragments of shells lay all over it; unburied corpses were busy with yellow flies. In one of the artillery posts the mess of papers on the floor included a letter from the defending general to his wife. General Giap, once a history teacher, thought it would be worth preserving in the records of a free Vietnam.
The Economist

Sau chiến thắng ngất trời DBP, tháng Năm 1954, đẩy Tẩy vô bàn hội nghị Geneva, Giáp đi 1 đường thị sát chiến trường. Đất đỏ Điện Biên trở thành đen thui vì máu kẻ thù. Đạn dược, giây kẽm gai, mảnh pháo bày khắp. Tại 1 trong những hầm pháo, Người khui được bức thư của bại tướng địch gửi cho vợ. Vốn là giáo sư sử học, Người bèn chớp luôn, thứ này hiếm quí lắm, sau này đem bán đấu giá bộn tiền!

Ui chao, để cái thư đó, kế bên cái thư PXA viết, xin tiền kẻ thù, bạn quí, đồng nghiệp Time, thì tuyệt hảo, tuyệt xứng đôi!
Tụi Hồng Mao cực thâm hiểm. Chất “u mặc” của chúng cực cao. Đọc truyện tiếu lâm của chúng, là phải về nhà, hoặc hôm sau, hôm sau nữa, nhớ lại, thì mới bật cười.

General Giap


AFTER his great victory at Dien Bien Phu in May 1954, which pushed the French colonial power to the peace table in Geneva, Vo Nguyen Giap (above, top left) took a tour of the battlefield. The red earth was dark with enemy blood. Cartridges, barbed wire and fragments of shells lay all over it; unburied corpses were busy with yellow flies. In one of the artillery posts the mess of papers on the floor included a letter from the defending general to his wife. General Giap, once a history teacher, thought it would be worth preserving in the records of a free Vietnam.

This victory had been a long time in the making. The French had fortified the valley, in north-west Tonkin on the border with Laos, so he had taken his troops into the mountains that encircled it. The French thought the hills impassable: craggy, forested, foggy, riddled with caves. General Giap recalled the words of his hero Bonaparte, whose battle plans he was sketching out with chalk when he was still at the Lycée in Hue: “If a goat can get through, so can a man; if a man can get through, so can a battalion.” Slowly, stealthily, in single file, 55,000 men took up positions there, supplied by 260,000 coolies with baskets, 20,000 bicycles and 11,800 bamboo rafts. Artillery was carried up in sections. From this eyrie, trenches and tunnels were dug down until they almost touched the French. The enemy never stood a chance. 

Here were Bonaparte’s maxims again: audace, surprise. A dash, too, of Lawrence of Arabia, whose “Seven Pillars of Wisdom” General Giap was seldom without. And plenty of Mao Zedong, whose three-stage doctrine of warfare (guerrilla tactics, stalemate, offensive warfare) he had fully absorbed during his brief exile in China, for communist activity, in the early 1940s.

The key to all his victories, as Mao advised, was his people’s army. The French might be professionals straight out of Saint-Cyr, but they did not know what they were fighting for. The Americans who came in later—when Vietnam had been divided and an anti-communist regime had been set up in the South—might bomb his forces from B-52s and poison them with defoliants, but the GIs did not want to be there. His men, by contrast, were fighting to free their own land. From the start, in 1944, he had drilled his tiny musket-and-flintlock resistance army in the ideology of the struggle, setting up propaganda units to indoctrinate peasants in their villages. The result was a guerrilla force that could live off the land, could disappear into it (as along the labyrinthine Ho Chi Minh trail that supplied, through jungle paths and tunnels, communist fighters in the South from the North) and was prepared, with infinite patience, to distract and harry the enemy until he gave in. This was fighting à la vietnamienne. It took the general 30 years, from Vietnam’s declaration of independence from France in 1945 to the fall of Saigon, the southern capital, in 1975, to make his vision reality.

A volcano under snow 

Not that he was a populist, exactly. His father had been a lettré, a local scholar, as well as a farmer; he himself had a law degree. He was dapper, reviewing his troops in a white suit, trilby and club tie; even in a mountain cave, diminutive and smiling, he looked fresh as a flower. He wrote poetry, and his French was impeccable. The French, though, could see through that to the hatred that burned beneath, ever since the deaths of both his father and his first wife, after brutal torture, in French prisons. They called him “a volcano under snow”. 

Nonetheless, he made an improbable soldier. He had no training, and would never have become a military commander, he said, if Ho Chi Minh, the leader of the Vietminh forces and later of North Vietnam, had not decided it for him. He first met Ho (above, top right) in China, realised they had been to the same school, and idolised him, from his tufty beard to his white rubber sandals. He called him “Uncle”; Ho called him “beautiful as a girl”. 

In government, where he was in charge of “revolutionary order” as well as the troops, the political and military progress of the revolution were strictly co-ordinated. Both Dien Bien Phu and the multi-target Tet offensive of 1968 (which he still masterminded, though he was in eastern Europe at the time) were meant to inflict massive demoralisation on the enemy, and to turn the French and American people against the war itself. In both battles the Vietnamese too took huge casualties, which he did not dwell on. He was proud, hot-tempered, blustered into a number of unnecessary pitched battles—but won his two wars, just the same, demonstrating irresistibly to the rest of the colonised world that a backward peasant country could defeat a great colonial power.

After Ho’s death in 1969 he lost influence, and envious colleagues pushed him aside. Some said he was an indifferent communist; he disliked the hardline clique that ran the country, and in old age publicly attacked the party for corruption and bauxite-mining. He remained a huge hero in Vietnam, whose re-emergence as a united and prospering country gave him great joy. Revolutionary work, he wrote once, was largely foresight: knowing not just what the enemy might do tomorrow but also how, in future, the world was going to change. On the bloody field of Dien Bien Phu, he saw that with absolute clarity.


HCM by Karnow

KILLING GOLIATH

When General Vo Nguyen Giap assembled his army from North Vietnam's poorest villages, Westerners watched with contempt. But Giap's tactical genius turned the guerrillas into a sharp anti-imperialist weapon. His mastery of jungle tactics and battlefield psychology terrified and eventually defeated the French and Americans. Western scorn was replaced with horror and, as time passed, respect. 

France undervalued ... the power [Ho] wielded. There's no doubt that he aspired ... to become the Gandhi of Indochina. 

JEAN SAINTENY, De Gaulle's special emissary to Vietnam, 1953

*

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...".

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Hà, hà!

The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered, 'Why?'

Trước khi xẩy ra cú tấn công
[Điện Biên Phủ]

5 Tháng Giêng [1954]

Tôi luôn cảm thấy mình có tí ti tội lỗi, khi làm một nhà du lịch dân sự, ở những vùng thần chết ngự trị: nói cho cùng, một cái gã còn được gọi là một người, không nên đi tham quan một thảm họa, ngoại trừ là nhân viên cứu trợ - một con người cảm thấy mình là 1 nhà “thấu thị”, a “voyeur”, trước bạo lực, như tôi cảm thấy, trong một cú tấn công [của VC] ở Phát Diệm, hai năm trước đây. Ở đó, bạo lực đã có mặt rồi: một ngôi chợ cháy, những căn nhà bị tàn phá, con phố dài vắng hoe không người qua lại, hay bén mảng, vì sợ bị bắn xẻ. Nó cũng hiện diện trên con kênh đầy xác người đến nỗi nước không thể chảy được, với một cái thuyền lính nhẩy dù ở mép kênh. Nó cũng tới thăm tận nhà, qua những chuyến hành quân kiểm tra, khi một bà mẹ và đứa con trai còn nhỏ của bà, mất mạng, khi bị kẹt giữa hai luồng đạn đối nghịch,

Họ để lại cơn hốt hoảng nào, cho đám dân làng sống giữa hai lằn đạn như thế?
Tôi đã từng cảm thấy cơn hốt hoảng này, lần bị lọt vào giữa, một bên Việt Minh, và một bên là lực lượng Lê Dương.
 Tôi tự bảo mình, tôi thù ghét chiến tranh, tuy nhiên, tôi lại mò tới đây – làm một kẻ 'thấu thị' với những mánh mung của mình .
Graham Greene

Còn 1 hồi nhớ khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.

Mười lăm trận quyết định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954. 

Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.

Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao? (1)

The assault began on 13 March 1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates turned at last from the question of Korea to the question of Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu while they were discussing at such length the problem of Korea, would have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien Phu by artillery alone.
So the battle had to be fought with the maximum of human suffering and loss. M. Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers to commit Britain and America to a division of the country.


The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered, 'Why?'

Cuộc tấn công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.
Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng chảo DBP.
Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người....  Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.

Con ma nham hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm, Tại sao?

Graham Greene: Ways of Escape


Về cái chết của Tướng Võ Nguyên Giáp

Tháng 11 6, 2013

 
Thomas A. Bass

Bùi Xuân Bách dịch 

Giờ đây viên tướng đã qua đời, nhưng có lẽ con người này còn có thể hồi sinh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất hôm mồng 4 tháng 10-2013 ở tuổi 102. Những cáo phó, sơ lược tiểu sử về ông, nhiều bản trong số đó được viết từ nhiều năm trước, chỉ cung cấp một sự diễn dịch chính thức về một cuộc đời mà chỉ gần đây các nhà sử học mới khai thác, một cuộc đời – bất chấp sự trường thọ của nó – chưa hề được xem xét chi tiết. 

Những bản cáo phó về Tướng Giáp, cùng một lúc đã gán cho ông quá nhiều và quá ít công trạng. Ông  quả thực là kiến trúc sư của chiến thắng huy hoàng tại Điện Biên Phủ năm 1954 chống người Pháp, chấm dứt cuộc chiến Đông Dương thứ nhất, và Graham Greene đã đúng khi gọi đó là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thế giới. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa thực dân phương Tây, một đạo quân châu Á đã đánh bại một đạo quân châu Âu trong một trận đánh chính quy. Thông điệp đã vang vọng tới Algeria và các thuộc địa khác, trong khi họ noi theo tấm gương thành công của Việt Nam. “Việc những thanh niên Mỹ vẫn tiếp tục chết ở Việt Nam chỉ nói lên rằng, cần phải có thời gian để tiếng vọng, thậm chí, của một thất bại hoàn toàn có thể đi hết một vòng quả đất”, Greene viết. 

Phần lớn những cáo phó về Tướng Giáp đều gắn cho ông công lao đã chiến thắng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong đó đều nói rằng ông đã dàn dựng kế hoạch cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 và chiến dịch cuối cùng, chiến dịch kết thúc cuộc chiến với sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn năm 1975. Những phát biểu này hoàn toàn tảng lờ các thông tin được biết trong những năm gần đây, các tài liệu lưu trữ và những nét tiểu sử chỉ giờ đây mới phát lộ. Ngay từ năm 1963, sau khi phản đối Nghị quyết 9 về việc tiến hành chiến tranh trực tiếp chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tướng Giáp đã bị gạt sang một bên trong cuộc tranh giành quyền lực của Lê Duẩn cùng các nhà lý luận khác trong Đảng. Sau đó, ông Hồ tự cách ly mình ra bằng cách đi Trung Quốc chữa bệnh. Ông Giáp thì đi Hungary. Tướng Giáp đã ở lại Hungary năm tháng, khi cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân được lên kế hoạch. Mãi hai ngày trước khi chiến dịch bắt đầu, một chiếc chuyên cơ của Trung Quốc mới chở ông về lại ViệtNam. Giáp – người mà danh chính ngôn thuận vẫn là Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng Quốc phòng – đã bàng hoàng khi được biết những chi tiết về cuộc tiến công biển người vào các đô thị Nam Việt Nam và các mục tiêu quân sự khác. Ông biết rằng các lực lượng vũ trang giải phóng trong Nam quá thua kém về mặt hỏa lực và không một cuộc đồng khởi nào có thể cứu họ khỏi bị tàn sát. Điều mà ông nhận được chỉ vì ông đúng – là một dạng lưu đày mới, ngay trong nội bộ. Ba chục tướng tá và những người cộng sự gần gũi của ông đã bị bắt và bỏ tù vì họ đã không nhiệt tình đầy đủ trong việc ủng hộ đường lối của Đảng. 

Là người lính có kỷ luật, suốt năm mươi năm Tướng Giáp đã giữ kín miệng về cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng. Những đồng sự cộng sản đã hạ tầng công tác của ông, từ Phó Thủ tướng xuống Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có Kế hoạch, nhưng sống càng lâu, ông càng trở thành biểu tượng của sự thông minh và trung thực, lòng dũng cảm và sự nhìn xa trông rộng của dân Việt. Ông đã phát biểu chống lại sự tham nhũng và nhà nước công an khắc nghiệt của Việt Nam. Ông đã chống lại việc Chính phủ cho phép Trung Quốc khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên. 

Trong khi tin tức về việc ông qua đời lan truyền trên mạng internet – không có một thông báo chính thức nào được công bố cho tới ngày hôm sau – hàng trăm nghìn người Việt Nam đã đổ ra các đường phố mang theo những bó hoa vàng và ảnh của con người đã từng tham gia tạo nên nước Việt Nam hiện đại và cũng là người đại diện tiêu biểu nhất cho những hy vọng và giá trị của đất nước. Mọi người đã khóc vì tất cả những gì họ đã phải chịu đựng trong suốt ba mươi năm chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Họ khóc vì những lời hứa cuội của những con người tầm vóc nhỏ hơn ông, nhưng đã gạt ra rìa một viên tướng vĩ đại. 

Tôi đã đến thăm nhà báo Sài Gòn kiêm điệp viên Phạm Xuân Ẩn chỉ ít lâu trước khi ông mất năm 2006. Lúc đó ông bước tới cái ngăn kéo trong phòng khách của mình và lôi ra một tập giấy. “Đây là bức thư mười bảy trang của Tướng Giáp”, ông nói. Đó là một trong những bức thư tướng Giáp gửi cho Bộ Chính trị vào cuối đời, phê phán ảnh hưởng của Trung Quốc trong công việc nội bộ của Việt Nam, nạn tham nhũng, hối lộ, việc theo dõi của công an, sự tàn phá môi sinh, và những căn bệnh xã hội khác. Ẩn kể với tôi rằng, ba mươi tướng lĩnh đã ký thỉnh nguyện thư ủng hộ Tướng Giáp. “Thật nguy hiểm nếu anh đứng về một phía nào đó”, Ẩn nói. “Nguyên nhân khiến chúng tôi không có sách lịch sử Việt Nam do người Việt Nam viết, là do anh không thể nói thật. Đó là tại sao tất cả sách trên giá của tôi đều do người ngoại quốc viết.” 

Thượng nghị sĩ John McCain và những nhà bình luận khác đã từng phê phán ông Giáp về việc phí phạm sinh mạng những người lính của mình. Sự nhẫn tâm của ông không thể nào so sánh được với các viên chỉ huy người Anh trong Đại chiến Thế giới thứ nhất, và ông đã phản đối ý kiến của các cố vấn Trung Quốc, muốn dùng chiến thuật biển người để đánh Pháp tại Điện Biên Phủ. Thay vào đó, Tướng Giáp đã lựa chọn chiến thuật bao vây và kiên trì sử dụng pháo binh. Những lời khuyên còn tồi tệ hơn của Trung Quốc đã góp phần tạo ra cuộc Tổng tấn công Mậu Thân. Tướng Giáp không phải người để đổ lỗi về thất bại quân sự nặng nề này, với cái giá phải trả là một nửa số quân của cộng sản ở miền Nam và việc xóa sổ các đơn vị Việt cộng như những lực lượng chiến đấu.  Sự phê phán cuối cùng của McCain, rằng Tướng Giáp đã liều lĩnh đẩy đất nước của ông tới chỗ “bị tàn phá gần như hoàn toàn”, để “đánh bại bất cứ địch thủ nào, dù họ có mạnh tới đâu chăng nữa” cũng có thể áp dụng cho những nhà cách mạng thành công khác – như George Washington chẳng hạn.

Trong số các cán bộ cách mạng Việt Nam, Tướng Giáp là người được giáo dục theo phương pháp cổ điển, với bằng cấp về triết học, lịch sử, luật pháp và chính trị, một người vượt trội hơn hẳn trong cái ban lãnh đạo tập thể không rõ mặt của đất nước ông, một người yêu phong lan và văn chương Pháp – thậm chí cả sau khi người Pháp đã tra tấn vợ ông tới chết – người đã dám đương đầu với mạng lưới kiểm duyệt của Việt Nam để nói lên sự thật. Chẳng có gì đáng  ngạc nhiên khi có hàng trăm nghìn người Việt Nam đã dự đám tang và tiễn đưa quan tài của ông tới nơi chôn cất, trên một sườn núi trông ra biển. Ông đã mở ra một thế giới hiện đại, hậu thực dân. Ông là biểu tượng của độc lập và quyền tự quyết. Những gì ông đã nói là một động lực cho cái Thiện trên đời này, và những gì ông chưa nói ra thì lại thuộc về chúng ta để khám phá. Giờ đây viên tướng đã đi xa, ta hãy nhìn lại con người này. 

20-10-2013 

Thomas A. Bass, GS Anh ngữ và Báo chí tại Viện Đại học Tiểu bang New York (SUNY), Albany, là tác giả của hai cuốn sách về Việt Nam, The Spy Who Loved Us: The Vietnam War and Pham Xuan An’s Dangerous Game) và Vietnamerica: The War Comes Home. Ý kiến của ông đã được đăng (có lược chút ít) trên tờ Washington Post ngày 2-11-2013, nhan đề “The man who was Vietnam’s master of war”. Bản dịch này được thực hiện theo nguyên bản do tác giả cung cấp, nhan đề “On the Death of General Vo Nguyen Giap”.

 

Bản tiếng Việt © 2013 Bùi Xuân Bách & pro&contra

The man who was Vietnam’s master of war

Now that the general has died, perhaps the man can come to life. Gen. Vo Nguyen Giap died Oct.4 at the age of 102. His obituaries, many written years ago, report official versions of a life that only recently has been explored by historians and still has yet to be examined in detail. 

Giap’s obituaries give the man both too much and too little credit. He was indeed the architect of Vietnam’s remarkable 1954 victory at Dien Bien Phu, which ended the first Indochinese war, against the French. This was the first time in the history of Western colonialism that Asian troops defeated a European army in fixed battle. The message went out to Algeria and other colonies, as they began emulating Vietnam’s success. “That young Americans were still to die in Vietnam only shows that it takes time for the echoes even of total defeat to circle the globe,” said writer Graham Greene.

Most of Giap’s obituaries also credit him with winning the second Indochinese war, against the United States. They claim he masterminded the Tet Offensive of 1968 and the final campaign that ended the war with the fall of Saigon in 1975. These statements ignore the archival material and biographical traces only now coming to light. As early as 1963, after opposing a Communist Party resolution to begin warring directly against the United States, President Ho Chi Minh and Giap were sidelined in a power grab by Le Duan and other party ideologues. Later, Ho would exile himself to China, Giap to Hungary. This is where Giap lived for five months when the Tet Offensive was planned. Flown back to Vietnam on a Chinese airplane two days before the campaign began, Giap — who was still nominally commander in chief of the armed forces and minister of defense — was dismayed to learn the details of this human-wave assault on South Vietnamese cities and other military targets. He knew the southern forces were outgunned and that no popular uprising would save them from being slaughtered. What he got for being right was a new kind of internal exile. Thirty of Giap’s closest associates had already been arrested and imprisoned for not being enthusiastic enough in their support of the Communist Party.

For 50 years, the good soldier Giap kept his mouth shut about Vietnam’s internal power struggles. His Communist colleagues shoved him down the ranks, from deputy premier to director of family planning, but the longer Giap lived, the more he came to embody the intelligence, decency, courage and foresight of his people. He spoke out against Vietnam’s draconian police state and corruption. He fought against the government allowing China to strip mine bauxite in the Central Highlands.

As news of Giap’s death spread, hundreds of thousands of Vietnamese poured into the streets holding yellow flowers and photos of the man. People wept for all they had suffered during 30 years of warring against the French and Americans and for the broken promises of the lesser men who had sidelined the great general.

I was visiting the Saigon journalist and spy Pham Xuan An shortly before his death in 2006 when he showed me a sheaf of papers. “This is a 17-page letter from General Giap,” he said. The letter was one of several that Giap sent late in his life to the Politburo, attacking Chinese influence in Vietnamese affairs, bribery, corruption, police surveillance, environmental depredation and other social ills. An told me that 30 generals had signed a petition supporting Giap. “It is dangerous to take sides,” he said. “The reason we have no history of Vietnam written by Vietnamese is that you can’t tell the truth. That’s why all the books on my shelves are written by foreigners.”

Sen. John McCain and others have criticized Giap for being profligate with the lives of his soldiers. He was nowhere near as ruthless as British commanders in World War I, and he rejected the counsel of Chinese advisers who wanted to use human-wave attacks against French forces at Dien Bien Phu. Giap opted instead for siege techniques and the patient use of artillery. More bad advice from China crafted the Tet Offensive. Giap is not to blame for this military blunder, which cost the Communists half their soldiers in the south and destroyed the Vietcong as a fighting force. McCain’s criticism that Giap risked “the near total destruction” of his country “to defeat any adversary, no matter how powerful” might be applied to other successful revolutionaries — George Washington, for example.

Giap, the one classically trained member of Vietnam’s revolutionary cadre, with degrees in philosophy, history, law and politics, stood out in his country’s faceless collective leadership. He was a lover of orchids and French literature — even after the French tortured his wife to death. He braved Vietnam’s censors to speak the truth. No wonder hundreds of thousands of Vietnamese attended his funeral. He ushered in the modern, post-colonial world. He stood for independence and self-determination. What he said was meant to be a force for good in the world, and what he left unsaid is ours to discover.




 

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’