Robert Lowell





Elegy: for Robert Lowell

I

In the autumnal blue
of your church-hooded New
England, the porcupine
sharpens its golden needles
against Bostonian bricks
to a point of needless
blinding shine.

White foam kneels and breaks
on the altar. People's
eyes glitter inside
the church like pebbles
splashed by the tide.

What is Salvation, since
a tear magnifies like glass
a future perfect tense?
The choir, time and again,
sings in the key of the Cross
of Our Father's gain,
which is but our loss.

There will be a lot,
a lot of Almighty Lord,
but not so much as a shred
of your flesh. When man dies
the wardrobe gapes instead.
We acquire the idle state
of your jackets and ties.

II

On the Charles's bank
dark, crowding, printed letters
surround their sealed tongue.

A child, commalike, loiters
among dresses and pants
of vowels and consonants

that don't make a word. The lack
of pen spells
their uselessness. And the black

III

Planes at Logan thunder
off from the brown mass
of industrial tundra
with its bureaucratic moss.

Huge autoherds graze
on gray, convoluted, flat
stripes shining with grease
like an updated flag.

Shoals of cod and eel
that discovered this land before
Vikings or Spaniards still
beset the shore.

In the republic of ends
and means that counts each deed
poetry represents
the minority of the dead.

Now you become a part
of the inanimate, plain
terra of disregard
of the common pain.

IV

You knew far more
of death than he ever will

learn about you or
dare to reveal.

It might feel like an old
dark place with no match
to strike, where each word
is trying a latch.

Under this roof
flesh adopts all
the invisibility of
lingering soul.

In the sky with the false
song of the weathercock
your bell tolls
-a ceaseless alarm clock.

1977

Joseph Brodsky

Note [by the ed.]: This poem was written in English

Bi Khúc dành cho Robert Lowell

Elegy: for Robert Lowell

I

Trong màu xanh mùa thu, của ngôi nhà thờ của bạn ở New England
Mái giống như 1 cái nón chùm đầu
Những con nhím mài những sợi lông mầu vàng của chúng
Vào những viên gạch
Đến trở thành nhọn hoắt, sáng lòa

Bọt biển trắng quì xuống,
Vỡ tan thành từng miểng
Ở nơi bàn thờ
Những tín hữu, ở bên trong nhà thơ,
Mắt sáng ngời
Như những hòn sỏi
Tung toé trước sóng biển

Cứu Rỗi nghĩa là gì
Kể từ khi mà
Nước mắt lung linh như pha lê
Của một tương lai hoàn hảo?
Đội đồng ca, nữa, lại nữa nữa
Xướng lên
Trong chiếc chìa khóa của Cây Thập Tự
Của sự thu nhập của Vì Cha Của Chúng Ta
Nhưng với chúng ta, chỉ là mất mát

II


Ở phía Charles
Tối, đông đúc, những tờ chữ
Vây hãm cái lưỡi đóng khằn của chúng

Một đứa bé, giống như cái dấu phết, những tên la cà,
Giữa những chiếc áo dài, quần dài
Của những nguyên âm và phụ âm

Cái thứ như thế đó, đâu làm nên thành 1 từ, 1 chữ
Đếch có cây viết, chính điều này phán lên, sự vô dụng

Một chiếc Cadillac, như 1 con thuyền,
Dăng buồm qua những tiếng còi hụ của xe cảnh sát
Đâu có khác chi một Odysseus câm lặng

III

Phi cơ, những thần sấm thần sét
Từ khối đất màu nâu tundra, kỹ nghệ, phủ 1 màn rêu bàn giấy, bay lên

Những “autoherds” lớn xướt qua
Trên những vạch mầu xám, xoắn xuýt, bèn bẹt, lấp lánh mỡ
Như lá cờ được tân trang – updated.

Những bãi nông cá chim, cá chình, lươn
Đã khám phá ra vùng đất này
Trước cả hai giống dân Vikings, hay Spaniards
Vẫn xúm xít vây quanh bãi biển.

Trong nền cộng hòa của những mục đích và phương tiện
Nó tính đếm như thế này:
Mỗi thành tựu thi ca tượng trưng cho thiểu số những người chết.
Bây giờ, bạn trở thành 1 phần của mảnh đất giản dị, trần trụi, vô hồn
Của sự lơ là - đếch thèm coi trọng, disregard - của nỗi đau chung

IV

Bạn thì quá rành về cái chết
Như nó sẽ từng
Học về bạn
Hay, dám trưng ra.

Có vẻ như người ta sẽ cảm thấy
Đó là 1 nơi chốn xưa cũ, u tối
Vô địch thủ
Không nơi nào khác dám chọi lại nó
Nơi, mỗi từ là một ướm, thử một cái then cửa

Dưới cái mái nhà này
Da thịt, cái còn sống
Chấp nhận tất cả cái vô hình
Của 1 linh hồn dai dẳng

Trong bầu trời
Của bài ca dởm, giả
Của cái chong chóng
Cái chuông của bạn gõ lên một cú thức tỉnh không ngừng

1977





 
ROBERT LOWELL
(1917-1977) 

Volume by volume, the books of Robert Lowell revealed the age in which he lived, both drawing its portrait and animating its conscience. At the time of his death, Lowell was the most prominent, influential, and honored American poet of his generation. Born in Boston, the heir to a patrician New England family, he was instinctively rebellious; he dropped out of Harvard (preferring to study at Kenyon College with John Crowe Ransom), converted to Catholicism, and served time in jail as a conscientious objector during World War II. His troubled family history, broken marriages, and manic-depressive episodes later became the subjects of his poems, beginning with the celebrated Life Studies in 1959, a book that also marked a shift away from the dense symbolic rhetoric of his early work toward a more open, febrile style. His preference for existential narrative, his calculated use of surreal imagery, his deployment of historical allusion, and his confessional method-these were constant during his career, as were themes of will, authority, breakdown, and recrimination in history and his own life. Lowell was active as a teacher, translator, and playwright; he twice won the Pulitzer Prize (in 1947 and 1974), in addition to the National Book Award (1960), the Bollingen Prize (1962), the National Book Critics Circle Award (1978), and many others.
The Vintage Book of Contemporary American Poetry, second edition 2003



 
Bồ câu


Vẫn những chuyến bay cũ, vẫn những trở về nhà cũ
Chừng một tá, mỗi ngày
Nhưng sau cùng, những con bồ câu duỗi /dứt /thoát… ra khỏi những cái lồng….
Nhà nghĩa là cái quái gì, nếu không phải là nỗi nhớ nó
Cho khoảnh khoắc biệt tăm, của cơn kinh hoàng lững lờ,
Của chuyến bay?


Trở về với cái chuồng, có 1 con chim khác
Cho tất cả những cơ may, những run rủi… con chim đẹp nhất.
Chẳng bao giờ bay,
Chẳng biết gì về sự dịu dàng
Tuy nhiên, bằng khốn khổ, đau thương, của lũ…. Ngụy,
Trong đấu trường
Chỉ khi đó, trái tim mới có thể biết, có thể học được, “đập” nghĩa là gì? 


Hãy nghĩ tới vua Leonidas, có thể, hay những chiến binh “holites”
Lấp lánh, sáng ngời với niềm tin giải phóng


[Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai. TTT]


Khi họ trải tóc cho nhau, bộ tóc vàng Botticellian
Ở Thermopylae, bạn bè và người yêu, cô dâu và chú rể-
Và đứng vào vị trí, để chết


[Chúng nó làm Cộng Sản
Chúng ta làm tù nhân. TTT]


Leonidas I - Wikipedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Leonidas_I

Leonidas I was a warrior king of the Greek city-state of Sparta, and the 17th of the Agiad line; a dynasty which claimed descent from the mythological demigod ...
Hoplites (Greek: Ὁπλιτης) were citizen-soldiers of Ancient Greek city-states who were primarily armed with spears and shields. Hoplite soldiers utilized the phalanx formation in order to be effective in war with fewer soldiers.

Pigeons 

(For Hannah Arendt)

The same old flights, the same old homecomings,
dozens of each per day,
but at last the pigeon gets clear of the pigeon-house . • •
What is home, but a feeling of homesickness
for the flight's lost moment of fluttering terror?

Back in the dovecote, there's another bird,
by all odds the most beautiful,
one that never flew out, and can know nothing of gentleness….
Still, only by suffering the rat-race in the arena
can the heart learn to beat.

Think of Leonidas perhaps and the hoplites,
glittering with liberation,
as they combed one another's golden Botticellian hair
at Thermopylae, friends and lovers, the bride and the bridegroom-
and moved into position to die.

Robert Lowell: Imitations 
[Lộng dịch,THNM]

Note:

Chỉ là đang nhớ nhà, Sài Gòn, và Huế, khi nhìn bức hình
What is home, but a feeling of homesickness…
for the flight’s lost moment of fluttering terror?
Qu'est-ce que la maison, sinon un sentiment de mal du pays
pour le moment perdu de vol de terreur flottante ?

Nhà nghĩa là gì nếu không phải là nỗi nhớ nó
Cho 1 khoảnh khắc mất mát của chuyến bay của cơn kinh hoàng lững lờ?
Từ "kinh hoàng", THNM, thì bèn bật ra Mậu Thân, và Huế.

Tks, both of U
NQT
 
Quoc Tru Nguyen shared a post.

Tự Khúc Gọi Người

Em

Em về tự hôm qua
hỏi dậm sân cỏ trước nhà
đã lâu không cắt
trăn trở cành
bụi hoa khập khễnh
Gió mù, hơi thở hổn hển những con đường
ngấu nghiến nhai, thời gian tất bật
hàng thông già nhễ nhại cơn mê
Em về tự hôm qua
đau đáu khoảng quá khứ gạch ngói
màu son, màu thẳng đứng
tiếng dương cầm tìm lại những ngón tay
Em về tự hôm nay
khánh kiệt trên từng sợi tóc
con chó già tru tiếng
mạng nhện trong con mắt lừ đừ, khốn khó
bài đồng ca không trọn hơi
và thời gian vữa nát
Khoảng trời lặng chờ con trốt
Em cũng lặng thinh
tất cả rồi sẽ bị cuốn trôi
như con nước ung thư
định mệnh yểu
Em về,
Em về, em về
tự hôm qua, tự hôm mai
và tự hôm nay
Em về, em về
Em về
phả hương thời con gái
bưng mặt khóc
giọng cắt da.
Đài Sử

Mùa Em

Thu đến
Và em cũng đến
Lá ngơ ngẩn chuyển màu
theo từng bước em qua
Nắng bàng bạc
bờ mi nào buông rủ
Gió man mác buồn
cho dài ngọn tóc mai
Phố
Người
Vắng
Em nụ cười hun hút
Màu ấm môi hôn
Hàng cây khẳng khiu gầy
Mùa cỏ cuối
nghe dậy mùi hoang vắng
Em đi
và mùa thu lặng lẽ,
theo em.
Đài Sử
Note: Đài Sử là con trai TTT

Thơ của anh, không tới được cõi thơ của Bố, cực kỳ đàn ông, virile – theo cái nghĩa mà Lukacs sử dụng để định nghĩa tiểu thuyết, hay đúng hơn cõi người khi không còn thần thánh nữa – khi thần thánh đã bỏ chạy, “tiểu thuyết là để diễn tả cõi không nhà siêu việt” – nhưng thoát ra được cõi thơ vãi nước đái của thơ Mít, đúng như Bùi Giáng diễn tả, em chưa đái mà hồn anh đã ướt. Thơ của anh, nằm trong cõi mà Hirsch diễn tả, trong bài Intro cho tuyển tập thơ hay nhất Huê Kỳ 2016, mà ông là nhà biên tập khách mời. Từ từ, Gấu dịch, và giới thiệu, hầu độc giả New Tinvan và FB.

(1)

Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la maturité virile).

Trang Thơ Đài Sử

Một Thoảng Sài Gòn

Sài Gòn chiếc xích lô mất tích
Áo quần lính quýnh thả nắng loang
Sài Gòn mờ mắt hàng me cũ
Gió lộng ngang đầu ngây ngấy ban trưa
Sài Gòn nói chuyện xưa như diễm
vẫn phì cười làm tà áo chông chênh
Sài Gòn thả con dốc dài do dự
Tượng Đức Mẹ nhìn em giấu cả bàn tay
Sài Gòn thoảng mùi hương dạ lý
Áo trắng dài làm chới với gót chân
Sài Gòn vắng những chiếc xe lọc cọc
đạp một thời chở những giấc mơ rong
Sài Gòn cũ bơ phờ vóc dáng
em vẫn đứng chờ mưa từng hạt rơi nhanh
Sài Gòn dễ đồng đô la trong túi
Sài Gòn mơ những con phố xa xăm
Sài Gòn bụi đôi mắt em vẩn đục
“Kiều” Nguyễn Du bám chặt mãi tôi em
Sài Gòn tháng Giêng tôi đứng cuối tháng Chạp
tháng Sáu mưa sa hàng hiên nhỏ ướt lưng ong
Sài Gòn chật chội tôi một mình trơ trẽn
“Áo mão cân đai” hàng mã đốt nghiã trang
Sài Gòn cũ tôi tìm tôi trong đó
Hụt dài hơi con phố lạ tên xưa
Mưa bong bóng mưa dài mưa bất tận
Nắng Sài Gòn có đủ hong khô
Sài Gòn mới tôi đứng sau cánh cửa
tiếng gõ khan bóng ai đổ bên cầu
mùi thạch thảo vấn vương đóa hồng cũ
vỡ tan hoang mù tro nấm mộ hoang.
Đài Sử

Note:
Gấu mê nhất câu:
Sài Gòn cũ tôi tìm tôi trong đó.
Tks. NQT



Our Dead Poets 
Their lines string out from nowhere, stretch to sorrow.
I think of the others who once had the top billing,
ironclads in our literary havoc,
now even forgotten by malice. "He exists,"
as an old Stalinist luminary said of a friend
sent to Siberia. "Cold helps him to compose."
As a child Jean Stafford stood on a chair to dress;
"It's so much easier." It's easier not to dress,
not brush our teeth, flick off unopened mail.
Sometimes for days I only hear your voices,
the sun of summer will not adorn you again
with her garment of new leaves and flowers ...
her nostalgie de la boue that shelters ape
and protozoa from the rights of man. 
Robert Lowell
Nos poètes morts
Leurs lignes s'étirant de nulle part, s'étendent à la tristesse.
Je pense aux autres qui ont jadis eu la première place,
des cuirassés dans nos ravages littéraires,
maintenant même oublié par la malice. "Il existe"
comme un ancien luminaire stalinien dit d'un ami
envoyé en Sibérie. "Le froid l'aide à composer."
Enfant, Jean Stafford se tenait sur une chaise pour s'habiller;
"C'est tellement plus facile." C'est plus facile de ne pas s'habiller,
pas se brosser les dents, jetez le courrier non ouvert.
Parfois, pendant des jours, je n'entends que vos voix,
le soleil de l'été ne vous ornera plus
avec son vêtement de nouvelles feuilles et de fleurs ...
sa nostalgie de la boue qui abrite des singes
et protozoaires des droits de l'homme.

 
Những thi sĩ đã ngỏm của chúng ta

Những dòng thơ của họ, từ…. hư vô, vô thường, không biết xó xỉnh nào,
Bèn bò ra
Rồi tìm cách chuồn vào sầu muộn
Tớ nghĩ đến những đấng có thời đã ở trên đỉnh, hay, hơn cả thế nữa, đỉnh của đỉnh, kể cả về tiền bạc lẫn danh vọng, the top billing.
Những con tầu bọc sắt, ở trong cơn tàn phá văn học của chúng ra - chốn giang hồ gió tanh mưa máu, chắc là từ đó mà ra chăng, our literary havoc ? -
Bây giờ, đếch ai thèm nhớ đến, ngay cả “nhớ đến” theo nghĩa ma muội, bửn thỉu, ác độc.
“Ừ mà, đúng rồi, có thằng khốn đó!”
[Tớ đã từng nghe, chúng nói về thằng cha Gấu Cà Chớn, khi chưa ngỏm củ tỏi, nhưng được Đảng và Nhà Nước VC đầy đi nông trường cải tạo Đỗ Hòa - ở đám hải ngoại, kẻ thù của thằng khốn, từ thời còn Sài Gòn!]
Nguyên tác: “Có thằng cha đó”, như 1 tay cựu trào dưới thời Xì Ta Lin, nói về một người bạn bị đầy đi Siberia. “Cái lạnh sẽ giúp hắn sáng tạo”
Khi còn là 1 đứa bé, Jean Stafford đứng trên ghế mặc đồ.
“Dễ mà, dễ hơn nhiều.”
Dễ hơn là, không mặc đồ
Không đánh răng, dzục thùng rác, thư từ đếch thèm mở ra đọc
Đôi ba lần, thỉnh thoảng, tớ chỉ nghe giọng nói của bạn
Mặt trời mùa hạ sẽ chẳng còn ve vuốt, mươn man, vẽ vời, trang điểm bạn nữa
Với quần áo của nàng, là những lá cây xanh tươi, và những bông hoa…
“Nỗi nhớ bùn” của nàng che chở lũ khỉ vượn và giống “protozoa” –
Thoát khỏi quyền con người


Re: Nostalgie de la boue.

http://tanvien.net/Blog_Tin_Van/10.html

Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi .
Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
Tks. I am looking forward to reading your "To_Gau entry".
Cái hồn của văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn:
"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ.

Pasternak by Robert Lowell



 
Robert Lowell

Introduction 

 Pasternak has given me special problems. From reading his prose and many translations of his poetry, I have come to feel that he is a very great poet. But I know no Russian. I have rashly tried to improve on other translations, and have been helped by exact prose versions given me by Russian readers. This is an old practice; Pasternak himself, I think, worked this way with his Georgian poets. I hope I caught something worthy of his all-important tone.



Pasternak, đặc biệt, làm phiền tôi. Đọc thơ xuôi và rất nhiều bản dịch, thơ của ông, tôi nghĩ trong bụng, nhà thơ lớn, rất lớn. Nhưng tôi lại đếch biết tiếng Nga. Tôi bèn làm liều, dịch đại, theo nghĩa, làm cho nó khấm khá hơn, improve, những bản dịch khác, và được trợ giúp bởi những ấn bản thơ xuôi đích thực, do độc giả Nga cung cấp. Đây là 1 cách thực hành cổ, xưa: Pasternak, chính ông ta, cũng chơi, cùng 1 trò như vậy, theo tôi, với những nhà thơ Georgian. Tôi hy vọng, chôm được 1 cái gì đó thật có giá trị, của cái giọng rất kẻ cả, trưởng thượng, của ông – his all-important tone -



Wild Vines 
Beneath a willow entwined with ivy
we look for shelter from the bad weather;
one raincoat covers both our shoulders-                     '
my fingers rustle like the wild vine around your breasts.
I am wrong. The rain's stopped.
Not ivy, but the hair of Dionysus
hangs from the willows. What am I to do?
Throw the raincoat under us!
Pasternak.  

In the Woods 
A lilac heat sickened the meadow;
high in the wood, a cathedral's sharp, nicked groins.
No skeleton obstructed the bodies-
all was ours, obsequious wax in our fingers….
Such, the dream: you do not sleep,
you only dream you thirst for sleep,
that some one elsewhere thirsts for sleep-
two black suns singe his eyelashes.
Sunbeams shower and ebb to the flow of iridescent beetles.
The dragonfly's mica whirs on your cheek.
The wood fills with meticulous scintillations-
a dial under the clockmaker's tweezers.
It seemed we slept to the tick of figures;
in the acid, amber ether,
they set up nicely tested clocks,
shifted, regulated them to a soprano hair for the heat.
It seems a green and brown happiness flits beyond us;
sleep smothers the woods;
no elegiacs on the clock's ticking-
sleep, it seems, is all this couple is up to.
Pasternak



Dans les bois
 
Une chaleur lilas a rendu malade le pré;
haut dans le bois, les aigues coupées et déchirées d'une cathédrale.
Aucun squelette n'a obstrué les corps
tout était à nous, cire obséquieux dans nos doigts….
Tel, le rêve: tu ne dors pas,
vous ne rêvez que de votre soif de sommeil,
que quelqu'un d'autre a soif de sommeil
deux soleils noirs brûlent ses cils.
Les rayons du soleil se déversent sous l’effet du scarabée irisé.
La mica de la libellule tourne sur votre joue.
Le bois se remplit de scintillations méticuleuses
un cadran sous les pincettes de l'horloger.
Il semblait que nous avions dormi jusqu'au tonnerre des chiffres;
dans l'acide, l'éther d'ambre,
ils ont mis en place des horloges bien testées,
décalé, réglé sur un poil de soprano pour la chaleur.
Il semble qu'un bonheur vert et brun flotte au-delà de nous;
le sommeil étouffe les bois;
aucun élégiaque sur le tic-tac de l'horloge
Le sommeil, semble-t-il, est tout ce que ce couple prépare.
 
Pasternak



Trong rừng 


Tử đinh hương nồng, nặc, nóng, gây bịnh cho cánh đồng
Rừng cao, vòm thánh đường nhọn, rách
Chẳng bộ xương khô nào cản trở, gây rối những thân xác –
Tất cả là của chúng ta, sáp ong ngoan ngoãn, ở những ngón tay của chúng ta….
Thế đó, giấc mơ: Em đừng ngủ,
Em chỉ mơ, em khát ngủ
Hay, kẻ nào khác, ở đâu đó, khát ngủ -
Hai ông mặt trời đen đốt cháy lông mi của hắn ta.
Những tia nắng đổ xuống và rút đi, trên bầy ong sặc sỡ
Con chuồn chuồn nhựa quay quay trên má em
Rừng tràn đầy với những tia lấp lánh rất ư là chi li, tỉ mỉ -
Một cái mặt, dưới những cú gắp, của cây nhíp, của người thợ sửa đồng hồ
Có vẻ như chúng ta ngủ, tới sấm tới sét, của những con số;
Trong cường toan, trong ê te mầu hổ phách
Họ gọn gàng xếp đặt những chiếc đồng hồ thử nghiệm, lệch giờ, điều chỉnh lại, theo - cái gọi là - lông tóc soprano (hair) - cho phù hợp với cái nóng  
Có vẻ như, có, cái gọi là hạnh phúc xanh và nâu, lờ lững di chuyển quá đôi ta
Giấc ngủ ngột ngạt rừng, làm nó nghẹt thở;
Làm gì có, cái gọi là, những bi khúc dành cho tiếng tí tách của cái đồng hồ.
Ngủ, có vẻ như đó là tất cả những gì đôi ta có thể có, có thể sửa soạn, cho tới lúc này.



Hamlet in Russia, A Soliloquy 

"My heart throbbed like a boat on the water.
My oars rested. The willows swayed through the summer,
licking my shoulders, elbows and rowlocks-
wait! this might happen,
when the music brought me the beat,
and the ash-gray water-lilies dragged, and a couple of daisies blew,
and a hint of blue dotted a point off-shore-
lips to lips, stars to stars!
My sister, life!
the world has too many people for us,
the sycophant, the spineless-
politely, like snakes in the grass, they sting.
My sister!
embrace the sky and Hercules
who holds the world up forever
at ease, perhaps, and sleeps at night
thrilled by the nightingales crying….
The boat stops throbbing on the water….
           
The clapping stops. I walk into the lights
as Hamlet, lounge like a student against the door-frame,
and try to catch the far-off dissonance of life-
all that has happened, and must!
From the dark the audience leans its one hammering brow against me-
ten thousand opera glasses, each set on the tripod!
Abba, Father, all things are possible with thee-
take away this cup!
I love the mulishness of Providence,
I am content to play the one part I was born for…
quite another play is running now…
take me off the hooks tonight!
The sequence of scenes was well thought out;
the last bow is in the cards, or the stars-
but I am alone, and there is none . . .
All's drowned in the sperm and spittle of the Pharisee-
To live a life is not to cross a field." 
Pasternak.



Hâm Liệt ở Nga. Một cú độc thoại


Tim của tớ đập như 1 con tầu trên mặt nước.
Mấy cây chèo ngưng. Liễu lòa xòa trong hạ,
Liếm vai, khuỷu tay tớ, và những sỏi đá “cũng còn có nhau” ở bên dưới
Hãy đợi!
Điều có thể xẩy ra
Khi nhạc Trịnh đem nhịp điệu đến cho tớ
Và những bông loa kèn mầu nước xám tro, lê thê,
Và một cặp cúc thổi phù phù
Và 1 tí tí, hình như màu xanh điểm thành 1 dấu chấm, xa xa, bên ngoài bãi biển
Những bờ môi cho những môi bờ
Những vì sao cho những sao vì
Em gái ơi, đời ơi!
Thế giới quá nhiều người đối với đôi ta,
Kẻ nịnh hót, tên nhu nhược - rất ư là lịch sự, như những con rắn ở trong cỏ, chúng cắn, chúng đợp
Em gái ơi!
Ôm lấy bầu trời, và chàng Hercules
Kẻ đời đời nâng giữ thế giới, dễ dàng, thoải mái, có thể,
Và ngủ vào ban đêm
Sững sờ vì những tiếng khóc của họa mi
Con tầu ngưng, không còn đập trên nước

Tiếng vỗ tay ngưng.
Tớ bước vô vùng ánh sáng như Hâm Liệt
Loạng quạng như 1 chàng sinh viên trước khung cửa
Cố nắm bắt sự không đồng điệu xa vời của cuộc đời
Tất cả những gì xẩy ra, và phải!
Trong bóng tối, công chúng đưa cái trán búa tạ của nó ra, chống lại tôi
Mười ngàn cặp kính opera, mỗi cái trên 1 cái càng ba chân của nó!
Abba, Người Cha, tất cả thì đều có thể với kẻ - lấy chiếc cúp đi!
Tớ ngưỡng mộ sự giầu sang của Chúa
Tớ hài lòng đóng vai của mình khi được sinh ra…
Một vở kịch khác hầu như đang được trình diễn vào lúc này..
Gỡ tớ ra khỏi những cái móc câu tối nay!
Sự lớp lang của vở kịch được suy diễn thông suốt
Cú rạp mình cúi chào sau cùng thì ở trong những con bài, hay những vì sao
Nhưng tớ thì trơ ra, cô đơn, một mình, chẳng có ai khác….
Tất cả thì đều chết đuối trong tinh dịch hoặc khạc nhổ của Pharisee
Sống cuộc đời thì không dễ dàng như đi qua 1 cánh đồng


Note: Bài thơ này, để hiểu nó, thì phải biết tới 1 vài sự kiện: Pasternak là người dịch Hâm Liệt qua tiếng Nga, và, do Xì rất ghét Hâm Liệt, nên ra lệnh cấm xb, cấm trình diễn. Hâm Liệt như thế, là còn mang tính ẩn dụ, kẻ giết cha – ông bố Bắc Kít của thằng con trai trong Tuổi Hai Mươi yêu dấu của NHT, là cũng có ý nghĩa như vậy.
Và phải biết nguyên tác Hâm Liệt, của Pasternak, có post trên Tin Văn tanvien.net.

[post sau đây]

Về Pạt, thật nhã
Với những ai quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải Nobel ban cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà thơ mà thế giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca Akhmatova; một đại gia về dịch thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng cả!], thì mới dám đụng vô Shakespeare, vậy mà phải viết một cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây chấn động giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một best-seller, [có lẽ phải thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc đó, những thi sĩ của những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương tình để mắt tới.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế mà mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học Ðông Âu, và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một đại ác mộng về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng định với chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy vì những hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi, mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Tôi không kiếm thấy trong tác phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự chống đối triết học của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái sự ngần ngại khi phải đối đầu với những trừu tượng – và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng nghĩa – và đây là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô Viết là cuộc sống của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi chân thực. Ông chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago
là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người chống-Ky-tô.

Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần
, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với ông, thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw Milosz
ZHIVAGO'S POEMS
HAMLET
Bản tiếng Anh
 
The noise is stilled. I come out on the stage.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.
The darkness of night is aimed at me
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me. 
I love your stubborn purpose,
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.
Yet the order of the acts is planned
And the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).
(1) The last line is a Russian proverb


Bản tiếng Tây
 
Tout se tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend. 
Et je suis la cible des ténèbres
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!
Ton dessein têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.
Mais on a pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut changer le dénouement.
Je suis seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce n'est pas franchir un champ.  
 
Bản tiếng Mít
 
Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.
Tôi trở thành cái đích của đêm đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.
Con yêu cái ý định bướng bỉnh của cha.
Con b
ằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.
Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee
.

Sống, không có đơn giản như là vượt qua 1 cánh đồng. (1)

(1)
Tục ngữ Nga

*

Pasternak à Peredelkino en 1946

http://www.tanvien.net/tgtp_02/Pasternak_by_Milosz.html
































Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư